Hai mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng là người khởi xướng và trực tiếp lãnh đạo, với
sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, chúng ta đã thu được
những thành tựu rất đáng tự hào, thực sự to lớn và có ý nghĩa lịch sử cả về
lý luận lẫn thực tiễn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Với xuất phát điểm là đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới
về tư duy chính trị trong hoạch định đường lối và ban hành chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội; lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, tạo
tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây
dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội; lấy xây dựng và chỉnh đốn Đảng làm nhiệm vụ then
chốt để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; lấy phát triển
văn hoá theo hướng xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc làm cơ sở để xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội…, sau 20
năm đổi mới, “đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, có sự thay
đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị – xã hội
ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc
tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt
đẹp”(1).
Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử đó đã chứng
tỏ một cách hết sức rõ ràng rằng, đường lối đổi mới mà Đảng đề ra tại Đại hội
VI và từ đó đến nay, liên tục được bổ sung và hoàn thiện thêm tại các Đại hội
và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thích ứng với xu thế phát triển của thời
đại. Những thành tựu đó cũng chứng tỏ nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trên nền tảng chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã ngày càng sáng tỏ hơn. Không chỉ thế
mà hơn nữa, những thành tựu đó còn chứng tỏ hệ thống quan điểm lý luận về
công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, sau 20 năm, mặc dù còn không ít vấn đề cần phải tiếp tục
nghiên cứu một cách sâu sắc hơn, nhưng về đại thể, đã được hình thành trên
những nét cơ bản và làm nên cơ sở khoa học để Đảng hoạch định đường lối, ban
hành chủ trương, chính sách và xây dựng chiến lược phát triển cho những năm
tiếp theo của công cuộc đổi mới đất nước.
Trên thực tế, sau 20 năm đổi mới, mặc dù vẫn còn có những
hạn chế, yếu kém nhất định do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả nguyên nhân chủ
quan lẫn nguyên nhân khách quan, song nhìn chung, bộ mặt đất nước đã thực sự
đổi thay, đời sống nhân dân, cả về vật chất lẫn tinh thần, đã được cải thiện
rõ rệt. Mỗi chúng ta, mỗi người dân, mỗi gia đình Việt Nam đều cảm nhận được
một cách sâu sắc ý nghĩa lịch sử lớn lao của sự thay đổi đó. Dư luận thế giới
cũng thừa nhận và đánh giá cao thành tựu đổi mới của Việt Nam. Song, điều
quan trọng hơn là, sau 20 năm đổi mới, tư duy lý luận của Đảng đã có được
bước tiến mới, Đảng đã có sự nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn để lấy đó bổ
sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội, về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên một loạt vấn đề, đồng thời
tiếp tục vận dụng lý luận đó một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế vận động trên thế giới hiện nay. Sau 20 năm đổi mới, giờ đây,
Đảng ta đã có đủ điều kiện để nhìn lại một cách đầy đủ hơn, toàn diện hơn quá
trình đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với tất cả những
thành tựu và hạn chế của nó. Chính vì vậy, tổng kết 20 năm đổi mới để qua đó,
rút ra những bài học kinh nghiệm, lý giải, kết luận một số vấn đề lý luận –
thực tiễn nhằm đưa công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ngày càng đi vào chiều sâu và trên quy mô rộng lớn đã được Đảng xác định là
một trong những nhiệm vụ cốt yếu của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Thực hiện nhiệm vụ này trên tinh thần chủ đề của Đại hội
là “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển”, Đảng ta đã đưa ra và khẳng định
nhiều vấn đề lý luận – thực tiễn về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi không thể đề
cập đến tất cả những vấn đề đó, mà chỉ có thể tập trung vào một số vấn đề
trọng tâm sau đây:
1. Về mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Khi tiếp tục khẳng định với những nhận thức mới ngày càng
sâu sắc hơn, đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội với tư cách mục tiêu, lý tưởng
của Đảng và nhân dân ta, đi lên chủ nghĩa xã hội không chỉ là yêu cầu khách
quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam, mà còn phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại, đồng thời nhấn mạnh giá trị định hướng và chỉ đạo to
lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội mà giờ đây, mặc dù cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát
triển, nhưng vẫn giữ nguyên ý nghĩa là nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi
hoạt động của Đảng trong quá trình đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, một
lần nữa, Đảng đã xác định rõ những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội với
sự bổ sung thêm các đặc trưng mà thực tiễn những năm đổi mới vừa qua đã khẳng
định.
Coi mục tiêu chiến lược của công cuộc đổi mới đất nước là
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng lãnh đạo để
đảm bảo thực hiện mục tiêu chiến lược đó và thực thi quyền làm chủ của nhân
dân cũng là những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang
hướng tới, Đảng đã khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được
giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát
triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”(2).
Về những đặc trưng này, có lẽ cần phải có sự nghiên cứu
sâu hơn để bổ sung cho hoàn thiện. Song, về cơ bản, có thể nói, những đặc
trưng này vừa thể hiện tính phổ biến theo tinh thần học thuyết Mác – Lênin về
xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc và có tính đến
những đặc điểm của thời đại mà sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần
nói đến.
Khi đưa ra những đặc trưng đó, Đảng cũng đã nói rõ hơn về
tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trên cơ sở làm sáng tỏ các chặng
đường của tiến trình này. Nếu như tại Đại hội VIII, khi tổng kết 10 năm đổi
mới, Đảng ta đã khẳng định nhiệm vụ mà chúng ta đề ra cho 5 năm 1991 – 1995
đã được hoàn thành về cơ bản, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội
và xác định “nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là
chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển
sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”(3), thì tại
Đại hội lần này, khi tổng kết 20 năm đổi mới và khẳng định chúng ta đã cơ bản
hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2001 – 2005 theo hướng
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta đã xác định chặng đường tiếp
theo, tạm gọi là chặng thứ hai, từ 2006 đến 2020 là chặng đường “tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại”(4) mà giai đoạn từ 2006 đến 2010 là giai đoạn “có ý nghĩa quyết
định” đối với việc hoàn thành Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm
đầu thế kỷ XXI.
Coi việc nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng của
một nước kém phát triển là mục tiêu trực tiếp của Chiến lược phát triển kinh
tế – xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI, là điều mong mỏi thiết tha, là đòi hỏi bức
xúc của toàn Đảng, toàn dân, đồng thời là cái để thể hiện sự nhìn nhận nghiêm
túc, khách quan về tình hình đất nước hiện nay, là nguồn động viên, cổ vũ nhân
dân ta vươn lên với tinh thần tự tôn dân tộc, với quyết tâm thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới, Đảng đã đưa quan điểm “sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển” thành thành tố thứ tư cấu thành chủ đề Đại hội X.
Khi đưa ra những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và xác
định chiến lược phát triển đất nước đến năm 2020, Đảng còn khẳng định, để
thành công trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, một mặt, chúng ta cần phải
ra sức phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi
kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền
tảng tinh thần của xã hội. Mặt khác, cần
phải tăng cường hơn nữa việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện
đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc
quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế.
2. Về động lực của sự phát triển.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc và đúng đắn quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực cách mạng và thực tiễn 20
năm đổi mới, Đảng đã khẳng định, để đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp đổi mới đất
nước, chúng ta cần phải tạo ra và phát huy một cách đồng bộ và có hiệu quả
các động lực của nó. Các động lực đó, như Đảng đã xác định, là:
Thứ nhất, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Coi đây không chỉ là “đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam”, mà còn là “nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý
nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”(5), Đảng đã đưa vấn đề “phát huy sức mạnh toàn dân tộc” thành
thành tố thứ hai cấu thành chủ đề Đại hội X. Coi “phát huy sức mạnh toàn dân
tộc” là động lực chủ yếu, có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp đổi mới đất
nước, Đảng đã khẳng định sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của nhân dân chỉ được nhân lên khi quy tụ thành
tổ chức, có sự lãnh đạo thống nhất, sự nỗ lực của toàn dân theo một mục tiêu
duy nhất là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do vậy,
đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ được củng cố và phát huy mạnh mẽ khi các thành
tố cấu thành cộng đồng các dân tộc Việt Nam ý thức rõ lợi ích chung của đất
nước là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh và lấy đó “làm điểm tương đồng”. Phát huy sức
mạnh toàn dân tộc với tư cách động lực chủ yếu của sự nghiệp đổi mới đất nước
đòi hỏi chúng ta phải động viên đến cao độ sức mạnh của mọi tầng lớp nhân
dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, của đồng bào trong nước và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, của mọi lĩnh vực hoạt động trên đất nước ta; giải phóng
mọi tiềm năng, phát huy mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế; phát huy sức
mạnh của truyền thống, lịch sử, văn hoá dân tộc và ý chí kiên cường của người
Việt Nam; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân
tộc; đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở,
tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
Thứ hai, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách vừa là mục
tiêu, vừa là động lực.
Coi dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ “thể hiện mối
quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”, trong đó “Nhà nước đại diện
quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối
chính trị của Đảng”, “mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”, Đảng
ta đã khẳng định, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa “vừa là mục tiêu vừa là
động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(6).
Với khẳng định này, Đảng cho rằng, dân chủ hoá đời sống xã
hội sẽ làm cho mọi tiềm năng sáng tạo của con người được phát huy, tính tích
cực, chủ động của nhân dân được tăng lên và sự tham gia của nhân dân vào các
quá trình chính trị, xã hội ngày càng có hiệu quả và do vậy, những vấn đề nảy
sinh trong thực tiễn đời sống xã hội được phát hiện kịp thời, các khó khăn
được tháo gỡ, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ cho đất nước.
Nhận thức rõ trong điều kiện một Đảng cầm quyền, để phát
huy vai trò động lực mạnh mẽ của dân chủ, Đảng đã nhấn mạnh ý nghĩa lớn lao
của việc coi trọng sự phát triển hài hoà, đồng bộ giữa dân chủ ở cấp trung
ương với thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó dân chủ ở cơ sở có tính chất nền
tảng, dân chủ ở trung ương có tính chất quyết định; nhấn mạnh vai trò quan
trọng của chế độ tự quản trong cộng đồng dân cư. Để phát huy dân chủ, theo
quan điểm của Đảng, Nhà nước cần ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội; các cấp uỷ đảng
và chính quyền cần có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân,
thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân và nhất là, để cho nhân dân được
tham gia vào việc xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị. Cùng với đó, để phát huy
dân chủ, chúng ta cần phải xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó mọi cán bộ,
đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân, đồng thời xác
định các hình thức tổ chức, cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và đề cao trách nhiệm của các tổ chức
đảng, các cơ quan nhà nước đối với nhân dân.
Thứ ba,
kết hợp một cách hài hoà lợi ích xã hội với lợi ích tập thể và lợi ích cá
nhân, quan tâm đến lợi ích thiết thân của người lao động.
Chúng ta đều biết, trong quan niệm của các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác, lịch sử xã hội là sản phẩm hoạt động của chính con người và
đến lượt mình, hoạt động đó luôn được thúc đẩy bởi những động cơ nhất định,
trong đó nhu cầu, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần là những tác nhân
trực tiếp và mạnh mẽ nhất. Với các ông, “lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động
của con người theo đuổi mục đích của bản thân mình”. Nhận thức rõ quan niệm
đó của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về vai trò động lực thúc đẩy xã hội
phát triển của lợi ích cá nhân, lần đầu tiên, trong công cuộc đổi mới đất
nước, Đảng đã khẳng định vai trò động lực của lợi ích cá nhân và nhấn mạnh sự
kết hợp hài hoà lợi ích xã hội, lợi ích tập thể với lợi ích cá nhân, đồng
thời khẳng định lợi ích chung của sự phát triển xã hội được thể hiện và thực
hiện một phần quan trọng qua lợi ích chính đáng của người lao động, của mỗi
cá nhân, mỗi cộng đồng. Với quan điểm này, nhận thức này, Đảng chủ trương làm
cho mọi người đều quan tâm tới lợi ích chính đáng của mình, lấy đó làm động
lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động của họ và qua đó, đẩy nhanh tiến trình đổi
mới đất nước, phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên thực
tế, Đảng đã ban hành nhiều chính sách xã hội được xây dựng trên cơ sở đảm bảo
công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp tăng trưởng
kinh tế với thực hiện tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần để đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu trước mắt và chăm lo lợi ích
lâu dài cho người lao động, kết hợp hài hoà lợi ích xã hội với lợi ích tập
thể và lợi ích cá nhân, khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa
trên kết quả lao động của mình, bảo trợ và điều tiết hợp lý thu nhập giữa các
bộ phận dân cư, các ngành và các vùng, thực hiện chủ trương xoá đói giảm
nghèo, chính sách ưu đãi xã hội,…
Thực tiễn 20 năm đổi mới đã chứng tỏ tính đúng đắn trong
quan điểm của Đảng coi sự kết hợp hài hoà lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và
lợi ích cá nhân là động lực của sự nghiệp đổi mới đất nước, nhất là quan điểm
coi lợi ích thiết thân của người lao động là động lực trực tiếp và mạnh mẽ
nhất. Thực tiễn đó cũng chính là cơ sở để tại Đại hội X, Đảng tiếp tục khẳng
định quan điểm “kết hợp các mục tiêu phát triển kinh tế với các mục tiêu xã
hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ xã
hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển,
thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền
lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn
cho phát triển kinh tế – xã hội… Khuyến khích mọi người làm giàu theo luật
pháp, thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói giảm nghèo… Xây
dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết
yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo việc làm,
chăm sóc sức khoẻ, văn hoá - thông tin, thể dục thể thao…”(7).
Không chỉ thế, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng còn coi phát
triển văn hoá với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội theo hướng xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cùng
với phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ với tư cách
“quốc sách hàng đầu” cũng là những động lực rất quan trọng của sự phát
triển.
Coi phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội là
một động lực phát triển, tại Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII, Đảng đã ra Nghị
quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”. Kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết này, tại Hội nghị Trung
ương 10 khoá IX, Đảng đã khẳng định Nghị quyết này ra đời không chỉ đáp ứng
những đòi hỏi của sự phát triển đất nước và nguyện vọng của nhân dân, mà còn
tạo ra sự gắn kết chặt chẽ hơn văn hoá với các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị và tạo nên những thành tựu về phát
triển kinh tế – xã hội, quốc phòng và an ninh quốc gia, mở rộng quan hệ ngoại
giao và hợp tác quốc tế, nhất là khi nó thực sự đi vào cuộc sống, đã đưa văn
hoá trở thành một nội dung quan trọng trong hoạt động của các cấp uỷ đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp trong sự phát triển kinh tế
– xã hội. Thực tiễn này là cơ sở để tại Đại hội X, Đảng khẳng định quan điểm
“tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát
triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội” để “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt
Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế”, “bồi dưỡng các giá trị văn hoá
…, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh
văn hoá con người Việt Nam”(8).
Coi phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ
với tư cách “quốc sách hàng đầu” cũng là một động lực rất quan trọng của sự
phát triển, tại Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII, Đảng đã ra Nghị quyết “Về
định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000” và Nghị quyết “Về định hướng
chiến lược phát triển khoa học và công nghệ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và nhiệm vụ đến năm 2000”. Kiểm điểm 5 năm thực hiện các Nghị quyết này,
tại Hội nghị Trung ương 6 khoá IX, Đảng đã khẳng định, về giáo dục - đào tạo,
chúng ta đã có được những thành tựu mới trên một số mặt; cả nước đạt chuẩn
quốc gia về xoá nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, bắt đầu phổ cập
trung học cơ sở ở một số tỉnh và thành phố; trình độ dân trí, quy mô, chất
lượng giáo dục được tăng lên, cơ sở vật chất được tăng cường, đội ngũ giáo
viên được quan tâm; sự nghiệp giáo dục ngày càng được đề cao và được toàn xã
hội quan tâm. Song, bên cạnh những thành tựu này, nền giáo dục nước nhà còn
đứng trước những khó khăn, yếu kém, nhất là về chất lượng và quản lý nhà nước
về giáo dục; thi cử còn nặng nề; xu hướng thương mại hoá một số hoạt động giáo
dục đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng; cơ cấu giáo dục còn mất cân đối,
chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội ngày một cao; nhiều nhu
cầu về nhân lực của nền kinh tế chưa được đáp ứng. Từ những đánh giá này, tại
Đại hội X, Đảng đã khẳng định quan điểm tiếp tục đổi mới toàn diện giáo dục
và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên cơ sở “nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội
dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”(9).
Về khoa học – công nghệ, chúng ta cũng đã có được những
thành tựu mới, những đóng góp thiết thực cho việc phát triển kinh tế – xã
hội. Song, nhìn chung, hoạt động khoa học và công nghệ vẫn chưa thực sự gắn
kết hữu cơ với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế – xã hội; trình độ
khoa học và công nghệ nước ta còn thấp so với các nước xung quanh; cơ chế
quản lý khoa học và công nghệ còn mang tính hành chính; thị trường khoa học
và công nghệ chưa phát triển, chưa có cơ chế, chính sách đủ mạnh để vừa
khuyến khích, vừa đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ. Đây chính
là cơ sở để tại Đại hội X, Đảng xác định mục tiêu “phấn đấu đến năm 2010,
năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến
trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng”(10), thực sự trở thành nền
tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong sự gắn
kết chặt chẽ của nó với phát triển kinh tế tri thức. Trong giai đoạn này, mọi
hoạt động khoa học – công nghệ đều phải thực hiện nhiệm vụ giải đáp kịp thời
những vấn đề lý luận và thực tiễn do cuộc sống đặt ra; cung cấp luận cứ khoa
học cho việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; đổi mới
và nâng cao trình độ khoa học – công nghệ trong nền kinh tế quốc dân; xây
dựng và phát triển có trọng điểm các ngành công nghệ cao; đổi mới tổ chức và
cơ chế quản lý, nâng cao trình độ quản lý khoa học và công nghệ;..
Không chỉ coi phát triển văn hoá, giáo dục - đào tạo, khoa
học – công nghệ là động lực phát triển, thực tiễn 20 năm đổi mới đất nước còn
đưa Đảng tới quan niệm coi bản thân đổi mới cũng là một động lực của sự
phát triển. Bởi lẽ, với Đảng, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã
hội chủ nghĩa, mà là quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện
mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi, biện pháp phù hợp, đổi mới là kết
hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt, sáng
tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Chính những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử cả về lý luận lẫn thực tiễn của sự nghiệp đổi mới theo
phương châm đó đã trở thành cơ sở để Đảng khẳng định đổi mới tư duy, đổi mới
kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị, phát triển kinh tế thị trường, chấp nhận
cạnh tranh có điều tiết, chấp nhận sự vượt trội trong phát triển, tạo động
lực kinh tế cho quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, mở cửa, hội nhập, giao
lưu để hợp tác và cạnh tranh… là những yếu tố cần thiết cho sự phát
triển đất nước.
Nhận thức rõ vai trò động lực của việc cần phải tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ
tư duy, nhận thức đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội đến quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại; từ hoạt động lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân, các tổ chức chính trị – xã hội; từ hoạt động của cấp trung ương đến
hoạt động của địa phương, cơ sở, Đảng đã đưa quan điểm “đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới” thành thành tố thứ ba cấu thành chủ đề Đại hội X.
|
3. Về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của 20 năm đổi mới
đất nước là cơ sở, là bằng chứng hùng hồn để chúng ta tự hào mà khẳng định
rằng, việc đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một đột phá lý luận hết sức sáng tạo của Đảng. Từ Đại hội VI - Đại hội
mở đầu sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng đã dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi
hàng hoá, phi thị trường mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã dự kiến,
từ bỏ mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp mà chúng ta đã thực hiện gần
như rập khuôn theo mô hình của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu để
chuyển sang mô hình kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã khẳng
định: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Sau 5
năm phát triển nền kinh tế này với những thành tựu nhất định, tại Đại hội VIII,
Đảng đưa ra một quan niệm mới và có thể coi là rất quan trọng – quan niệm thừa
nhận “sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu
phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây
dựng”(11). Đến Đại hội IX, khái niệm “kinh tế thị trường”, lần đầu tiên được
Đảng chính thức đưa vào Văn kiện Đại hội. Đồng thời, với khẳng định kinh tế thị
trường của chúng ta không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng
chưa phải là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội này, Đảng đã đưa ra
khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và coi đó là mô hình
kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Giờ đây, sau 20 năm đổi mới đất nước với những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử nhờ thực hiện nhất quán đường lối phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội X, Đảng đã xác định rõ
những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế này. Những đặc trưng đó là:
Thứ nhất,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời
sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm
giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Thứ hai,
phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể, ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục…,
giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người toàn diện.
Thứ tư,
thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi
xã hội.
Thứ năm,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng(12).
Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong những năm gần đây đã cho thấy không chỉ kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể có những đóng góp to lớn vào sự phát triển đất nước, mà cả kinh tế
tư nhân cũng có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển đó. Nhận thức rõ vai
trò ngày càng quan trọng của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội IX, Đảng đã xác định kinh tế tư
nhân “cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài” và tại Hội nghị
Trung ương 5 khoá IX, Đảng đã ra Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính
sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, trong đó khẳng
định: trong những năm đổi mới, kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ
và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các
loại hình doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng
góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản
xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, đóng góp
ngày càng tăng vào ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã
hội. Với những đánh giá như vậy về kinh tế tư nhân, tại Hội nghị này, Đảng đã
thống nhất những quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân với tư cách chiến
lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Tại Đại hội X, vẫn với quan điểm chỉ đạo đó, khi xác định
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài “đều là bộ phận hợp thành quan trọng” của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đều phải “hoạt động theo pháp
luật”, “bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh”, Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng,
là một trong những động lực của nền kinh tế”(13).
Cũng tại Đại hội X, khi thông qua Chiến lược quốc gia về
phát triển doanh nghiệp, xây dựng một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhiều về
số lượng, có sức cạnh tranh cao, có thương hiệu uy tín, trong đó chủ lực là một
số tập đoàn kinh tế lớn được xây dựng trên hình thức cổ phần, lần đầu tiên Đảng
đưa vào một văn kiện chính thức của mình quan điểm bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh
các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt, có nhiều đóng góp cho xã hội.
Những quan điểm đó cho thấy, sau 20 năm đổi mới, giờ đây,
Đảng đã có được quan điểm mới về vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân, của các
doanh nghiệp tư nhân và doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
4. Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ngay từ những năm đầu tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng đã
xác định rõ, từ một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, chúng ta nhất thiết phải ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. Đối với nước ta, để phát
triển lực lượng sản xuất, chúng ta không có cách nào khác hơn là phải tiến hành
công nghiệp hoá và ngay từ đầu, kết hợp công nghiệp hoá với hiện đại hoá. Bởi
lẽ, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh thì vấn đề cơ bản nhất là, trong một thời gian nhất định, chúng ta phải
hoàn thành công nghiệp hoá theo hướng hiện đại. Chính vì vậy, trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã
khẳng định quan điểm “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước
theo hướng hiện đại”. Cụ thể hoá quan điểm này, tại Hội nghị Trung ương 7 khoá
VII, Đảng đã xác định rõ mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hóa,
đồng thời đưa ra và khẳng định quan điểm chỉ đạo cơ bản cho việc thực hiện
chiến lược này, trong đó phát triển khoa
học và công nghệ được coi là nền tảng. Tại Đại hội VIII, trên cơ sở đánh giá
một cách tổng quát 10 năm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng đã đưa ra và khẳng định chặng đường mới cho
sự nghiệp cao cả này là “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” với mục tiêu
chiến lược là đến năm 2020, “nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”.
Với dự báo thế kỷ XXI, tình hình thế giới tiếp tục có nhiều biến đổi trong xu
thế khách quan của toàn cầu hoá kinh tế, khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến
nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát
triển lực lượng sản xuất, tại Đại hội IX, Đảng đã đưa ra một quan niệm mới về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là: con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của nước ta “cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa
có bước nhảy vọt” trên cơ sở phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi
khả năng có thể có để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, tranh thủ ứng dụng ngày
càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học
và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ
và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; lấy phát triển giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực”(14).
Từ quan điểm mới, mang tính đột phá trong tư duy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và có thể là rất đúng đắn này – quan điểm tiến hành
chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo phương thức
“rút ngắn”, gắn với “từng bước phát triển kinh tế tri thức” và không chỉ coi
khoa học – công nghệ, mà cả giáo dục - đào tạo cũng là nền tảng, là động lực,
cộng với nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vị trí và vai trò của kinh tế tri
thức trong phát triển lực lượng sản xuất, đến Đại hội X, Đảng đã đưa ra một
quan điểm còn mới hơn nữa, mang tính đột phá và đúng đắn hơn nữa với điểm nhấn
là gắn liền một cách hữu cơ chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là một thành tố quan
trọng để thực hiện mục tiêu “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển”, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta “cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”. Đó là: tranh thủ mọi cơ hội thuận lợi do bối cảnh
quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để “rút ngắn” quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, “gắn với
phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền
kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”; phát triển mạnh các ngành và sản
phẩm “có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức”; kết hợp việc sử dụng
nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại;
coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát
triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế – xã
hội (15).
5. Về xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khi đổi mới tư duy là xuất phát điểm, phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm thì xây dựng Đảng đã được Đảng xác định là nhiệm vụ then chốt. Tính
then chốt của nhiệm vụ này được quy định bởi, trong điều kiện một Đảng duy nhất
cầm quyền thì sự lãnh đạo của Đảng chính là nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của công cuộc đổi mới cũng như toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Với
quan điểm này, ngay từ Đại hội VI - Đại hội đổi mới, Đảng đã khẳng định xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để Đảng thực sự ngang tầm
một Đảng cầm quyền là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới. Tại
Đại hội VII, một lần nữa, Đảng nhấn mạnh quan điểm “đổi mới, chỉnh đốn Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” và tại Hội nghị Trung
ương 3 khoá VII, Đảng xác định đó là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách,
có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp đổi mới đất nước và đối với cả
vận mệnh của Đảng. Tại Đại hội VIII, Đảng chính thức khẳng định quan điểm “xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” và dành trọn vẹn Hội nghị Trung ương 6 (lần 2)
để bàn về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng và mở
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình nhân
kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và kỷ niệm 70
năm thành lập Đảng nhằm nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
trong cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các tổ chức
Đảng. Tại Đại hội IX, khi gắn kết nhiệm vụ xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng để
nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của công cuộc đổi mới trong những năm đầu thế kỷ XXI, Đảng tiếp
tục khẳng định quan điểm “xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức
chiến đấu của Đảng” với sự nhấn mạnh là đưa cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn
Đảng mà Đảng đã phát động thực sự đi vào chiều sâu và trở thành một nội dung
thiết thực trong sinh hoạt Đảng.
Tổng kết 20 năm đổi mới đất nước cũng là 20 năm xây dựng và
chỉnh đốn Đảng với tư cách nhiệm vụ then chốt, trên cơ sở làm rõ những yêu cầu
mới mà thực tiễn đổi mới đất nước đang đặt ra đối với công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng, tại Đại hội X, một lần nữa Đảng đã khẳng định quan điểm kiên
định sự lãnh đạo của Đảng và coi đây là vấn đề có tính nguyên tắc, có ý nghĩa
sống còn đối với Đảng và đối với sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Với quan điểm này, Đảng đã khẳng định, để có đủ khả năng và điều
kiện, lãnh đạo đúng đắn và có hiệu quả, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng về mọi mặt, làm
cho Đảng thực sự trở thành “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”(16).
Nâng vấn đề “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng” lên thành thành tố đấu tiên cấu thành chủ đề Đại hội X và thêm
một lần nữa khẳng định đây là nhiệm vụ then chốt, Đảng đã xác định rõ phương
hướng cơ bản của việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Phương hướng cơ bản đó là: tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, tăng cường
bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí
cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có tầm trí tuệ cao và phương thức lãnh đạo
khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực.
Thực hiện phương hướng cơ bản này trong xây dựng, chỉnh đốn
Đảng nhằm đáp ứng những đòi hỏi mới ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, phát
triển đất nước, Đảng tự xác định phải tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong hoạt động của Đảng; thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển
lý luận, giải quyết một cách đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra và tiếp
tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính sách của
Đảng trong thời kỳ mới. Không chỉ thế, Đảng còn xác định cần phải tiếp tục đổi
mới tư duy lý luận, đổi mới công tác tư tưởng chính trị, nâng cao trình độ trí
tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị, năng lực cầm quyền. Đồng thời, tiếp tục đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng, làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; đấu tranh
và khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực, suy thoái trong Đảng; đặc
biệt là tệ tham nhũng, quan liêu mà giờ đây đã trở thành “quốc nạn”; khôi phục và nâng cao lòng tin của dân với Đảng; chấn
chỉnh tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, làm cho Đảng có đủ bản lĩnh chính trị,
có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu cao trong công cuộc đổi mới và phát
triển đất nước. Cùng với đó là tiếp tục cụ thể hoá, thể chế hoá và thực hiện
tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, kiện toàn hệ thống tổ chức Đảng.
Trước những đòi hỏi mới ngày càng cao của công cuộc đổi mới
và phát triển đất nước, Đảng yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có
phẩm chất chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, không
ngừng nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ đổi mới. Mọi đảng viên của Đảng hoạt
động trong các thành phần kinh tế đều phải thực hiện nhiệm vụ nêu cao vai trò
tiên phong, gương mẫu, lao động sáng tạo và có hiệu quả cao, góp phần tích cực
vào việc phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân.
Với tư duy mới – không coi kinh tế tư nhân là thành phần
kinh tế chỉ gắn với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, mà trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó cũng là một bộ phận cấu thành quan trọng
và phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề có tầm chiến lược, lãnh đạo kinh tế tư
nhân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là một nhiệm vụ của Đảng,
lần đầu tiên, Đảng đưa vào trong văn kiện chính thức của mình quan điểm cho
phép mọi đảng viên của Đảng đều có quyền làm kinh tế tư nhân khi họ gương mẫu
chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành điều lệ
Đảng và quy định của Ban chấp hành Trung ương.
Trên đây mới chỉ là một số vấn đề trong những vấn đề lý luận
– thực tiễn mà Đảng rút ra qua tổng kết 20 năm đổi mới đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và đưa vào trong các Văn kiện Đại hội X của Đảng. Để làm rõ những
vấn đề này và từ đó, đưa chúng vào thực tiễn cuộc sống, cần phải có sự nghiên
cứu sâu sắc của đông đảo những người làm công tác nghiên cứu lý luận trong
chúng ta. r
(*) Phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó tổng
biên tập Tạp chí Triết học.
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006 tr. 67 – 68.
(2)
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 68.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 67
– 68.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 76.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 116
(6)
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 124.
(7)
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 101.
(8)
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 106.
(9)
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 95.
(10)
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd.,tr. 98.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 97.
(12) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 77, 78.
(13)
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.83.
(14) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX.. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 91.
(15) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X.. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 91.
(16)
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 129 - 130