Võ Minh Tập
A.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở nước ta, trong
quá trình cải cách giáo dục – đào tạo, mục tiêu, chương trình, nội dung giáo
dục – đào tạo đã thay đổi nhiều lần cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội và đã đạt được những tiến bộ đáng khích lệ. Tuy nhiên, những thay đổi
về phương pháp còn quá ít, quá chậm. Phương pháp đang được sử dụng phổ biến
trong các trường học chủ yếu là thuyết giảng có tính chất áp đặt của thầy, coi
nhẹ hoạt động tích cực, chủ động của trò. Sự chậm trễ đổi mới phương pháp dạy
học ở trung học phổ thông là trở ngại lớn cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục
mà Đảng ta đã đề ra là đào tạo “người lao động tự chủ năng động, sáng tạo”. Để
khắc phục tình trạng này, Nghị quyết TW 2, Khóa VIII, BCH Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam
đã đề ra nhiệm vụ: “ Đổi mới mạnh mẽ
phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp
tư duy sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên
cứu cho học sinh. Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng
khắp trong toàn dân nhất là trong thanh niên” [5: 41].
Điều 28.2. Luật Giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh; phù hợp với đặc diểm của từng
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh.” [6: 77].
Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/2001/QĐ- TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), ở mục 5.2. ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học tập,...”
Một vấn đề quan trọng là, nhiều giáo viên nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới phương pháp nhưng rất khó từ bỏ các phương pháp đã quen dùng. Do đó, muốn thực hiện đổi mới phương pháp dạy học thì trước hết bản thân mỗi giáo viên phải ý thức được để chủ động thay đổi các phương pháp dạy học truyền thống đã thành thói quen và thực hiện các phương pháp mới phù hợp với thực tế hiện nay.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/2001/QĐ- TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), ở mục 5.2. ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học tập,...”
Một vấn đề quan trọng là, nhiều giáo viên nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới phương pháp nhưng rất khó từ bỏ các phương pháp đã quen dùng. Do đó, muốn thực hiện đổi mới phương pháp dạy học thì trước hết bản thân mỗi giáo viên phải ý thức được để chủ động thay đổi các phương pháp dạy học truyền thống đã thành thói quen và thực hiện các phương pháp mới phù hợp với thực tế hiện nay.
Đối với môn lịch
sử, thực tế cho thấy rằng những năm gần đây, việc
dạy lịch sử ở trường phổ thông đã có những bước tiến đáng kể về nhận thức, nội
dung, phương pháp dạy học. Song vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại. Kết quả các kì
thi vào Đại học khối C năm 2005, 2006, 2007 đã làm cho dư luận xôn xao và một
số người đi đến kết luận là chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện
nay quá kém. Sở dĩ có kết quả như vậy là có nhiều
nguyên nhân. Chúng ta điều biết rằng, “số lượng học sinh thi vào các trường khối
C hiện nay rất ít (khoảng 15-20%), song chỉ khoảng ½ trong số đó thực sự có khả năng và hứng thú
với các môn khoa học xã hội. Còn lại đa số các em học kém toàn diện, không thể
thi được các khối A B D đành thi vào khố C. Chính vì vậy mới có nhiều điểm 0 và
những sai xót khó hiểu…Rõ ràng kết quả đó không phản ảnh chất lượng dạy học môn
lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Nhưng dù sao nó đã chỉ cho các nhà quản lí
giáo dục và giáo dục lịch sử thấy rằng hiệu quả dạy học bộ môn ở các trường phổ
thông chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra” [2:52]
Nguyên nhân của tình trạng chậm đổi mới phương pháp dạy học lịch sử có nhiều nhưng chủ yếu do những nguyên nhân cơ bản sau: Trước hết, là do quan niệm chưa đúng về bộ môn. Thứ hai, những tác động tích cực của cơ chế thị trường cũng làm cho chất lượng dạy môn lịch sử chưa tốt. Thứ ba, việc đào tạo giáo viên lịch sử cho các trường phổ thông trung học hiện nay có tác động không nhỏ tới chất lượng dạy học bộ môn. Giáo viên lịch sử THPT hiện nay được đào tạo từ nhiều nguồn nhưng không được kiểm tra, đánh giá kỉ lưỡng nên chất lượng giáo viên không đều. Thứ tư, hiện tượng bảo thủ, lạc hậu về phương pháp dạy học cũng làm cho hiệu quả dạy học bộ môn chưa cao.
Sự
phát triển của xã hội cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đòi hỏi con người có một
số phẩm chất và năng lực nổi lên hàng đầu như năng lực làm việc nhóm, năng lực
hoạt động thực tiễn và giải quyết vấn đề do cuộc sống đặt ra, năng lực hợp tác,
năng lực thích ứng... Những yêu cầu trên đặt ra cho giáo dục phải đổi mới toàn
điện để đáp ứng tốt hơn nhu cầu giáo dục của xã hội và cá nhân, từ học chế đào
tạo, cách thiết kế chương trình, tìm tòi những phương thức, cách thức giáo dục
thích hợp hơn. Tuy nhiên, để tìm được những cách thức đào tạo phù hợp, cần phải
làm sáng tỏ bản chất việc học mới có thể tìm tòi được những cách dạy phù hợp,
có hiệu quả nhất.
Tình hình nói
trên về phương pháp dạy học học lịch sử rõ ràng là không đáp ứng
được yêu cầu của sự phát triển giáo dục. Tuy nhiên, để góp phần biến đổi thực
tế đó, không thể nôn nóng, chủ quan, cực đoan, duy ý chí, cần phải có một quan
niệm tổng thể, đồng thời phân tích kĩ những hoàn cảnh khách quan, những thực tế
của dạy học hiện nay đặt ra một yêu cầu cấp
thiết phải đi tìm các giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy học môn lịch sử
ở trường phổ thông vừa căn bản, vừa thiết thực và vừa có tính khả thi.
B. DẠY HỌC THEO
NHÓM TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ HIỆU QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT
I. DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ.
Công
cuộc cải cách phương pháp dạy học đã được tiến hành từ rất lâu ở nước ta, với
những phương
pháp mới mẽ trong quá trình dạy học, nhưng có một phương pháp dạy học hiện đại
chưa được thực hiện phổ biến trên thực tế, đó là dạy học theo nhóm. Vì vậy, tìm
hiểu và nghiên cứu dạy học theo nhóm là một vấn đề cần thiết trong dạy học ở
trường phổ thông hiện nay.
Khuynh hướng chung tồn tại nhiều năm qua
trong trường phổ thông là dạy theo lối thuyết giảng một chiều, giáo viên “dội”
kiến thức xuống, học sinh thụ động tiếp nhận. Để khắc phục tình trạng này, hiện nay các
trường bắt đầu thay đổi cách truyền thụ, tổ chức cho học sinh học nhóm, giúp
các em biết trao đổi có nhu cầu tự học.
1.1. Khái
niệm, mục đich, nguyên tắc và điều kịên
- Khái niệm: Dạy học chia nhóm được hiểu là cách dạy học, trong đó các học sinh được
chia thành các nhóm nhỏ, cùng nhau nghiên cứu giải quyết các vấn đề mà giáo
viên đặt ra, từ đó giúp học sinh tiếp thu được một kiến thức nhất định nào đó.
- Mục đích:Giúp học sinh
phát triển kĩ năng giao tiếp. Phát triển năng lực nhận thức và tư duy của
học sinh. Phát triển nhân cách học sinh.
- Nguyên tắc:Chia nhóm để học tập không chỉ là việc học sinh ngồi cạnh nhau một cách
cơ học, cùng nhau trao đổi, thảo luận, giúp đỡ nhau, chia sẽ hiểu biết, kinh
nghiệm mà còn ở mức độ cao hơn, đảm bảo 5 nguyên tắc sau:
Phụ thuộc lẫn
nhau một cách tích cực. Tương tác “mặt đối mặt” trong nhóm học sinh. Trách
nhiệm cá nhân cao. Sử dụng những kĩ năng giao tiếp và kĩ năng xã hội. Rút kinh
nghiệm tương tác nhóm. [3: 10]
- Điều kiện: Cách chia
nhóm trong học tập tại lớp sao cho thích hợp và đạt hiểu quả cao, cần phải đảm
bảo các điều kiện sau:
- Thành lập
nhóm học tập phải phù hợp với từng môn học, từng chương, từng chủ đề, phù hợp
với trình độ học lực và các điều kiện thực tế khác.
- Xác định rõ
mục đích, nhiệm vụ và nội dung của một cuộc thảo luận học tập tại lớp.
- Tạo không
khí cởi mở, thoả mái trong tiến trình chia nhóm thảo luận.
¬ Để có thể hiểu kĩ năng học tập theo nhóm, cần làm rõ đặc thù của hoạt
động học tập theo nhóm của học sinh:
Hoạt động học tâp tự lực của
học sinh
|
Hoạt động học tâp theo nhóm của học sinh
|
|
Học sinh
|
Chủ thể hoạt động học tập
|
Chủ thể hoạt
động học tập, giao tiếp
|
Đối tượng hoạt động
|
Hệ thống kiến thức
|
Hệ thống
kiến thức, quan hệ, kết cấu
|
Kết quả hoạt động
|
Hệ thống tri thức, Kĩ năng kĩ xảo
|
Hệ thống tri
thức, kĩ năng kĩ xảo bộ môn, năng lực giao tiếp, năng lực tổ chức
|
Phương Pháp hoạt động
|
Phương pháp nhận thức
|
Phương pháp
nhận thức, tổ chức, phương pháp giao tiếp, hợp tác.
|
Tính chất hoạt động
|
Tự lực cá nhân
|
Tự lực, hợp
tác, tập thể
|
Mô hình
|
GV ’ HS ’Đối
tượng hoạt động
|
HS
GV ’ ’Đối
tượng hoạt động
HS HS
|
Từ
bảng so sánh cho thấy, hoạt động học tập theo nhóm, cùng lúc học sinh phaỉ tiến
hành 3 nhóm hoạt động học tập là: học tập, tổ chức và giao tiếp. Vì vậy, trong
hoạt động học tập theo nhóm, học sinh có thể đạt được nhiều mục tiêu cùng một
lúc. Ngoài kết quả về học tập, học sinh
còn hình thành năng lực hoạt động thực
tiễn, năng lực hoạt động hợp tác, đời sống tình cảm của học sinh cũng được phát triển trên cơ sở
sự chia sẽ, đồng cảm, giúp đỡ nhau trong học tập. Về lí thuyết, để có thể học
theo nhóm có hiệu quả, học sinh phải được hình thành một loạt kĩ năng, đó là kĩ
năng học theo nhóm học tập. Về cấu trúc, trong hoạt động học tập theo nhóm,
ngoài các hành động học tập-nhận thức còn có các hành động giao tiếp, tổ chức.
Chính vì vậy, việc dạy học hợp tác theo
nhóm là hết sức cần thiết. Hơn thế nữa, nó còn có những lý do khách quan ở nước
ta hiện nay như: Đổi mới phương pháp dạy học – dạy học theo nhóm để giải quyết
sự bất cập trong việc thực hiện nhiệm vụ của nhà trường trong hoàn cảnh mới;
đổi mới phương pháp dạy học – dạy học theo nhóm để đáp ứng yêu cầu đào tạo của
xã hội; đổi mới phương pháp dạy học – dạy học theo nhóm để phù hợp với mục
tiêu, định hướng đổi mới phương pháp dạy học mà Bộ GD& ĐT ban hành
1.2. Tổ chức và tiến hành chia nhóm.
Cách thức một giáo viên tổ chức lớp học
có ảnh hưởng lớn đối với cả dạy và học. Ngoài ra, cơ cấu tổ chức có liên quan
tới triết lí của nhà trường hoặc của giáo viên, mục đích chương trinhg giảng dạy, phương pháp dạy
và học, và mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau.
- “Việc dạy
học chia nhóm được chia làm ba bước sau:
+ Bước 1: Giáo viên dựa trên nội dung các
tri thức cần truyền thụ cho học sinh, đề ra nhiệm vụ nghiên cứu, giải quyết vấn
đề, có thể là câu hỏi hoặc yêu cầu hoạt động. Các chỉ dẫn cần thiết được đưa ra
phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
+ Bước 2: Thảo luận theo nhóm để giải
quyết vấn đề. Việc thảo luận này phải đạt được mục đích là mọi thành viên trong
nhóm điều phải hiểu được vấn đề và biết giải quýêt vấn đề, sao cho khi giáo
viên kiểm tra, hoặc nhóm khác kiểm tra mọi thành viên đều phải trả lời được.
trong quá trình thảo luận, các nhóm có thể trao đổi với nhau với giáo viên.
+ Bước 3: Kiểm tra, đánh giá, thể thức hoá
các tri thức thu nhận. Đây là công việc của giáo viên. Trong bước này các học
sinh trong lớp có thể đặt ra các vấn đề để cùng nhau giải quyết. Cuôia buổi học
giáo viên có những nhận định, đánh giá về thái độ làm việc, kết quả thu được,
và kết luận về những tri thức, cả tri thức sự vật và tri thức phương pháp.” [1: 12]
-
Có ba cách tổ chức nhóm như sau:
a). Cách thứ nhất là thảo luận nhóm:
Phương pháp này có thể chia làm 4 giai đoạn.
- Giai đoạn 1: Chuẩn bị thảo luận. Giai đoạn này có 5 bước: Chia nhóm: Chia ngẫu nhiên hay chủ định (tuỳ theo mục đích sư phạm hay yêu cầu của vấn đề học tập), số lượng thường từ 4 đến 6 em; Đặt tên nhóm; Phân công trách nhiệm: nhóm trưởng, thư ký, thành viên (tuỳ theo đặc thù bộ môn hay yêu cầu của vấn đề mà giao nhiệm vụ); Chỉ định vị trí làm việc của các nhóm; Chuẩn bị dụng cụ học tập: phụ thuộc vào sơ sở vật chất từng lớp.
- Giai đoạn 2: Làm việc chung cả lớp
Trong giai đoạn này giáo viên cần nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức, giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm, hướng dẫn làm việc theo nhóm (các chỉ dẫn cần thiết được đưa ra phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh).
- Giai đoạn 3: Làm việc theo nhóm. Giai đoạn này có 2 bước:Các nhóm phân công nhiệm vụ cho từng cá nhân làm việc;Trao đổi ý kiến thảo luận trong nhóm: sôi nổi có trật tự, có ghi chép cẩn thận và chọn lọc, tổng hợp ý kiến, giáo viên cần quan sát, uốn nắn lệch lạc điều chỉnh cho đúng hướng thảo luận.
- Giai đoạn 4: Thảo luận, tổng kết trước lớp. Giai đoạn này có 2 bước:Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả: Thảo luận chung: các nhóm khác nhận xét, đánh giá, bổ xung ý kiến của nhóm bạn; Giáo viên tổng kết và đặt vấn đề tiếp theo.
Cứ thế quay vòng các nhóm và chỉ dừng lại khi giáo viên thu nhận được tất cả các ý kiến của tất cả các nhóm, tóm tắt lại và đánh giá quá trình thực hiện nhiệm vụ và kết quả của từng nhóm và cả lớp. Giáo viên cần chú ý khen và động viên.
a). Cách thứ nhất là thảo luận nhóm:
Phương pháp này có thể chia làm 4 giai đoạn.
- Giai đoạn 1: Chuẩn bị thảo luận. Giai đoạn này có 5 bước: Chia nhóm: Chia ngẫu nhiên hay chủ định (tuỳ theo mục đích sư phạm hay yêu cầu của vấn đề học tập), số lượng thường từ 4 đến 6 em; Đặt tên nhóm; Phân công trách nhiệm: nhóm trưởng, thư ký, thành viên (tuỳ theo đặc thù bộ môn hay yêu cầu của vấn đề mà giao nhiệm vụ); Chỉ định vị trí làm việc của các nhóm; Chuẩn bị dụng cụ học tập: phụ thuộc vào sơ sở vật chất từng lớp.
- Giai đoạn 2: Làm việc chung cả lớp
Trong giai đoạn này giáo viên cần nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức, giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm, hướng dẫn làm việc theo nhóm (các chỉ dẫn cần thiết được đưa ra phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh).
- Giai đoạn 3: Làm việc theo nhóm. Giai đoạn này có 2 bước:Các nhóm phân công nhiệm vụ cho từng cá nhân làm việc;Trao đổi ý kiến thảo luận trong nhóm: sôi nổi có trật tự, có ghi chép cẩn thận và chọn lọc, tổng hợp ý kiến, giáo viên cần quan sát, uốn nắn lệch lạc điều chỉnh cho đúng hướng thảo luận.
- Giai đoạn 4: Thảo luận, tổng kết trước lớp. Giai đoạn này có 2 bước:Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả: Thảo luận chung: các nhóm khác nhận xét, đánh giá, bổ xung ý kiến của nhóm bạn; Giáo viên tổng kết và đặt vấn đề tiếp theo.
Cứ thế quay vòng các nhóm và chỉ dừng lại khi giáo viên thu nhận được tất cả các ý kiến của tất cả các nhóm, tóm tắt lại và đánh giá quá trình thực hiện nhiệm vụ và kết quả của từng nhóm và cả lớp. Giáo viên cần chú ý khen và động viên.
Hình 1: Mô hình
nhóm 4-5 HS
b). Cách thứ hai là thảo luận ghép đôi:
Đây là hình thức thảo luận trước hết diễn ra ở hoạt động của hai học sinh ngồi cạnh nhau. Sau khi có kết quả nhóm này ghép với hai người ngồi đối diện để tạo thành nhóm 4 người, tiếp tục thảo luận và sau đó tiếp tục ghép hai nhóm 4 người để có nhóm 8 người thảo luận. Ghép hai nhóm 8 người thành nhóm 16 người thảo luận... Cuối cùng là nhóm lớn nhất (toàn lớp) thảo luận (nếu lớp có số học sinh lẻ thì linh động có một nhóm 3 người).
Đây là hình thức thảo luận trước hết diễn ra ở hoạt động của hai học sinh ngồi cạnh nhau. Sau khi có kết quả nhóm này ghép với hai người ngồi đối diện để tạo thành nhóm 4 người, tiếp tục thảo luận và sau đó tiếp tục ghép hai nhóm 4 người để có nhóm 8 người thảo luận. Ghép hai nhóm 8 người thành nhóm 16 người thảo luận... Cuối cùng là nhóm lớn nhất (toàn lớp) thảo luận (nếu lớp có số học sinh lẻ thì linh động có một nhóm 3 người).
Hình 2: Mô hình ghép nhóm.
c). Cách thứ ba
là thảo luận chung toàn lớp (nhóm lớn):
Là hình thức do giáo viên chủ trì điểu khiển, học sinh đóng góp ý kiến của mình. Trong kiểu thảo luận này, giáo viên nên tập trung giải quyết lần lượt từng vấn đề và chuẩn bị kỹ lưỡng hệ thông câu hỏi gợi mở, định hướng nêu vấn đề giúp học sinh thảo luận.” [7]
Là hình thức do giáo viên chủ trì điểu khiển, học sinh đóng góp ý kiến của mình. Trong kiểu thảo luận này, giáo viên nên tập trung giải quyết lần lượt từng vấn đề và chuẩn bị kỹ lưỡng hệ thông câu hỏi gợi mở, định hướng nêu vấn đề giúp học sinh thảo luận.” [7]
Vậy, Vai trò của giáo viên phải như thế nào?Trong dạy học hiện đại, đặc biệt với dạy học bằng cách chia nhóm tại lớp, vai trò của người giáo viên hết sức quan trọng. Giáo viên không còn là người truyền đạt những kiến thức có sẵn, cung cấp chân lí có sẵn mà vừa là người tổ chức, định hướng, hướng dẫn; vừa là người nghe, người phân xử, người cố vấn, động viên, cổ vũ hoạt động của các nhóm; làm việc theo nguyên tắc dân chủ, hợp tác, tương trợ và tôn trọng lẫn nhau. Người giáo viên phải làm sao tạo cho học sinh những điều kiện thuận lợi nhất để học tập trong nhóm, giúp họ cảm thấy tự tin phát huy cao năng lực trí tuệ của mình nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập. Giáo viên phải biết cách đặt ra vấn đề, nêu câu hỏi và phải biết khơi gợi, động viên, cổ vũ kịp thời thì học sinh mới có nhiều câu trả lời xuất sắc, nhiều ý kiến đóng góp có giá trị.
Như vậy, giáo
viên phải vừa là một người đạo diễn có tài, vừa là một trọng tài khoa học đáng
tin cậy của học sinh.
II. HIỆU QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT.
II.1 Hiệu quả.
Học theo nhóm bao giờ cũng sôi nổi. Nó
tạo cơ hội cho học sinh được sử dụng các phương pháp, nguyên tắc và từ vựng
được dạy. Các học sinh nhút nhát, thường là ít phát biểu trong lớp sẽ có môi
trường động viên để tham gia xây dựng bài. Hơn thế nữa, hầu hết các hoạt động
nhóm đều mang trong nó cơ chế tự sửa lỗi và học sinh dạy lẫn nhau, theo đó các
lỗi hiểu sai đều được giải đáp, mà thường lại là trong bầu không khí rất thoải
mái. Học sinh có thể cùng nhau đạt được những điều mà các em không thể làm được
một mình, bằng cách là mỗi người đóng góp một phần hiểu biết để rồi tất cả kết
hợp lại là có được “bức tranh tổng thể”.
Khi học theo nhóm, học sinh sẽ thảo luận xoay quanh từng đề bài cụ thể. Hoạt động này không những lý thú mà còn tạo nhiều cơ hội cho các em học hỏi. Người học sẽ phải xử lý các tài liệu mới, sau đó tự mình tìm hiểu nó. Phương pháp học theo nhóm đã chuyển trách nhiệm phải hiểu được bài sang cho người học.
Nếu xét các thành tố giáo dục, có tính đến yếu tố “dạy lẫn nhau”, hoạt động nhóm bao gồm tất cả những gì học sinh cần, chỉ thiếu mỗi tài liệu ghi chép mà thôi (và ngay cả chi tiết này cũng có thể giải quyết được). Học sinh có cơ hội thực hành các kỹ năng trí tuệ bậc cao như kỹ năng sáng tạo, đánh giá, tổng hợp và phân tích. Các em cũng thực hành các “kỹ năng thông thường” như khả năng cùng làm việc và giao tiếp với nhau.
Ngoài ra, hoạt động nhóm mang lại cho học sinh một cơ hội thuận lợi để làm quen với nhau. Nó cũng khơi dậy sự gắn bó với tập thể, đặc biệt là khi có hiện diện yếu tố cạnh tranh, đây thực sự là một động cơ rất mạnh thúc đẩy các em. Giáo viên cũng có cơ hội tận dụng ý kiến và kinh nghiệm của người học.
Việc sử dụng nhóm sẽ cải thiện quan hệ giữa học sinh với nhau, tạo cho hai lớp học của bạn một bầu không khí tin cậy và khuyến khích hơn. Hầu hết mọi người ai cũng thích thú hoạt động giao tiếp xã hội, vì thế việc chia nhóm sẽ gây dựng được thái độ tích cực đối với hoạt động giảng dạy của giáo viên, và đối với môn học mà giáo viêưn dạy.
Khi làm việc theo nhóm, ý kiến của mọi thành viên đều được trân trọng và chấp nhận; trong khi đó phương pháp giáo viên độc thoại bỏ qua các ý kiến này. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với mọi giáo viên..
Tuy nhiên, cần tránh khuynh hướng hình thức và đề phòng lạm dụng cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu nhất của đổi mới phương pháp dạy học. Cần lựa chọn phối hợp các phương pháp một cách linh hoạt sáng tạo, với bài nào, với vấn đề gì áp dụng được thì ta nên mạnh dạn áp dụng.
Khi học theo nhóm, học sinh sẽ thảo luận xoay quanh từng đề bài cụ thể. Hoạt động này không những lý thú mà còn tạo nhiều cơ hội cho các em học hỏi. Người học sẽ phải xử lý các tài liệu mới, sau đó tự mình tìm hiểu nó. Phương pháp học theo nhóm đã chuyển trách nhiệm phải hiểu được bài sang cho người học.
Nếu xét các thành tố giáo dục, có tính đến yếu tố “dạy lẫn nhau”, hoạt động nhóm bao gồm tất cả những gì học sinh cần, chỉ thiếu mỗi tài liệu ghi chép mà thôi (và ngay cả chi tiết này cũng có thể giải quyết được). Học sinh có cơ hội thực hành các kỹ năng trí tuệ bậc cao như kỹ năng sáng tạo, đánh giá, tổng hợp và phân tích. Các em cũng thực hành các “kỹ năng thông thường” như khả năng cùng làm việc và giao tiếp với nhau.
Ngoài ra, hoạt động nhóm mang lại cho học sinh một cơ hội thuận lợi để làm quen với nhau. Nó cũng khơi dậy sự gắn bó với tập thể, đặc biệt là khi có hiện diện yếu tố cạnh tranh, đây thực sự là một động cơ rất mạnh thúc đẩy các em. Giáo viên cũng có cơ hội tận dụng ý kiến và kinh nghiệm của người học.
Việc sử dụng nhóm sẽ cải thiện quan hệ giữa học sinh với nhau, tạo cho hai lớp học của bạn một bầu không khí tin cậy và khuyến khích hơn. Hầu hết mọi người ai cũng thích thú hoạt động giao tiếp xã hội, vì thế việc chia nhóm sẽ gây dựng được thái độ tích cực đối với hoạt động giảng dạy của giáo viên, và đối với môn học mà giáo viêưn dạy.
Khi làm việc theo nhóm, ý kiến của mọi thành viên đều được trân trọng và chấp nhận; trong khi đó phương pháp giáo viên độc thoại bỏ qua các ý kiến này. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với mọi giáo viên..
Tuy nhiên, cần tránh khuynh hướng hình thức và đề phòng lạm dụng cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu nhất của đổi mới phương pháp dạy học. Cần lựa chọn phối hợp các phương pháp một cách linh hoạt sáng tạo, với bài nào, với vấn đề gì áp dụng được thì ta nên mạnh dạn áp dụng.
Lợi ích của công việc theo nhóm.
1.
Giúp học sinh làm việc
hợp tác.
2.
Cho phép học sinh học
hỏi lẫn nhau.
3.
Khuyến khích sự tham gia
của học sinh.
4.
Loại bỏ vết nhơ về thất
bại của học sinh.
5.
Cho phép giáo viên luân
chuyển xung quanh lớp học.
6.
Cho phép học sinh làm
việc với nhịp độ riêng.
7.
Cho phép học sinh tôn
trọng điểm yếu và điểm mạnh của người khác.
8.
Tạo cho học sinh tiếp
cận tới những thiết bị hiếm dùng.
9.
Tạo điều kiện cho công
việc hợp tác.
10.Tạo điều kiện cho một ngày hợp nhất.
11.Khuyến khích sự cùng ra quyết định.
12.Tạo điều kiện cho học sinh tập làm lãnh đạo.
13.Khuyến khích phát triển tính tự quản, khả năng xoay sở và tôn trọng bản
thân.
14.Tập trung vào quá trình cũng như sản phẩm.
15.Khuyến khích tư duy cấp cao.
16.Là một phương pháp đặc biệt hữu hiệu cho hoạt động giải quyết vấn đề.
17.Khuyến khích sự đồng nhất giữa những trẻ trong các chủng tộc khác nhau.
18.Khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề về bất đồng quan điểm.
19. Cải tiến các cuộc thảo luận và nói chuyện trong lớp.
|
Nguồn
[4: 320]
“Phương pháp dạy học theo
nhóm có những tác động tích cực về mặt nhận thức sau:
·
Học viên ý thức được khả năng của mình
·
Nâng cao niềm tin của học viên vào việc học tập
·
Nâng cao khả năng ứng dụng khái niệm, nguyên lý, thông tin về sự
việc vào giải quyết các tình huống khác nhau
Phương pháp dạy học theo
nhóm có những tác động cả về quan điểm xã hội như:
·
Cải thiện mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân
·
Dễ dàng trong làm việc theo nhóm
·
Tôn trọng các giá trị dân chủ
·
Chấp nhận được sự khác nhau về cá nhân và văn hoá
·
Có tác dụng làm giảm lo âu và sợ thất bại
·
Tăng cường sự tôn trọng chính bản thân mình”
Đó là tiền đề để
xây dựng một xã hội tốt đẹp mà không ai là không mong muốn. Qua sinh hoạt nhóm,
tình đoàn kết sẽ được tăng lên nhờ thông hiểu nhau. Và cũng qua đó, các thành
viên trong nhóm sẽ biết tuân thủ các qui định, trước hết là của nhóm. Đấy là
tiền đề để sau này học sinh là những công dân tuân thủ pháp luật tốt.
Thực tế không
phải chúng ta không có nhóm. Tuy nhiên việc học theo nhóm chỉ có trên hình
thức.
Trong tương lai, tôi nghĩ các nhà quản lý giáo dục sẽ tạo
điều kiện tốt hơn về chương trình, thời gian và điều kiện vật chất để phương
pháp dạy học theo nhóm trở thành phương pháp dạy học chính trong nhà trường.
II.2 Một số đề xuất
a. Đối với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Đổi mới PPDH cần phải được xác định như
một trách nhiệm cụ thể của toàn thể giáo viên, học sinh, cán bộ quản lý và cán
bộ phục vụ giáo dục ở trong nhà trường, chứ không phải chỉ là việc riêng của
giáo viên đứng lớp, mặc cho họ là những người trực tiếp tổ chức tiến hành và điều
khiển từng bài học, tiết học, lớp học
với học sinh của mình.
Rất coi trọng việc đổi mới PPDH, nhưng không vì thế mà luôn bị ám ảnh dẫn đến nặng nề trong công tác chuyên môn và đời sống thường ngày ở trường, ở tổ chuyên môn. Đổi mới PPDH với mục tiêu gần gũi là chuyển học sinh từ học thụ động sang học chủ động, tích cực là một quá trình đòi hỏi sự nỗ lực, kiên trì và cả sự dũng cảm của mỗi cán bộ, giáo viên. Không vì chạy theo thành tích mà làm vội, làm ẩu, nhân danh đổi mới để làm những việc không đáng phải làm. Việc đổi mới vừa có thể diễn ra đồng loạt, vừa có thể bắt đầu trọng điểm từ những yếu tố cốt lõi, tiền đề; có thể diễn ra trong toàn thể giáo viên, nhưng cũng có thể bắt đầu từ một số giáo viên có năng lực và kinh nghiệm dạy học; sau đó mở rộng dần.
Việc sử dụng công nghệ thông tin chỉ là một trong những biện pháp đổi mới PPDH. Công nghệ thông tin cũng chỉ là một loại phương tiện dạy học. Việc sử dụng chúng đạt hiệu quả hay không, có tác dụng thiết thực đến đổi mới PPDH hay không tuỳ thuộc vào cách dạy của từng giáo viên cụ thể. Nếu sử dụng loại phương tiện hiện đại này để thuyết trình bài học, thay cho việc ghi bảng của giáo viên, thì vẫn là cách dạy cũ làm cho học sinh thụ động trong học tập. Việc sử dụng công nghệ thông tin để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập, thông qua tổ chức hợp lí hoạt động nhận thức của học sinh là biện pháp đẩy nhanh việc đổi mới PPDH ở trường phổ thông, nâng cao chất lượng bài dạy học.
b. Đối với phương pháp dạy học theo nhóm:
Rất coi trọng việc đổi mới PPDH, nhưng không vì thế mà luôn bị ám ảnh dẫn đến nặng nề trong công tác chuyên môn và đời sống thường ngày ở trường, ở tổ chuyên môn. Đổi mới PPDH với mục tiêu gần gũi là chuyển học sinh từ học thụ động sang học chủ động, tích cực là một quá trình đòi hỏi sự nỗ lực, kiên trì và cả sự dũng cảm của mỗi cán bộ, giáo viên. Không vì chạy theo thành tích mà làm vội, làm ẩu, nhân danh đổi mới để làm những việc không đáng phải làm. Việc đổi mới vừa có thể diễn ra đồng loạt, vừa có thể bắt đầu trọng điểm từ những yếu tố cốt lõi, tiền đề; có thể diễn ra trong toàn thể giáo viên, nhưng cũng có thể bắt đầu từ một số giáo viên có năng lực và kinh nghiệm dạy học; sau đó mở rộng dần.
Việc sử dụng công nghệ thông tin chỉ là một trong những biện pháp đổi mới PPDH. Công nghệ thông tin cũng chỉ là một loại phương tiện dạy học. Việc sử dụng chúng đạt hiệu quả hay không, có tác dụng thiết thực đến đổi mới PPDH hay không tuỳ thuộc vào cách dạy của từng giáo viên cụ thể. Nếu sử dụng loại phương tiện hiện đại này để thuyết trình bài học, thay cho việc ghi bảng của giáo viên, thì vẫn là cách dạy cũ làm cho học sinh thụ động trong học tập. Việc sử dụng công nghệ thông tin để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập, thông qua tổ chức hợp lí hoạt động nhận thức của học sinh là biện pháp đẩy nhanh việc đổi mới PPDH ở trường phổ thông, nâng cao chất lượng bài dạy học.
b. Đối với phương pháp dạy học theo nhóm:
v Đối với nhà
trường:
Để áp dụng phương pháp này có hiệu quả cao, vấn đề có tính quyết định,
lại phụ thuộc ở quyết tâm đổi mới của các cấp quản lí và nhà trường. Trong bối
cảnh thói quen học tập thụ động còn phổ biến trong nhà trường hiện nay, rất cần
có những chủ trương, kế hoạch đúng đắn, hợp lí và những đầu tư thích đáng cho
việc áp dụng phương pháp này. Chuẩn bị đưqợc một thái độ học tập thích hợp của
người học và năng lực trình độ thích hợp
từ phía người dạy là một chặng đường dài, đòi hỏi phải biết kết nối mục
tiêu giảng dạy, chú trọng rèn luyện kĩ năng cho người học với việc qui hoạch
phát triển đội ngũ giáo viên để không ngừng nâng cao trình độ, kĩ năng cho đội
ngũ giáo viên.
Thiết bị, phương tiện vật chất có vai trò không nhỏ đến thành công của
việc sử dụng phương pháp này. Nhà trường cần có những phòng học nhỏ để phục vụ
chia nhóm và tổ chức thảo luận, bố trí cho mỗi lớp học với số lượng khoảng
20-30 học sinh, có máy chiếu….để nâng cao hiệu quả của phương pháp.
v Đối với giáo viên
Để đạt kết quả cao, giáo viên phải biết tổ chức nhóm,
hướng dẫn cách thực hiện, phân bổ thời gian hợp lý, giải đáp thắc mắc của học
sinh trước khi chính thức đi vào hoạt động, đồng thời ghi lại chủ đề và chỉ dẫn
lên bảng hoặc máy chiếu… Quan trọng hơn là việc giám sát của người thầy. Khi
học sinh tiến hành hoạt động, giáo viên chuyển từ vị trí người hướng dẫn sang
vị trí người giám sát. Nhiệm vụ của giáo viên lúc này là nhận biết tiến trình
hoạt động của các nhóm từ đó có thể có những can thiệp kịp thời để mang lại
hiệu quả. Muốn vậy khi giám sát hoạt động nhóm, giáo viên cần:
Chú ý đến hoạt động mà giáo viên yêu cầu lớp thực hiện. Không nên tranh thủ làm việc riêng khi học sinh đang thảo luận, vì như vậy học sinh sẽ không tập trung vào hoạt động.
Chú ý đến hoạt động mà giáo viên yêu cầu lớp thực hiện. Không nên tranh thủ làm việc riêng khi học sinh đang thảo luận, vì như vậy học sinh sẽ không tập trung vào hoạt động.
Di chuyển,
quan sát toàn bộ lớp để giám sát được mọi hoạt động.
Lắng nghe quá trình trao đổi của học sinh trong nhóm. Từ đó giáo viên có thể có những phát hiện thú vị và khả năng đặc biệt của từng em, hướng thảo luận của từng nhóm để điều chỉnh kịp thời.
Quan sát để xem có học sinh nào “đứng bên lề” hoạt động không? Nếu có, giáo viên tìm cách đưa các em vào không khí chung của nhóm.
Nhận biết bầu không khí xem các nhóm hoạt động “thật” hay “giả”. Có khi vấn đề giáo viên đặt ra là nguyên nhân gây nên sự thay đổi không khí hoạt động của nhóm. Nếu vấn đề quá khó học sinh không đủ khả năng giải quyết, ngược lại vấn đề quá dễ khiến học sinh không có gì phải làm. Cả hai trường hợp này đều có thể làm giảm đi độ “nóng” của bầu không khí trong lớp. Lúc này giáo viên cần có sự điều chỉnh kịp thời.
Khen ngợi và khuyến khích, gợi ý nếu thật sự cần thiết. Nếu các nhóm hoạt động tốt giáo viên nên bộc lộ sự hài lòng, đó là dấu hiệu cho học sinh thấy rằng các em đang đi đúng hướng và cứ đi tiếp.
Nhắc thời gian để các nhóm hoàn thành phần hoạt động của mình đúng thời gian quy định.
Lắng nghe quá trình trao đổi của học sinh trong nhóm. Từ đó giáo viên có thể có những phát hiện thú vị và khả năng đặc biệt của từng em, hướng thảo luận của từng nhóm để điều chỉnh kịp thời.
Quan sát để xem có học sinh nào “đứng bên lề” hoạt động không? Nếu có, giáo viên tìm cách đưa các em vào không khí chung của nhóm.
Nhận biết bầu không khí xem các nhóm hoạt động “thật” hay “giả”. Có khi vấn đề giáo viên đặt ra là nguyên nhân gây nên sự thay đổi không khí hoạt động của nhóm. Nếu vấn đề quá khó học sinh không đủ khả năng giải quyết, ngược lại vấn đề quá dễ khiến học sinh không có gì phải làm. Cả hai trường hợp này đều có thể làm giảm đi độ “nóng” của bầu không khí trong lớp. Lúc này giáo viên cần có sự điều chỉnh kịp thời.
Khen ngợi và khuyến khích, gợi ý nếu thật sự cần thiết. Nếu các nhóm hoạt động tốt giáo viên nên bộc lộ sự hài lòng, đó là dấu hiệu cho học sinh thấy rằng các em đang đi đúng hướng và cứ đi tiếp.
Nhắc thời gian để các nhóm hoàn thành phần hoạt động của mình đúng thời gian quy định.
C. VẬN DỤNG
Trong quá
trình dạy môn lịch sử, để tích cực hoạt động nhận thức của học sinh, biến người
học từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức, việc tổ
chức cho học sinh học theo nhóm là một biện pháp quan trọng. Tuy nhiên, để học
sinh thực sự hoạt động tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức và để nâng cao
hiệu quả giờ học, việc tổ chức học sinh học theo nhóm phải theo một qui trình
hợp lí,và không phải bài học lịch sử nào, mục nào, chương nào trong chương
trình sách giáo khoa cũng có thể thực hiện phương pháp dạy theo nhóm. Điều này
giáo viên cần nên phân biệt và biết cách vận dụng phương pháp sao cho bài dạy
đó tùy theo nội dung và điều kiện học tập cụ thể để nâng cao khả năng tự học
của học sinh đúng theo các bước, phù hợp với từng bài học, từng mục, từng vấn
đề cần thiết phải thực hiện của bài học lịch sử. Khi đã vận dụng phương pháp
này, giáo viên phải cần đặt ra câu hỏi khi xem xét lựa chọn hoạt động nhóm của
một vấn đề bao gồm:
- Mục tiêu của hoạt động nhóm là gì?
- Hoạt động này có phù hợp với số lượng học sinh trong nhóm không?
- Hoạt động này cần bao nhiêu thời gian?
- Tất cả học sinh tham gia có thu được lợi ích từ hoạt động này?
- Tóm tắt hoạt động này mất bao nhiêu thời gian?...
Trong đợt thực tập vừa qua (Đợt I/2008), tôi đã tiến hành thử nghiệm tại hai lớp 11A1 và 11A4 năm học 2007-2008 ở trường THPT Hoàng Hoa Thám, Quận Bình Thạnh, Tp.Hồ Chí Minh. Mỗi lớp gồm 48 học sinh. Mỗi lớp tôi chia thành 4 nhóm, tương đương với 4 tổ, mỗi nhóm đại diện 6 học sinh. Tôi tiến hành dạy một tiết, phần lịch sử Việt Nam, bài CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1858-1884) và chọn một mục là Chiến sự ở Gia Định và các tỉnh Nam Kì (1859-1862). Trước khi dạy bài này, tôi đã nhắc học sinh về nhà đọc trước sách giáo khoa, đồng thời tôi chia nhóm trước để ngày hôm sau tiến hành bài học.
- Mục tiêu của hoạt động nhóm là gì?
- Hoạt động này có phù hợp với số lượng học sinh trong nhóm không?
- Hoạt động này cần bao nhiêu thời gian?
- Tất cả học sinh tham gia có thu được lợi ích từ hoạt động này?
- Tóm tắt hoạt động này mất bao nhiêu thời gian?...
Trong đợt thực tập vừa qua (Đợt I/2008), tôi đã tiến hành thử nghiệm tại hai lớp 11A1 và 11A4 năm học 2007-2008 ở trường THPT Hoàng Hoa Thám, Quận Bình Thạnh, Tp.Hồ Chí Minh. Mỗi lớp gồm 48 học sinh. Mỗi lớp tôi chia thành 4 nhóm, tương đương với 4 tổ, mỗi nhóm đại diện 6 học sinh. Tôi tiến hành dạy một tiết, phần lịch sử Việt Nam, bài CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1858-1884) và chọn một mục là Chiến sự ở Gia Định và các tỉnh Nam Kì (1859-1862). Trước khi dạy bài này, tôi đã nhắc học sinh về nhà đọc trước sách giáo khoa, đồng thời tôi chia nhóm trước để ngày hôm sau tiến hành bài học.
Bàn ghế, bảng, giấy…đầy đủ tại phòng học. Thời luợng cho
bài học là 45 phút, đến phần Chiến sự ở
Gia Định và các tỉnh Nam Kì (1859-1862), Tôi sử dụng lược đồ giới thiệu về Gia
Định và tường thuật trên bản đồ. Và sau đó, dành 25 phút, trong đó:
+ Tôi dành 2 phút, cho học sinh xem sách giáo khoa và
phát 4 phiếu, tương ứng với 4 câu hỏi và yêu cầu các vấn đề phải thảo luận
nhóm.
ÆNhóm I: Vì sao khi thất bại ở Đà nẵng Pháp lại chuyển
vào xâm lược nước ta ở Gia Định. Những
khó khăn của quân Pháp gặp phải?
ÆNhóm II: Thái độ của nhân dân ta trước sự xâm lược của
thực dân Pháp?
ÆNhóm III: Thái độ của quan quân triều đình Huế?
- Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập bảng so sánh
thái độ của triều đình Huế và thái độ của nhân dân.
ÆNhóm IV: Nội dung
của Hiệp uớc nhâm Tuất (1862)? Hậu quả của nó?Vì sao triều đình Huế lại kí Hiệp
ước này?
+ Sau đó, Tôi dành 10 -12 phút cho học sinh trong mỗi
nhóm tiến hành thảo luận. Sau khi các nhóm thảo luận xong, học sinh mỗi nhóm cử
đại diện trình bày, cho học sinh khác bổ sung
+ Thời gian còn lại là 10 phút tôi tiến hành kiểm tra,
đánh giá và kết luận.
Kết quả, bài dạy được hoàn thành, tôi thu được kết quả:
học sinh đạt yêu cầu tăng 15,2%, khá và giỏi tăng 7, 6% so với kiểu dạy học chỉ
thiên về thuyết trình, giảng giải, học sinh thụ động, nghe và ghi chép.
- Một số kết luận sư phạm.
Cách dạy học theo kiểu chia nhóm mặt dù
được nghiên cứu trên cơ sở lý thuyết và chưa được ứng dụng nhiều ở trường phổ
thông nhưng theo tôi rất có tính khả thi
và phù hợp với hoàn cảnh thực tế hiện nay. Những bài mà các giáo viên áp dụng
lần đầu tiên theo cách chia nhóm, học sinh chưa quen nên sẽ mất trật tự và mất
thời gian. Khi đã thành nền nếp thì cách dạy này theo tôi chắc chắn tỏ ra có hiệu quả: Học sinh sẽ học tập một cách
chủ động hơn, tiếp thu rất hào hứng, tâm lý học tập thoả mái, không khí lớp học
sinh động hơn so với cách dạy học thiên về việc dạy học “lấy giáo viên làm
trung tâm”, thuyết giảng một chiều.
Bước đầu hình thành được ở học sinh khả
năng tự học, tự tìm tòi, nghiên cứu. Về cơ bản học sinh nắm được bài học ngay
trên lớp, biết vận dụng các kiên thức để làm các bài tập và học sinh cũng nhớ kiến thức được sâu hơn. Trong học
tập, học sinh thể hiện được tình bạn cao đẹp, giúp đỡ nhau trrong học tập.
Giảng dạy
theo cách chia nhóm, giáo viên vất vả hơn, vì phải chuẩn bị kĩ bài dạy ở nhà,
vừa phải tổ chức hoạt động dạy và học trong tiết học một cách khoa học, nhất là
lại phải duy trì trật tự trên lớp. tuy nhiên dạy học theo cách chia nhóm đã tạo
được sự gần gũi cởi mỡ người dạy và
người học, trong tiết học có sự giao lưu, có sự phản hồi từ phía học sinh, từ
đó giúp giáo viên điều chỉnh nội dung và phương pháp giảng dạy cho có hiệu quả
hơn. Sau một thời gian nhất định có thể thay đổi, điều chỉnh các thành viên
trong mỗi nhóm cho phù hợp hơn.
Các câu hỏi và yêu cầu hành động chỉ đặc
mức tối thiểu, có dạng mở nên khuyến khích họ sinh giỏi hoạt động, tham gia xây
dựng bài. Có thể mở rộng cách dạy học như trên để phụ đạo học sinh yếu, bồi
dưỡng học sinh khá, giỏi.
Theo cách
dạy học chia nhóm này, hy vọng là sẽ đạt được kết quả tốt, học sinh đạt yêu cầu
khá, giỏi tăng…so với cách dạy học theo kiểu truyền thống, thuyết trình, giảng
giải, học sinh thụ động nghe và chép.
D. KẾT LUẬN
Để
giúp người học tham gia vào đời sống xã hội một cách tích cực, tránh tính thụ
động, ỷ lại thì phương pháp dạy học trong nhà trường có một vai trò rất to lớn.
Dạy học theo nhóm đang là một trong những phương pháp tích cực nhằm hướng tới
mục tiêu trên. Với phương pháp này, người học được làm việc cùng nhau theo các
nhóm nhỏ và mỗi một thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào nhiệm vụ
đã được phân công sẵn. Hơn nữa với phương pháp này người học thực thi nhiệm vụ
mà không cần sự giám sát trực tiếp, tức thời của giáo viên.
Một nhiệm vụ mang tính cộng tác là nhiệm vụ mà người học không thể giải quyết một mình mà cần thiết phải có sự cộng tác thực sự giữa các thành viên trong nhóm tuy nhiên vẫn phải đảm bảo tính độc lập giữa các thành viên. Hơn nữa, người dạy cần phải có yêu cầu rõ ràng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác giữa người học. Việc sử dụng thuật ngữ “hợp tác” nhằm nhấn mạnh đến công việc mà người học tiến hành trong suốt quá trình thực thi nhiệm vụ. Trong quá trình hợp tác, công việc thường được phân công ngay từ đầu cho mỗi thành viên.
Cần chú ý rằng tầm quan trọng của nhiệm vụ được phân công và vai trò của nhiệm vụ sẽ quyết định động cơ học tập của người học. Người học sẽ có động cơ thực hiện nhiệm vụ của mình nếu họ biết rõ được vai trò của các nguồn thông tin ban đầu, của các nguồn lực sẵn có, biết được ý nghĩa của vấn đề, của các yếu tố đầu vào.
Trong thực tiễn, dạy học ở trường phổ thông, phương pháp dạy học theo nhóm đã được áp dụng rộng rãi và hiệu quả ở Châu Âu và Bắc Mĩ vào những năm 80-80 của thế kỉ XX cho đến ngày nay. Tuy nhiên, cần chú ý rằng phương pháp học tập theo nhóm được đánh giá cao hay thấp tuỳ theo vào nội dung mà ta muốn truyền đạt. Theo một vài tác giả, phương pháp này sẽ hiệu quả hơn đối với việc giải quyết các vấn đề, những nhiệm vụ không quá dễ đòi hỏi sự sáng tạo, ý tưởng đa dạng.
Dạy học theo nhóm đã, đang và sẽ được áp dụng rộng rãi như một tất yếu trong cuộc sống học đường. Trường học phải là cuộc đời, ở đó học sinh không phải chỉ học sống mà phải “học làm”, “làm tập thể”. Và phương pháp duy nhất nhằm vào cuộc sống đó, nếu không chẳng khác gì học bơi mà không xuống nước.
Một nhiệm vụ mang tính cộng tác là nhiệm vụ mà người học không thể giải quyết một mình mà cần thiết phải có sự cộng tác thực sự giữa các thành viên trong nhóm tuy nhiên vẫn phải đảm bảo tính độc lập giữa các thành viên. Hơn nữa, người dạy cần phải có yêu cầu rõ ràng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác giữa người học. Việc sử dụng thuật ngữ “hợp tác” nhằm nhấn mạnh đến công việc mà người học tiến hành trong suốt quá trình thực thi nhiệm vụ. Trong quá trình hợp tác, công việc thường được phân công ngay từ đầu cho mỗi thành viên.
Cần chú ý rằng tầm quan trọng của nhiệm vụ được phân công và vai trò của nhiệm vụ sẽ quyết định động cơ học tập của người học. Người học sẽ có động cơ thực hiện nhiệm vụ của mình nếu họ biết rõ được vai trò của các nguồn thông tin ban đầu, của các nguồn lực sẵn có, biết được ý nghĩa của vấn đề, của các yếu tố đầu vào.
Trong thực tiễn, dạy học ở trường phổ thông, phương pháp dạy học theo nhóm đã được áp dụng rộng rãi và hiệu quả ở Châu Âu và Bắc Mĩ vào những năm 80-80 của thế kỉ XX cho đến ngày nay. Tuy nhiên, cần chú ý rằng phương pháp học tập theo nhóm được đánh giá cao hay thấp tuỳ theo vào nội dung mà ta muốn truyền đạt. Theo một vài tác giả, phương pháp này sẽ hiệu quả hơn đối với việc giải quyết các vấn đề, những nhiệm vụ không quá dễ đòi hỏi sự sáng tạo, ý tưởng đa dạng.
Dạy học theo nhóm đã, đang và sẽ được áp dụng rộng rãi như một tất yếu trong cuộc sống học đường. Trường học phải là cuộc đời, ở đó học sinh không phải chỉ học sống mà phải “học làm”, “làm tập thể”. Và phương pháp duy nhất nhằm vào cuộc sống đó, nếu không chẳng khác gì học bơi mà không xuống nước.
Với xu hướng đổi mới phương pháp dạy và
học hiện nay cộng với tiến trình thay sách giáo khoa mới, người giáo viên phải
tổ chức hoạt động học tập sao cho có hiệu quả cả về mặt nhận thức cũng như kỹ
năng học và tiếp thu kiến thức của học sinh: “Học theo nhóm, học sinh thể hiện
được vai trò chủ thể tích cực sáng tạo trong hoạt động học tập của mình, giáo
viên chỉ làm nhiệm vụ tổ chức hướng dẫn, thiết kế các bài tập để kiểm tra kiến
thức, kỹ năng thực hành, hành vi thái độ của học sinh. Với cách dạy và
học này, học sinh có cơ hội thực hành các kỹ năng tự học, tạo không khí cạnh
tranh lành mạnh trong học tập”.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO:
1. Hoàng Ngọc Anh-Thử
nghiệm dạy học theo cách chia nhóm ở đại học, Tạp chí giáo dục, số 8/2002.
2.
Nguyễn Thị Côi- Hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ
thông, thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số7/2007.
3.
Lê Văn Tạc-Một số vấn đề cơ sở lí luận học hợp tác
nhóm, Tạp chí giáo dục, số 9/2002.
4.
Nguyễn
Trọng Tấn (dịch) (2005)- Cẩm nang thực hành giảng dạy, Nxb. ĐHSP Hà Nội, Hà
Nội.
5.
Văn
kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII Đảng Cộng sản Việt
Nam.(1997), NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội
6.
Vụ
công tác Lập pháp (2005)-những nội dung mới của Luật giáo dục năm 2005, Nxb.Tư
pháp, Hà Nội.
8.
Ngô Thị Thu Dụng-Một số vấn đề lí luận về kĩ năng
học theo nhóm của học sinh, Tạp chí giáo dục, quí 4/2002.
9.
Trần Thị Thu Mai- Về phương pháp học tập nhóm, Tạp chí nghiên cứu giáo
dục, số 12/2000.
10. Nguyễn Thị Hồng
Nam- Tổ chức hoạt động hợp tác trong học tập theo hình thức thảo luận nhóm, Tạp
chí giáo dục, số 3/2002.
11. Phan Ngọc Liên,
Trần Văn Trị (cb) (2004)-Phương pháp dạy học lịch sử, Nxb.GD, Hà Nội.