Sự thất bại của đồng Euro
Theo Martin Feldstein, giáo sư Đại học
Havard, có lẽ nên công nhận rằng đồng EUR hiện nay là một thử nghiệm
không thành công. Thất bại này, sau hơn một chục năm kể từ khi đồng EUR
ra đời năm 1999, không phải là một tai nạn hoặc là kết quả của việc quản
lý yếu kém hay quan liêu mà là hậu quả không thể tránh khỏi khi áp đặt
một đồng tiền duy nhất trên một nhóm các nước rất không đồng nhất.
Các hậu quả kinh tế bất lợi mà đồng
EUR mang lại bao gồm cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước châu Âu, tình
trạng mong manh của các ngân hàng lớn ở châu Âu, tỷ lệ thất nghiệp cao
trên toàn khu vực và thâm hụt thương mại lớn đang như căn bệnh dịch hạch
lây lan hầu hết các quốc gia khu vực Eurzone.
Mục tiêu chính trị tạo ra một Châu Âu
hài hòa cũng đã thất bại. Pháp và Đức đã phán quyết các biện pháp khắc
khổ rất đau đớn cho Hy Lạp và Italy coi như điều kiện giúp đỡ tài chính
của họ, và rồi lại đụng độ nhau về vai trò của Ngân hàng Trung ương châu
Âu (ECB), về việc chia sẻ gánh nặng hỗ trợ tài chính như thế nào.
Nhìn lại lịch sử, đồng EUR đã tồn tại
13 năm kể từ khi đồng đồng tiền chung của khu vực châu Âu được biết đến
tại thị trường tài chính của 11 quốc gia châu Âu năm 1999. Mặc dù vậy,
đến 1/1/2002, đồng EUR mới chính thức được lưu hành tại châu Âu bằng
việc phát hành các tờ tiền giấy và đồng xu tại 12 quốc gia.
Tính đến giữa năm 2011, tổng cộng đã
có 14,2 tỷ tờ tiền giấy và 95,6 tỷ đồng tiền xu với tổng trị giá 870 tỷ
EUR được lưu hành tại 17 quốc gia thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu.
Không chỉ là biểu tượng cho sự hội nhập của châu Âu, việc ra đời đồng
EUR đã tạo ra sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới.
Các động lực ban đầu dẫn đến việc hình
thành Liên minh Tiền tệ châu Âu và đồng EUR là chính trị, chứ không
phải kinh tế. Các chính trị gia lập luận rằng việc sử dụng một đồng tiền
chung sẽ thấm vào trong tâm trí người dân châu Âu cảm giác thuộc về một
cộng đồng chung và sự thay đổi trách nhiệm vì chính sách tiền tệ vốn từ
chính quyền các quốc gia để đi tới những thống nhất ở một ngân hàng
trung ương duy nhất tại Frankfurt đã báo hiệu sự thay đổi quyền lực
chính trị.
Từ một thị trường chung châu Âu trong
nửa đầu thế kỷ 20 đến một đồng tiền chung, quả thực không phải châu lục
nào cũng làm được. Chưa tính tới các giá trị kinh tế do đồng EUR mang
lại, chỉ với giá trị tinh thần không thôi, đồng EUR cũng đã xứng đáng
trở thành niềm tự hào của người dân châu Âu. Sự ra đời của đồng EUR còn
mang theo tham vọng của các nhà quản trị châu Âu, EUR sẽ trở thành một
loại "vũ khí" có thể làm đối trọng với đồng USD đang thống trị toàn thế
giới.
Tuy vậy, cùng với quá trình thực hiện,
các điều khoản trong việc kiểm soát thị trường chung và đồng tiền chung
châu Âu mau chóng bị vi phạm bởi các quốc gia chủ chốt nhất là Pháp và
Đức. Hội đồng Bộ trưởng các nước trong liên minh đã bỏ phiếu không áp
dụng hình phạt và từ đó, các điều khoản của hiệp ước suy yếu và mau
chóng trở nên vô nghĩa.
Có quan điểm cho rằng, đồng EUR có
“một cái chết được báo trước”. Rất lâu trước khi được chính thức giới
thiệu, các nhà kinh tế đã chỉ ra những tác dụng phụ mà một đồng tiền duy
nhất sẽ tác động đến nền kinh tế của các nước châu Âu. Một đồng tiền
chung đòi hỏi tất cả các nước trong liên minh phải có cùng một chính
sách tiền tệ và tỷ lệ lãi suất cơ bản, với mức lãi suất các khách hàng
vay khác nhau. Một đồng tiền duy nhất cũng có nghĩa là tỷ giá hối đoái
cố định và tất cả các nước phải có cùng tỷ giá hối đoái. Do đó, đồng EUR
sẽ dẫn đến những biến động về sản lượng và việc làm, điều chỉnh chậm
chạp trong việc giảm tổng cầu, và có sự mất cân bằng thương mại liên tục
giữa châu Âu và phần còn lại của thế giới.
Thật vậy, tất cả những kết quả tiêu
cực đã xảy ra trong những năm gần đây khiến các nước châu Âu bị dập vùi
trong những cơn bão khủng hoảng liên tục. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu
vừa qua chưa kịp khắc phục hậu quả đã phải đối mặt với khủng hoảng nợ
công. "Đám cháy" bắt đầu từ Hy Lạp lan rộng sang các nước khác dường như
đang điểm thời khắc cho sự tồn tại của những thứ không thể chung. Có
một cách đang được Hy Lạp xem xét là rời khỏi khu vực đồng EUR và trở về
với đồng tiền riêng của mình mặc dù sự di chuyển như vậy không được quy
định trong Hiệp ước Maastricht. Từ bỏ đồng EUR và tạo ra một đồng tiền
mới sẽ cho phép phá giá và mặc định rằng những nỗi đau đớn về kinh tế sẽ
dịu đi rất nhiều so với hiện tại. Nếu Hy Lạp bỏ đi và giảm giá đồng
tiền, Italia cũng sẽ xem xét một chiến lược tương tự. Và nếu Italy trở
lại với một đồng lira mới giá trị tương đối thấp hơn so với các đồng
tiền khác, áp lực cạnh tranh có thể buộc Pháp rời khỏi khu vực châu Âu
và phá giá đồng franc mới. Tại thời điểm đó, EMU sẽ sụp đổ.
Lẽ ra đồng EUR đã không gây ra căng
thẳng và xung đột ở châu Âu nếu nó không tồn tại. Các bước tiếp theo
hướng tới một liên minh tài chính vĩnh viễn sẽ chỉ làm trầm trọng thêm
những căng thẳng này, có chuyên gia kinh tế Mỹ đã nhận định như vậy.
Cuộc khảo sát mới đây tại Đức cho thấy, 85% người Đức đổ lỗi lạm phát
cao là do đồng EUR. Hơn một thập kỷ, trái ngược với những hồ hởi và kỳ
vọng lúc ra đời, đồng EUR đã khiến các nước sử dụng đồng tiền đứng trước
cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và nguy cơ tan rã.
Tương lai của đồng NDT
Nếu trước đây thế giới thường tưởng
tượng về một danh mục dự trữ quốc tế với đồng USD và EUR làm bá chủ thì
với thất bại của châu Âu trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công,
đã thổi bùng những nghi ngại về khả năng sống sót của đồng EUR. Còn
đồng USD thì đang mất dần “ánh hào quang” của mình. Ngân hàng trung ương
nhiều nước đang vội vã tìm kiếm các công cụ thay thế. Điệp khúc mà các
học giả và các nhà kinh tế nói tới ngày càng nhiều hiện nay là: Trung
Quốc – vốn là nhà xuất khẩu, chủ nợ công lớn nhất thế giới, lại còn là
nền kinh tế lớn thứ hai - sẽ sớm trở thành nhà cung cấp tiền tệ dự trữ
của thế giới một ngày nào đó.
Theo quan điểm này, đồng NDT được kỳ
vọng sẽ sớm thay thế đồng USD. Nhà kinh tế học Arvind Subramanian gần
đây đã viết, đồng NDT "có thể trở thành đồng tiền dự trữ hàng đầu vào
cuối thập niên này, hoặc đầu thập kỷ tới". Quan điểm này đã rất thu hút
sự quan tâm. Bằng chứng là các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tung ra nhiều
nỗ lực phối hợp để quốc tế hóa đồng NDT. Trong hội nghị thượng đỉnh G20
tháng 11 năm 2008, ở đỉnh cao của cuộc khủng hoảng tài chính, Chủ tịch
Trung Quốc Hồ Cẩm Đào kêu gọi "một trật tự tài chính quốc tế mới công
bằng, toàn vẹn và có thứ tự". Trung Quốc đã sớm bắt đầu khuyến khích
việc sử dụng NDT trong thương mại quốc tế, trao đổi thoả thuận giữa ngân
hàng trung ương, tiền gửi ngân hàng và phát hành trái phiếu tại Hong
Kong. Trong sáu tháng đầu năm 2011, giao dịch thương mại sử dụng NDT lên
tới 146 tỷ USD, tăng gấp 13 lần so với cùng kỳ trong năm trước đó. Đến
giữa năm 2011, tiền gửi NDT tại Hong Kong tương đương 85 tỷ USD, gấp
khoảng mười lần so với tuyên bố của ông Hồ Cẩm Đào kể từ năm 2008. Đồng
NDT đã được chấp nhận như là một hình thức thanh toán ở Mông Cổ,
Pakistan, Thái Lan, và Việt Nam.... Nước này đã có thỏa thuận với
Brazil, tạo thuận lợi cho hai bên sử dụng đồng tiền của nhau trong các
giao dịch thương mại song phương. Bên cạnh đó là thỏa thuận trao đổi
bằng đồng NDT với Argentina, Belarus, Indonesia, Hàn Quốc và Malaysia.
Các loại tiền tệ trong rổ tiền tệ SDR
(viết tắt của cụm từ “Speacial Drawing Rights”: Quyền rút vốn đặc biệt)
bao gồm các loại tiền tệ chính được sử dụng trong thương mại và tài
chính quốc tế. Hiện, rổ tiền tệ SDR gồm có: đồng EUR, bảng Anh, yên
Nhật, đô la Mỹ. Các nhà chức trách Trung Quốc nói rằng cho tới năm 2015,
họ muốn đồng NDT được đưa vào “rổ” các loại tiền tệ mạnh xác định giá
trị của quyền rút vốn đặc biệt (SDR), tài sản dự trữ của Quỹ Tiền tệ
Quốc tế. Strauss-Kahn, khi còn là Chủ tịch IMF tin rằng, cùng với sự lớn
mạnh không ngừng của nền kinh tế Trung Quốc, áp lực phải đưa đồng NDT
vào “rổ” SDR sẽ ngày càng lớn.Và Trung Quốc đã công bố ý định biến
Thượng Hải thành một trung tâm tài chính quốc tế vào năm 2020.
Không ai có thể nghi ngờ về sự vươn
lên mạnh mẽ của đồng NDT. Bởi vì nền kinh tế toàn cầu đang trở nên đa
cực thì hệ thống tiền tệ quốc tế cũng sẽ trở nên đa cực hơn, với một số
đồng tiền cùng chia sẻ vị trí là đồng tiền dự trữ. Tuy nhiên, câu chuyện
đang nổi lên về ưu thế thống lĩnh của NDT là vẫn chưa hoàn toàn đúng.
Đồng tiền của Trung Quốc có sự gia
tăng toàn cầu nhưng chậm hơn so với dự đoán thông thường. Và nhân dân tệ
có khả năng đảm nhận một vị trí trong số các đồng tiền dự trữ thứ cấp
như đồng EUR, yen, franc Thụy Sĩ, và bảng Anh - hơn là thay thế hoàn
toàn đồng USD vốn đang chi phối. Rõ ràng, cũng không phải là Trung Quốc
không muốn đồng NDT thay thế USD nhưng những bước đi tiến tới quốc tế
hóa tiền tệ phản ánh không chỉ một chiến lược lâu dài, nhất quán, hoàn
chỉnh mà còn là một quá trình tiến hóa hình thành bởi những nhà hoạch
định chính sách của Trung Quốc trên phạm vi và tốc độ cải cách tài chính
biến NDT thành đồng tiền quốc tế quan trọng.
Theo các chuyên gia, để một đồng tiền
trở thành đồng dự trữ quốc tế, quốc gia sở hữu đồng tiền đó cần đáp ứng 5
điều kiện là có một nền kinh tế thực sự lớn; có sự mở cửa thị trường và
các thị trường này hoạt động hiệu quả; có một nền chính trị ổn định và
quản lý kinh tế vĩ mô hợp lý; có một hệ thống luật pháp chặt chẽ, minh
bạch, bảo vệ được quyền lợi của các nhà đầu tư và có tầm ảnh hưởng về
địa chính trị.
Cần điều chỉnh hệ thống tiền tệ toàn cầu
Kinh tế thế giới năm 2012 vẫn chưa thể
“cất cánh” kéo theo những tác động lớn của sự điều chỉnh chính sách
tiền tệ toàn cầu. Dưới con mắt của các chuyên gia kinh tế, con người
ngày càng có cái nhìn rộng hơn và có lựa chọn khôn ngoan hơn. Họ nhìn
vào “rổ” tiền tệ, trong đó, ngoài EUR, NDT có cả những đồng tiền khác
như USD, Bảng Anh, Yen Nhật. Mỗi đồng tiền có một thế mạnh, thế yếu khác
nhau. Trên các sàn giao dịch châu Á đầu tuần này, ngày 9/4, nếu so
trong “rổ” tiền tệ thì đồng EUR lại “chìm xuồng” trong khi đồng Yên Nhật
thì tăng giá trước bối cảnh các nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm tỏ ra thận
trọng và tìm đến với đồng Yên vốn được coi là an toàn hơn.
Tương quan về giá trị và sức ảnh hưởng
của hai đồng tiền có lẽ chưa cách xa nhau lắm. Nhưng nếu bối cảnh thế
giới vẫn tiến triển xấu đi đối với khu vực đồng EUR và ảnh hưởng của
Trung Quốc ngày một lan tỏa trên thế giới thì rõ ràng hai loại tiền tệ
trên đang có xu hướng phát triển ngược nhau, lệch nhau và sẽ cách nhau
rất xa. Vấn đề là, không một quốc gia nào giữ mãi được thặng dư, dù sớm
hay muộn, họ sẽ rơi vào tình trạng thâm hụt và phải viện đến các khoản
vay quốc tế. Vì vậy, nếu thiếu sự hợp tác trên toàn cầu trong việc đưa
ra quyết định, thế giới sẽ triền miên lâm vào khủng hoảng. Còn việc
“tiền lên, tiền xuống” là một tính chất tất yếu không chỉ trong phạm vi
những đồng bạc mạnh mà còn của mọi loại tiền tệ thế giới. Do vậy, nên
chăng, cần điều chỉnh lại cấu trúc trong hệ thống tiền tệ toàn cầu trước
khi xem xét việc đa dạng hóa các đồng tiền dự trữ?
Hòa Bình(http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/BAICHU/2012/4/831FFA26374E0301/)
|