Lê Bích Ngọc
Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông
1. Bắc Phi
Ở
Ai Cập, đám cưới là một công việc mang tính gia đình và là sự kết hợp
của hai cuộc đời, hai gia đình. Trong đám cưới, cô dâu luôn đóng vai trò
đặc biệt và rất được coi trọng vì cô dâu chính là cây cầu nối giữa tổ
tiên với thế hệ tương lai. Sở dĩ cô dâu được coi trọng hơn chú rể còn vì
rất có thể sau này cô sẽ sinh ra một đứa trẻ đầy sức mạnh, cây đại thụ
của gia đình.
Người
con gái Ai Cập kết hôn rất sớm, khoảng 12-15 tuổi. Thông thường thì anh
em họ lấy nhau. ở thủ đô Cairô, đàn ông đến tuổi lấy vợ sẽ nhờ mẹ và
chị em gái giúp đỡ hoặc tìm bà mối se duyên. Khi được người con trai hỏi
cưới, người con gái sẽ thuê một người phụ nữ đứng ra thách cưới với nhà
trai và thống nhất ngày tổ chức lễ cưới. .Đôi khi ngay sau khi thỏa
thuận xong, đôi trai gái lấy nhau luôn mà không cần tổ chức lễ cưới. Còn
nếu tổ chức lễ cưới thì vào đêm cuối của ngày được quyết định làm lễ
cưới, chú rể và những người bạn sẽ mang một phần lễ thách cưới đến nhà
cô dâu và hôn lễ được cử hành. Trong lễ thành hôn của mình, cô dâu và
chú rể ngồi đối diện nhau và ngón tay cái bên phải đặt sát nhau, người
đọc kinh Coran sẽ dùng chiếc khăn quấn hai ngón tay của cô dâu và chú rể
vào với nhau và bắt đầu cầu nguyện cho họ. Tuy nhiên phải một số ngày
sau đó chú rể mới đến đón cô dâu về nhà của mình, họ mới bắt đầu sống
với nhau, khi đó bạn bè và gia đình mới đến chúc mừng họ.
Ở Môritani, con gái trước khi lấy chồng phải ăn uống
tẩm bổ thật nhiều để cơ thể phát triển đến mức cao nhất. Một người phụ
nữ to béo, eo to, cổ ngắn, ngực to, vai rộng được xem là một phụ nữ đẹp,
quyến rũ. Không cần khuôn mặt xinh đẹp, vóc dáng thon thả mà chỉ cần có
các tiêu chuẩn trên thì các cô gái Môritani được xem là những người phụ
nữ có vẻ đẹp truyền thống nơi đây. Bất kỳ người đàn ông nào cũng tự hào
khi cưới được một người vợ có đầy đủ các tiêu chuẩn này. Thậm chí, nếu
cô nào không thể béo lên được là đồng nghĩa với việc cô không lấy được
chồng. Vì vậy, những gia đình có con gái thì truớc khi con họ đến tuổi
trưởng thành họ phải cho con gái ăn thật nhiều thức ăn được chế biến từ
thịt và sữa bò cho tới khi nào thân thể cô gái phát triển rõ rệt có thể
lấy chồng được mới thôi. Đám cưới của người Môritani không giống các nơi
khác chỉ tổ chức 1-2 ngày, mà ở đây họ tổ chức liên tiếp 7 ngày và ngày
nào cũng náo nhiệt, đông vui. Đám cưới chỉ kết thúc khi chú rể đưa cho
bố mẹ vợ dây màu có xâu tiền trước mặt mọi người để nhận người thân. Mẹ
vợ nhận sợi dây buộc vào cổ chân con gái để nói lên cuộc sống sau này
phát đạt, viên mãn. Sợi dây này của người Môritani cũng giống như chiếc
nhẫn cầu hôn của người phương Tây. Vì vậy, sau khi đám cưới kết thúc, cô
dâu, chú rể vẫn sống riêng, phải đợi tới hai năm sau chú rể cùng bạn bè
dắt lạc đà được trang điểm đẹp mắt tới đón, hai người mới chính thức
sống bên nhau mãi mãi. Trong thời gian hai năm này, hai người vẫn thỉnh
thoảng về ở với nhau. Sau khi cưới, hai người sống chung một tuần rồi ai
về nhà nấy. Hai tháng sau họ gặp lại sống chung hai, bốn hoặc sáu ngày
rồi lại chia tay. Hai hoặc bốn tháng sau họ lại gặp nhau sống với nhau
ít ngày rồi lại thôi. Sở dĩ như vậy vì ở Môritani các cô gái trưởng
thành rất sớm, 10 tuổi đã phát triển toàn diện và có thể lấy chồng,
nhưng vì tuổi còn nhỏ, có nhiều chuyện cô dâu chưa hiểu nên chỉ sống với
chồng vài ngày rồi lại về nhà mẹ đẻ để được mẹ dạy dỗ và hướng dẫn
thêm. Cứ như vậy trong suốt hai năm gặp gỡ rồi lại chia tay, sống chung
ít sống riêng nhiều, cô dâu đã dần dần trưởng thành và có nhiều kinh
nghiệm để tự xử lý những tình huống xảy ra trong cuộc sống. Còn việc tại
sao cô dâu, chú rể chỉ chọn các ngày tháng chẵn để gặp và sống với nhau
là vì người dân Môritani rất tin vào những con số chẵn, họ cho rằng các
số chẵn thể hiện sự may mắn, tốt lành, nên làm bất kỳ công việc gì họ
cũng nhất nhất chọn những ngày mang số chẵn.
Tại
vùng Tualaji của xứ sở Libi có một phong tục rất lạ. Phong tục này được
lưu giữ từ thời xã hội mẫu hệ và cũng ít nhiều liên quan tới hôn nhân.
Đó chính là phong tục đàn ông che mạng. Che mạng là một nét văn hoá của
người châu Phi, nhưng từ trước tới nay hầu như chỉ có người phụ nữ phải
che mạng cho kín đáo để không bị người ngoài nhìn thấy. Còn ở Tualaji,
những người đàn ông nào được coi là công dân tự do mới được che mạng.
Đàn ông ở khu vực khác khi kết hôn với cô gái ở Tualaji phải ở rể và khi
chuyển đến ở nhà vợ sẽ phải mang mạng che mặt. Có một điều đặc biệt
mang dấu ấn mẫu hệ ở đây là đàn ông dù là công dân tự do nhưng lấy vợ nô
lệ thì con cái sinh ra không đựoc coi là công dân tự do và không được
phép che mạng. Còn phụ nữ có quyền tự do dù lấy chồng nô lệ nhưng khi
sinh con thì con cái của họ vẫn được coi là công dân tự do và có quyền
che mạng.
2. Đông Phi
Ở
bộ tộc người Swahili tại Kênia, trước hôn lễ, cô dâu được tắm trong dầu
và gỗ đàn hương rồi dùng nhựa cây lá móng (một loại cây có thể chế biến
thuốc nhuộm tóc) trát lên chân và tay.
Người
Swahili cho rằng làm như vậy sẽ xua đuổi được tà ma vất vưởng bên ngoài
và ngăn không cho ma nhà cô gái đi theo. Sau khi tắm gội xong, một
người phụ nữ lớn tuổi trong bộ lạc sẽ chỉ cho cô dâu cách làm vui lòng
đấng phu quân của mình, thậm chí cả mánh khóe che dấu sự không còn trong
trắng của mình trong đêm tân hôn và dạy cô dâu cách sống, cách đối nhân
xử thế với những người trong gia đình nhà chồng.
Đối
với bộ tộc người Masai, hôn nhân thường được sắp đặt trước và cô dâu
phải cưới người đàn ông lớn tuổi hơn mình mà chưa bao giờ biết mặt. Gia
đình cô gái sẽ chọn những người đàn ông phù hợp trong bộ tộc và đặt vấn
đề. Nếu người đàn ông đồng ý cưới cô gái cùng với những sính lễ nhà gái
yêu cầu thì hôn lễ sẽ được tổ chức ngay sau đó. Khi cô dâu chuẩn bị theo
chú rể về nhà, bố cô dâu sẽ đặt tay lên đầu và ngực cô dâu để cầu chúc
cho đôi vợ chồng trẻ hạnh phúc. Khi ra khỏi nhà, cô dâu không được phép
quay đầu lại bởi theo thần thoại cô dâu sẽ bị hóa đá. Khi cô dâu đến
cổng nhà chú rể, một người phụ nữ bên gia đình chồng đứng chờ sẵn ở cửa
để mắng chửi cô dâu. Đây chính là một nghi lễ xua điềm xấu.
Tại
vùng biển phía đông Kênia vẫn còn lưu hành tập tục hôn nhân đến ở rể
nhà gái. Vì vậy, thay vì đón dâu như các khu vực khác thì ở đây mọi
người tổ chức nghi lễ đón rể ở nhà gái và lễ tiễn chú rể ở nhà trai.
Nghi lễ tiễn chú rể được tổ chức vào buổi tối. Khi tiếng trống, tiếng
hát vang lên đoàn người vây quanh chú rể đưa đến nhà gái. Dẫn đầu sẽ là
hai cô gái tay bê mâm cau trầu, mặc áo dài thật đẹp và sặc sỡ như hai
con bươm bướm dẫn đường, cuối đoàn là cha mẹ chú rể. Đến cổng nhà gái,
cha mẹ cô dâu bước ra nhận lễ và mời chú rể vào nhà. Khi chú rể bước vào
phòng, việc đầu tiên là tìm cô dâu ngồi lẫn cùng bạn bè sau tấm rèm. Vì
không nhìn thấy mặt cô dâu cho nên có khi chú rể nhận nhầm mấy lần
khiến mọi người cười lên vui vẻ; chỉ khi thấy chú rể lo lắng và trở nên
luống cuống một cô bạn sẽ giật dây bắc cầu tác thành cho hai người. Khi
hai người nắm được tay nhau tấm rèm mới được kéo ra và khi ấy chú rể mới
chính thức được xem là đã được đưa đến nhà.
Văn
hóa ẩm thực của người Êthiôpia rất đặc biệt. Vì đa số đều coi Cơ đốc
giáo là quốc giáo nên số ngày ăn chay chiếm số lượng đáng kể. Trước lễ
phục sinh 40 ngày (thời kỳ đại trai), người dân ở đây mới có thể ăn thịt
và các đồ tanh. Đây là khoảng thời gian tuyệt vời đối với những người
nghiền ăn món thịt bò, đặc biệt là thịt bò sống. Đối với những người ở
đây, thịt bò ngon phải là loại thịt mềm còn nóng hổi từ những con bò vừa
bị giết. Có hai cách để ăn món thịt bò sống này. Cách thứ nhất là thái
thịt còn đang dính máu tươi thành những miếng vuông, dùng dao nhỏ cắt
lát thành miếng mỏng rồi trộn với bột ớt, để một lúc cho ngấm rồi ăn.
Cách thứ hai là băm nát thịt tươi trộn thêm gia vị ăn kèm với bánh
Inkila. Trong bữa ăn gia đình, người Êthiôpia không dùng bàn ghế mà dùng
một cái sọt đan bằng sậy, bên trên đậy cái nắp phẳng giống như một cây
nấm lớn. Trên nắp sọt bày bánh Inkila, đĩa thịt sống, bột ớt, tương ớt.
Thông thường, họ ăn thịt bò trước rồi ăn bánh có phết tương ớt sau. Khi
ăn, nếu ai để rớt tương ớt ra sọt hoặc xuống đất sẽ bị coi là hành vi
thiếu lịch sự. Dùng thịt bò sống đãi khách là một trong những lễ nghi
truyền thống của người Êthiôpia. Khi vào bữa ăn, nữ chủ nhân đưa đến
trước mặt khách một đĩa đựng đầy thịt sống rồi gắp từng miếng đút cho
khách. Khách chưa nuốt trôi miếng này chủ đã gắp miếng khác cho đến khi
nữ chủ nhân cảm thấy đã bầy tỏ hết lòng hiếu khách mới thôi. Cách tiếp
đãi thịnh tình này khiến khách không thể từ chối, bởi nếu không ăn khách
sẽ bị coi là mất lịch sự với chủ nhân.
3. Tây Phi
Tại
đất nước Nigiêria xinh đẹp, trước hôn lễ cả nhà trai và nhà gái sẽ tổ
chức một bữa tiệc lớn. Trong bữa tiệc này, hai nhà làm quen với nhau và
nhà trai tặng quà cho nhà gái. Sau bữa tiệc, cô dâu sẽ về sống với gia
đình chồng. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ thì hôn lễ mới được tổ chức. ở
một số bộ lạc của Nigiêria, người chồng không được phép gọi tên thật của
vợ mình mà phải gọi bằng tên của bố vợ, ngoại trừ họ hàng và mẹ của hai
người. Trước đám cưới, những người trong làng tập trung lại với nhau và
hát mừng cô dâu chính thức đi lấy chồng. Cô dâu được đưa vào trong một
túp lều nhỏ và ở trong đó cho đến khi chú rể vào và đám cưới kết thúc.
Trước khi chú rể bước vào trong lều, chú rể còn phải làm một nhiệm vụ
quan trọng: tặng quà cho hết lượt khách còn ở lại. Ngày hôm sau, trước
khi đôi vợ chồng thức dậy và bước ra khỏi lều, người dân trong bộ tộc
giết một con dê và lấy máu của nó tưới lên ngưỡng cửa của đôi vợ chồng
trẻ. Mẹ cô dâu sẽ hỏi cô dâu có hài lòng với người chồng của mình không,
sau đó mọi người ca hát, nhảy múa chúc mừng cho hai gia đình. Ai muốn
xem mặt cô dâu phải trả một xu và muốn động vào cô dâu bằng một chiếc
que đặc biệt phải trả thêm một xu nữa. Người ta cho rằng đây là dấu hiệu
của may mắn.
Ở
bộ tộc người Wodaabe của Nigiêria, khi đi hỏi vợ là những cô gái trong
bộ tộc, tất cả anh em họ chưa có vợ sẽ đeo những chiếc bùa mà họ coi là
có thể tăng sức hấp dẫn nhất và cùng đi hỏi cô gái. Đôi khi, những người
anh em họ cùng được một cô gái để ý tới. Song khi cô dâu chọn được chú
rể của mình rồi, những người anh em họ không được chọn vẫn được mời tới
nhà chơi và nếu như cô dâu đồng ý, họ sẽ lên giường với nhau. Theo cách
nghĩ của người Wodaabe, việc cô dâu ngủ cùng với những người anh em họ
không có gì xấu và đáng chê trách bởi họ có cùng chung dòng máu với chú
rể. Khi cô dâu không đồng ý thì những người anh em họ cũng vui vẻ ra về
và tình cảm gia đình không hề rạn nứt.
Cách
sống trọng tình nghĩa của người Mali còn được thể hiện qua phong tục ma
chay của bộ tộc Dogon. Khi trong bộ tộc có người chết, các thành viên
trong bộ tộc quấn thi thể bằng nhiều lớp vải rồi cột vào dây thừng, sau
đó kéo lên vách núi cao hơn 90m để đến hang chôn tập thể. Người Dogon
cho rằng khi thân thể người chết ở trên cao họ dễ dàng được siêu thoát
hơn. ở trong hang chôn tập thể, linh hồn người mới chết sẽ được các linh
hồn cũ dạy cho cách sống ở thế giới bên kia và linh hồn người mới chết
sẽ không thấy cô đơn vì được sống cùng những linh hồn của những người
trong bộ tộc đã mất trước đó. Cứ 12 năm một lần, người dân Dogon lại tổ
chức lễ hội Dama kéo dài 6 tuần lễ để đưa những vong hồn còn lưu lại
trong hang và vất vưởng quanh làng trở về thế giới bên kia.
Tại
Ghana, nơi có bộ tộc Ashati – là bộ tộc lớn nhất và mạnh nhất được hình
thành như một vương quốc thống trị tại nước này cách đây 300 năm vẫn
duy trì ngôi vua. Cứ mỗi mười năm lại tổ chức một lễ hội linh đình để
tái khẳng định sức mạnh của bộ tộc mình. Trong lễ hội này, vua Ashati
đeo vàng đầy người, chỉ riêng hai cánh tay cũng phải cần bọn tùy tùng
nâng hộ bởi cánh tay nặng trĩu toàn vàng… Khi vua đi diễu hành quanh bộ
tộc, các thần dân tung hoa lên khắp các đường rước nhà vua đi. Ghana
không chỉ đặc biệt ở lễ hội này mà ở đây còn một phong tục rất kỳ lạ:
tục Trokosi (nô lệ tế thần) – đây là một phong tục có từ lâu đời: dâng
nộp gái trinh đẹp phục vụ cho tù trưởng hoặc giáo sĩ. Phong tục này được
đặt ra gần như là để xử phạt những gia đình phạm phải các tội như: trộm
cắp, ngộ sát… Khi cống nạp thể xác một cô gái trinh nguyên trong gia
đình cho thần linh, người tin rằng tội lỗi gây ra sẽ được gột rửa, thoát
khỏi sự trừng phạt của những lời nguyền bí hiểm. ở từng nơi, phong tục
này có những nét khác biệt riêng, nhưng các Trokosi ở đâu cũng phải chịu
nỗi thống khổ như nhau. Có những gia đình không có con gái lớn phải
dâng các bé gái chỉ mới một, hai tuổi. Các Trokosi già sẽ phải nuôi các
bé này lớn lên và đến kỳ kinh nguyệt đầu tiên thì thực sự trở thành nô
lệ tế thần đúng nghĩa với buổi lễ công nhận chính thức rồi sau đó – như
tập tục lâu đời, vị giáo sĩ (được xem là hiện thân của thần) bắt đầu có
quyền ăn nằm với nạn nhân bất cứ lúc nào ông ta muốn. Tại ngôi đền của
giáo sĩ, các Trokosi - thậm chí lúc mang thai - vẫn làm lụng nặng nhọc,
nai lưng làm lụng dưới cái nắng khủng khiếp trên các nương rẫy. Tuy làm
lụng vất vả nhưng những cô gái này không được hưởng chút thành quả lao
động nào. Thức ăn cô ăn hàng ngày và để nuôi con đều do gia đình cô chu
cấp, dù đứa trẻ chính là con của giáo sĩ. Cay đắng hơn, khi Trokosi
chết, gia đình cô phải tự lo ma chay chôn cất và trong nhiều trường hợp
còn phải dâng nộp một gái trinh khác trong gia đình mình để thay thế cho
Trokosi vừa chết. Đó là trường hợp các Trokosi được dâng nạp chưa kịp
“phục vụ” giáo sĩ hoặc thời gian cô làm việc cho đền thờ chưa được một
năm… Hiện nay trong một số ngôi đền ở Ghana, vài phụ nữ tế thần đã là
thế hệ Trokosi thứ năm, họ vẫn câm lặng làm việc và cống nạp thân xác để
trả giá cho một sai lầm hay tội lỗi gì đó mà gia đình đã phải chịu, dù
lỗi lầm đó đã trải qua hàng chục năm thậm chí hàng trăm năm. Nếu Trokosi
nào không chịu nỗi những cay đắng tủi nhục bỏ chốn mà bị bắt lại đều
phải hứng chịu những trận đòn kinh hoàng và những ngày sau đó còn hơn
sống trong địa ngục. Hiện nay ở một vài nơi tại Ghana, phong tục Trokosi
đang bị phản ánh gay gắt. Những chiến dịch chống đối và nhiều trường
học dành cho Trokosi được lập ra. Nhưng dù thế nào thì trên khuôn mặt
của những cô gái nô lệ của thần linh đã hằn sâu sự bi ai và thống khổ
tột cùng mà không liệu pháp tinh thần nào có thể xóa bỏ được. Theo thống
kê, chỉ riêng ở 12 ngôi đền thuộc Ghana và Tôgô đã có tới 10.000 cô gái
nô lệ của thần linh.
Ở
châu Phi nói chung và Tây Phi nói riêng, phụ nữ luôn phải chịu những hủ
tục nặng nề. Trong khi ở Ghana và một số nơi khác, tục Trokosi chưa bị
xóa sạch, thì ở Xiêra Lêôn phụ nữ lại chịu tập tục tefoos (cắt bỏ âm
vật). Tập tục này đã bám rễ rất lâu đời ở nhiều nước châu Phi, đặc biệt
là ở Xiêra Lêôn. ở đất nước này còn thành lập hẳn hội Bundo – một tổ
chức chiếm tới 90% phụ nữ ở đây. Bundo cương quyết chống lại một số ít
phụ nữ có học dám chứng minh rằng tefoos đem lại nhiều bệnh tật cho phụ
nữ: nhiễm trùng máu, uốn ván, hoại thư, tiêu khó, nhiễm trùng kinh niên
bộ phận sinh dục ngoài, đau nhức xương chậu, mất chức năng sinh hoạt
tình dục và đau đớn khi sinh… Đối với các thành viên Bundo, trẻ em gái
phải thực hiện tefoos, nếu không họ chỉ là những người thuộc loại
Ogborraka – bẩn thỉu và chẳng xứng đáng là con cháu của thần linh. Theo
ghi nhận của Tổ chức Y tế Thế giới, hiện có khoảng 130 triệu phụ nữ ở ít
nhất 22 nước châu Phi bị cắt âm vật và mỗi năm chừng 2 triệu trẻ gái
phải chịu hình thức “phẫu thuật dã man này”. Tổ chức Y tế Thế giới đã
chính thức xem tefoos là hành động phi nhân quyền. Tuy nhiên cho đến
nay, ở Bundo thuộc Xiêra Lêôn và nhiều tổ chức khác tại châu Phi vẫn
chống đối quyết liệt trước sự can thiệp nhằm xóa bỏ tập tục tefoos do
phương Tây đã và đang khởi xướng mạnh mẽ từ đầu thập niên 1990.
4. Trung Phi
Khác với Côngô, đám tang ở Camơrun được xem như một dịp để tổ chức lễ
lạt. Lễ chôn cất được tiến hành vào buổi sáng, đó là một sự kiện long
trọng được tiến hành để thể hiện sự kính trọng đối với người đã khuất.
Buổi chiều thường được dành để cho bà con thân thuộc của người chết tụ
họp với nhau. Các thành viên trong gia đình tụ họp mỗi người mang theo
một ít rượu dừa hòa lẫn chung với nhau trong một bình mimbo lớn. Sau đó,
những người tham dự cùng nhau uống thứ rượu được hòa chung đó như một
cách biểu hiện sự đồng lòng của họ, vừa để tỏ lòng kính trọng người
chết, vừa để xác định cùng nhau rằng cuộc sống vẫn đang tiếp tục. Theo
tín ngưỡng truyền thống châu Phi, thứ tín ngưỡng có ảnh hưởng và thậm
chí còn làm cơ sở cho Thiên chúa giáo trên lục địa này, thì giữa người
chết và người còn sống vẫn còn có mối quan hệ chặt chẽ. Đám tang không
được coi là điểm đến cuối cùng của một đời người. Điều đó giúp giải
thích không khí lễ hội đặc trưng cho các hoạt động vào buổi chiều tối
hôm tang lễ. Nếu người chết có một người họ hàng hay bạn bè có chân
trong một ban nhạc thì đám tang nhất định sẽ trở nên sống động hơn nhiều
với màn trình diễn của ban nhạc đó. Một đám tang được tổ chức chu đáo
có thể kéo dài từ một đến ba ngày, và các điệu nhảy thường diễn ra suốt
đêm.
Ở Camơrun, người ta khó có thể tìm được một lễ hội nào tổ chức giống như lễ hội Giáng sinh, lễ Tạ ơn hay tết năm mới như ở các nước phương tây, Bắc Mỹ hay Trung Quốc. Mà ở đây có rất nhiều những lễ hội địa phương đa dạng lạ lùng dành cho vô số dịp hội hè, những giai đoạn quan trọng trong đời người. Chẳng hạn như để tưởng nhớ một vị tù trưởng vừa mới mất và vinh danh sự lên ngôi của vị tù trưởng mới thì ở miền Tây Camơrun có lễ hội tháng Tư. Trong lễ hội đó, một nghi lễ truyền thống là vị tù trưởng địa phương biến mất trong một cái hang và chỉ xuất hiện sau đó, khi một đám rước long trọng tiến đến nơi miệng hang để đón ông ta. Vị thầy bói trong làng đánh dấu lên trán những người tham gia lễ hội bằng một than củi trộn với nước, còn phụ nữ thì được một lá bùa giúp cho sinh được nhiều con hơn. Cũng trong tháng tư này, lễ hội hoàn tất việc thu hoạch được tổ chức. Lễ hội này được tổ chức để cầu cho mùa màng tươi tốt và phụ nữ sinh nhiều con cái. Ngày xưa trong lễ hội này, ta thường hiến tế dê. Các cộng đồng khác nhau có những nghi lễ theo tập quán khác nhau để đánh dấu những mùa vụ quan trọng trong đời sống nông nghiệp của mình. Một số tộc người đặt một chiếc bình đặc biệt để hở miệng ra ngoài trời nơi cánh đồng nhà mình. Những lễ vật nho nhỏ được dâng cúng để tỏ lòng kính trọng với vị thần của cánh đồng. Trước thời gian thu hoạch, để giữ cho muông thú và chim chóc khỏi phá hoại mùa màng, người ta cũng tổ chức nhiều lễ hội có trẻ em tham gia, chúng đeo những chiếc mặt nạ vẽ và trình diễn những điệu nhảy trên cánh đồng.
Ở Camơrun, người ta khó có thể tìm được một lễ hội nào tổ chức giống như lễ hội Giáng sinh, lễ Tạ ơn hay tết năm mới như ở các nước phương tây, Bắc Mỹ hay Trung Quốc. Mà ở đây có rất nhiều những lễ hội địa phương đa dạng lạ lùng dành cho vô số dịp hội hè, những giai đoạn quan trọng trong đời người. Chẳng hạn như để tưởng nhớ một vị tù trưởng vừa mới mất và vinh danh sự lên ngôi của vị tù trưởng mới thì ở miền Tây Camơrun có lễ hội tháng Tư. Trong lễ hội đó, một nghi lễ truyền thống là vị tù trưởng địa phương biến mất trong một cái hang và chỉ xuất hiện sau đó, khi một đám rước long trọng tiến đến nơi miệng hang để đón ông ta. Vị thầy bói trong làng đánh dấu lên trán những người tham gia lễ hội bằng một than củi trộn với nước, còn phụ nữ thì được một lá bùa giúp cho sinh được nhiều con hơn. Cũng trong tháng tư này, lễ hội hoàn tất việc thu hoạch được tổ chức. Lễ hội này được tổ chức để cầu cho mùa màng tươi tốt và phụ nữ sinh nhiều con cái. Ngày xưa trong lễ hội này, ta thường hiến tế dê. Các cộng đồng khác nhau có những nghi lễ theo tập quán khác nhau để đánh dấu những mùa vụ quan trọng trong đời sống nông nghiệp của mình. Một số tộc người đặt một chiếc bình đặc biệt để hở miệng ra ngoài trời nơi cánh đồng nhà mình. Những lễ vật nho nhỏ được dâng cúng để tỏ lòng kính trọng với vị thần của cánh đồng. Trước thời gian thu hoạch, để giữ cho muông thú và chim chóc khỏi phá hoại mùa màng, người ta cũng tổ chức nhiều lễ hội có trẻ em tham gia, chúng đeo những chiếc mặt nạ vẽ và trình diễn những điệu nhảy trên cánh đồng.
Vào
tháng 12 hàng năm ở miền Tây Camơrun, người Bali còn tổ chức lễ hội
Lêla. Lễ hội này tổ chức trong bốn ngày. Cũng như các lễ hội địa phương
khác, lễ hội này là một sự kiện rất quan trọng đối với các thành viên
trong cộng đồng người Bali. Vào những ngày này, những người nào sống và
làm việc xa gia đình đều tìm cách trở về nhà tham gia lễ hội. Đó cũng là
thời gian để gia đình đoàn tụ và gặp gỡ bạn bè nhằm thắt chặt thêm tình
bằng hữu. Vị tù trưởng là trung tâm của sự chú ý trong suốt những ngày
lễ hội. Trong ngày đầu tiên, ông ta cưỡi lên lưng ngựa đi đến con sông
gần làng để hiến tế một con gà, dân làng đi theo ông ta. Nếu tất cả mọi
chuyện đều tốt đẹp thì các vị thầy bói sẽ khẳng định lại rằng các thần
linh đã hài lòng và lễ hội có thể bắt đầu. Những ngày tiếp theo sẽ tràn
đầy các màn nhảy múa, tiệc tùng và các cuộc thi bắn súng. Trong các ngày
lễ hội này mọi người đều mặc những bộ quần áo đẹp nhất của mình.
Tại
vùng cao nguyên phía tây hay còn gọi là miền đồng cỏ có hai tộc người
Bamileke và người Tikar sinh sống. Hai tộc người này có nghệ thuật chạm
khắc rất tinh tế. Họ chạm khắc những mặt nạ và hình người bằng gỗ và ngà
voi. Những môtip chạm khắc phổ biến là hình đầu người, thường có dạng
to bẹt, miệng há rộng và hình những con thú như: voi, cá sấu báo và rùa.
Nhện, một sinh vật quan trọng trong phép bói toán, cũng là một trong
những môtip hay được sử dụng. Những hình tượng chạm khắc rất cầu kỳ
thường để trang trí cho các cây cột trong ngôi nhà truyền thống. Các cây
cột được bố trí dàn ra hai bên lối vào ngôi nhà. Những đồ vật gia dụng
khác như giường và chân giường, các chiếc cốc bằng sừng để uống rượu…
cũng được chạm khắc rất tinh xảo. Các vị tù trưởng thường sở hữu những
chiếc ngai và ghế chạm khắc rất cầu kỳ.
Trong
nền văn hóa truyền thống của người Bamileke, chỉ có tù trưởng và những
nhân vật có địa vị cao mới được phép đeo mặt nạ hình đầu voi trong các
lễ hội và các dịp thờ cúng. Con voi được coi là một trong những con thú
hùng mạnh nhất của vùng đất này, là biểu tượng cho địa vị và của cải của
các tù trưởng địa phương và các ông vua. Trong một vài truyền thuyết,
vị tù trưởng có một quyền năng thần kỳ: có thể biến thành voi. Đi kèm
với chiếc mặt nạ là một bộ trang phục cầu kỳ, được trang trí cho mọi
người ai cũng phải chú ý đến địa vị của người mặc nó. Ngoài ra, còn có
các chuỗi hạt thủy tinh, một thứ tài sản được lưu truyền lại từ thời
buôn bán nô lệ khi chúng đóng vai trò như một thứ tiền tệ.
Tại
miền bắc Camơrun, hàng năm vẫn tổ chức lễ hội hóa trang. Hội hóa trang
này cũng có thể tổ chức nhân những sự kiện đặc biệt như chào đón cuộc
viếng thăm của một nhân vật đặc biệt nào đó. Những hình ảnh về lễ hội
hóa trang được trình bầy trên các tờ quảng cáo
du lịch có thể khiến người ta có ấn tượng đó là một cuộc đua ngựa,
nhưng đó không phải là một cuộc tranh tài. Hàng trăm con ngựa có thể
tham gia lễ hội cùng với các kỵ mã, chúng được mặc những bộ trang phục
lóng lánh, sặc sỡ. Đây là một lễ hội công cộng và là một dịp để nhảy
múa, chơi nhạc.
5. Nam Phi
Ở Namibia,
trước khi lễ cưới diễn ra, chú rể người Himba và một số người thuộc nhà
chồng sẽ bắt cóc cô dâu và diện cho cô ta bộ áo cưới bằng da. Khi cô
dâu đến nhà mới của chú rể, họ hàng anh ta chỉ cho cô ta biết trách
nhiệm làm vợ và bày tỏ sự chấp thuận gia đình bằng việc bôi lên người cô
dâu loại sữa bò béo. Còn đối với người Ndebele, đám cưới phải trải qua
ba bước. Bước cuối cùng có thể mất nhiều năm. Bước đầu tiên là đàm phán
về thách cưới với gia đình nhà gái và khoản thách cưới đó được trả dần
bằng tiền và gia súc. Bước thứ hai, cô dâu được cho ra ở riêng hai tuần,
trong thời gian đó một người phụ nữ khác sẽ chỉ cho cô dâu cách làm một
người vợ tốt. Bước thứ ba, lễ cưới chỉ được tiến hành khi cô dâu sinh
được con đầu lòng. Tại cộng hòa Nam Phi, người dân rất hãnh diện với
những lễ hội của mình và họ rất háo hức tham gia vào những sự kiện đặc
biệt này. Một trong những sự kiện văn hóa quan trọng nhất của Nam Phi là
liên hoan nghệ thuật Grahamstow, được tổ chức hàng năm vào tháng Bảy và
kéo dài trong khoảng hai tuần lễ. Festival này nổi bật ở chỗ nó có đủ
tất cả loại hình nghệ thuật biểu diễn, từ những vở kịch chống chế độ
Apartheid đến kịch Shakespeare, múa bale, kịch câm, tạp kỹ và múa. Các
bộ phim nước ngoài cũng được trình chiếu trong khi những nghệ sĩ địa
phương trưng bầy các tác phẩm của họ. Du khách và dân địa phương đắm
mình trong bầu không khí sáng tạo nghệ thuật bao trùm thành phố. Những
màn biễu diễn ấn tượng nhất thường được tổ chức bên ngoài các địa điểm
chính của festival, nơi các nghệ sĩ nghiệp dư biểu diễn với giá vé vào
xem rất rẻ. Nhiều nghệ sĩ, tác giả và nhạc sĩ nổi tiếng nhất Nam Phi đã
khởi đầu sự nghiệp lẫy lừng của họ từ festival Grahamstown. Vẻ độc đáo
của thành phố cũng đóng góp vào thành công to lớn của ngày hội. Tiền thu
được ở lễ hội dành để tài trợ cho giới nghệ sĩ, và hàng năm nhiều giải
thưởng đã được trao trong các lĩnh vực điêu khắc, opera, âm nhạc và
balê. Nhưng điều quan trọng hơn cả là festival này được mọi người đến
với nhau trong không khí ngày hội, không phân biệt màu da, sắc tộc. ở
Nam Phi, tết năm mới cũng được tổ chức linh đình như ở nhiều nước khác.
Lễ lạt diễn ra ngoài trời, có picnic, tiệc ngoài trời và bơi lội. Bãi
biển luôn đông nghẹt người. Tết năm mới ở Nam Phi rơi vào mùa hè, trong
khi những nước thuộc Bắc bán cầu là mùa đông. ở Cape Town, người Nam Phi
đón mừng ngày tết Tweedenuwejaar (năm mới lần hai) vào ngày mùng một và
mùng hai tháng giêng. Ngày tết này ra đời từ lễ hội Carnival Coon hàng
năm do nhóm Capecoons đứng ra tổ chức và biểu diễn. Các nghề sĩ này vẽ
mặt mày, đội nón và mặc trang phục nhiều màu sắc. Các nghệ sĩ dẫn đầu
một đám rước đường phố vui nhộn, vừa đi vừa nhảy múa và hát những bài ca
ứng khẩu. ở Nam Phi, lễ Giáng sinh và Phục sinh là những ngày lễ chính
thức và mọi người được đều được nghỉ làm. Lễ Giáng sinh được tổ chức
tương tự như ở các nước khác, chỉ có điều Noel lại rơi vào mùa hè, vì
thế nhiều người ở đây đã chọn cách dọn một bữa tiệc ngoài trời thay vì
một bữa ăn truyền thống trong nhà. Một số gia đình đi lễ nhà thờ, còn
người dân thì mua những đồ ăn xa xỉ tùy theo túi tiền của mình, một cây
thông Noel và quà Giáng sinh cho gia đình và bạn bè. Đa số tín đồ Kitô
giáo đi nhà thờ vào ngày chủ nhật phục sinh để tỏ lòng kính chúa Jesus
phục sinh. Những quả trứng phục sinh làm bằng chocolate được đem giấu
cho trẻ con đi tìm, những chiếc bánh ngọt có hình cây thánh giá được đem
ra ăn vào ngày chủ nhật Phục sinh. Thành phố Roodepoort tự hào là nơi
tổ chức cuộc thi quốc tế Roodepoort Eisteddfot. Được tổ chức hai năm một
lần vào tháng mười, Roodepoort Eisteddfot là cuộc thi tài âm nhạc quốc
tế lớn nhất ở Nam Bán cầu. Khoảng 8000 người từ hơn 60 quốc gia đến
tranh tài trong ngày hội văn hóa này. Tiết mục dự thi gồm những thể loại
như đồng ca, thanh nhạc, nhạc cụ, hát múa nhạc dân gian, ban nhạc, dàn
nhạc giao hưởng và các bản nhạc mới sáng tác. Lễ hội này thu hút người
dân khắp nơi trên đất nước Nam Phi, vì cuộc thi luôn có sự tham gia của
những tài năng âm nhạc xuất sắc từ các địa phương trong nước. Du khách
từ các nơi trên thế giới cũng đổ về Nam Phi chỉ để được tham dự festival
Roodepoort Eisteddfot. Điểm thu hút chính của cuộc thi luôn là những ca
đoàn của nhà thờ của người da màu và da đen với những giai điệu độc đáo
và những chất giọng tuyệt vời. Ngày hội Majuba thường được tổ chức vào
ngày 27 tháng Hai. Lễ hội này là để kỷ niệm ngày người Anh bại trận dưới
tay người Boer tại Majuba Hill, một ngọn núi nằm trên đường biên ngăn
cách hai vùng Natal và Transvaal. Một liên hoan Concerto hàng năm dành
cho những nhạc sĩ trẻ biểu diễn nhạc cổ điển. Ngoài ra, còn có liên hoan
các dàn đồng ca thanh niên Afrikaner hàng năm. Festival âm nhạc
Tretoria do hội nhạc sĩ Nam Phi tổ chức, cũng là một liên hoan âm nhạc
nội tiếng. Cộng đồng người gốc á cũng có nhiều lễ hội tôn giáo và thế
tục truyền thống. Người Hindu ấn Độ kỷ niêm lễ hội Deepavali (ánh sáng)
vào tháng mười hay tháng mười một để mở đầu năm mới truyền thống của
mình. Người Cape Malay và người theo đạo Hồi tuân thủ nghi thức ăn chay
hàng ngày trong tháng Chay Ramadan thiêng liêng. Mùa chay kết thúc vào
tháng Ramadan với một lễ hội tưng bừng, thực khách thoải mái thưởng thức
những món ăn
truyền thống, như bánh gối, cari, bánh rán chilibite. Trong tháng chay
linh thiêng, tín đồ Hồi giáo đi lễ ở các thánh đường với trang phục lễ
hội.
Nguồn: http://www.tinmoi.vn