Thứ Hai, 16 tháng 4, 2012

11. Văn hóa chuyên nghiệp

Ảnh minh họa
LTS: Văn hóa là nền tảng vô cùng quan trọng của mỗi một quốc gia, bởi nó làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác. Trong thời đại ngày nay, việc làm thế nào để vẫn giữ được những nét riêng của dân tộc mình trong khi vẫn có thể biến các giá trị văn hóa thành tiền bạc, mang lại những giá trị kinh tế cho đất nước luôn được các quốc gia tính đến và cọi trọng. Đất nước chúng ta vốn được biết đến là một dân tộc giàu bản sắc và tiềm năng văn hóa. Nhưng để biến những giá trị văn hóa thành thế mạnh kinh tế, chúng ta cần phải có một chiến lược rõ ràng, tổng thể và dài hơi và đặc biệt là phải biết làm văn hóa một cách chuyên nghiệp.

Văn hóa là nền tảng vô cùng quan trọng của một quốc gia, bởi nó làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Nếu không có một nền văn hóa riêng, đậm đà bản sắc dân tộc, một quốc gia sẽ bị lẫn lộn với các nước khác, đặc biệt là những nước láng giềng.
Trong thế kỷ 21 - thế kỷ của văn hóa – các quốc gia sử dụng việc truyền bá văn hóa, thương mại hóa các sản phẩm văn hóa như một phương cách phi truyền thống để tạo ảnh hưởng đến các nước khác. Từ năm 1990, Giáo sư Joseph S. Nye (Đại học Harvard) đã dùng thuật ngữ “sức mạnh mềm” (soft power) để chỉ tầm quan trọng của yếu tố này và nó được các quốc gia thúc đẩy và tăng cường ở mọi nơi bằng những chiến lược và hành động rất cụ thể.
Thua trên sân nhà
Người Việt Nam, từ thuở ấu thơ, không ai là không thuộc nằm lòng những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết con rồng – cháu tiên, từ nỏ thần và thành Cổ Loa của An Dương Vương đến ngọc trai Mỵ Châu hay giếng Trọng Thủy; Từ những cây tre Đằng Ngà cùng ngựa sắt phun lửa của thánh Gióng, về sự tích Hồ Gươm,… Những ngôi nhà rông Bok Sơ-gơ trong truyền thuyết Ba Na, những chiêng đồng tiếng vang xa 7 ngọn núi đến sự tích Trầu Cau hay những chiếc bánh trưng bánh dày… Với nền văn hóa lâu đời, Việt Nam sở hữu một kho tàng huyền thoại phong phú, đầy sức sống, thể hiện qua những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể.
Thế nhưng, theo thời gian, mỗi người Việt dần trưởng thành và họ không thể tìm thấy khung trời cổ tích ấy trong đời thực – nếu có thì nó cũng khiến người ta cảm thấy buồn, thờ ơ hoặc thất vọng… bởi huyền thoại được tô điểm quá đẹp đẽ và gần gũi, trong khi thực tế thì trần trụi và cô độc. Tiếp nhận bản sắc của chính mình nhưng không ít người Việt chỉ ước có một chiếc vé đi tuổi thơ để được đắm mình trong những không gian văn hóa tưởng tượng.
Những ai từng đặt chân đến Trung Quốc, biết đến văn hóa trà và huyền thoại Trảm Mã trà của đất nước láng giềng phía Bắc này, mới hiểu tại sao những bánh trà lâu năm của họ có giá tính bằng cả chục cây vàng. Thậm chí, họ còn đem đấu giá trà như một bảo vật – chẳng khác gì rượu vang quý lâu đời ở phương Tây. Khách thưởng trà bỏ tiền ra uống thứ trà xa xỉ ấy không hẳn vì trà ngon, mà họ thưởng thức về dày văn hóa vài ngàn năm của văn hóa trà truyền lại và lan tỏa từ thời Thần Nông của nước này. Đó là bởi trà đã được người kinh doanh trà của Trung Quốc “làm sang” bằng những huyền thoại và tập tục văn hóa của họ.
Ở Việt Nam, các giá trị văn hóa tồn tại khá tách rời và gần như không có mối liên hệ mật thiết nào đáng kể với con người và không gian văn hóa đương đại. Các sản phẩm lâu đời cứ thế ra thị trường với cái tư thế “em xinh em đứng một mình cũng xinh”, trong khi kho tàng văn hóa sản sinh ra nó cứ rơi rụng dần vào quên lãng.
Các nhà kinh doanh văn hóa không mấy mặn mà với “di sản” và kinh doanh di sản – thứ sản phẩm “độc quyền” của Việt Nam với tất cả những quốc gia khác, mà họ chủ yếu vẫn mải chạy theo “hốt bạc” từ việc tổ chức sự kiện văn hóa như ca nhạc, thời trang, gameshow, điện ảnh “mì ăn liền”… Tuy nhiên, vì các yếu tố tồn tại quá độc lập với nhau nên hiệu quả không như mong muốn. Đó là chưa nói đến cách làm cẩu thả, thiếu văn hóa nền tảng căn bản… đã cho ra đời những sản phẩm văn hóa méo mó, tạp nham và rẻ tiền – theo nghĩa đen. Đó thể hiện ở sự xuất hiện của hàng loạt các khái niệm mới về “thảm họa văn hóa”.
Hội nhập văn hóa ở Việt Nam đã sớm xuất hiện mặt trái khi mà các nhà kinh doanh văn hóa bị cuốn theo làn sóng văn hóa ngoại lai, trong khi mà những di sản lâu đời của dân tộc không được bảo tồn và phát huy một cách đúng đắn… tất sẽ dẫn đến hệ quả thiếu bền vững của việc ăn xổi, ở thì. Các sản phẩm văn hóa không được sản sinh từ một quy trình chuyên nghiệp ở tất cả các khâu, thiếu sự liên kết từ nội lực đến ngoại lực nên dễ dẫn đến chất lượng kém và không đủ sức chống chọi với những sản phẩm văn hóa được sản xuất một cách bài bản.
Hãy khoan nói đến tham vọng đưa văn hóa Việt ra với thế giới – nên nhìn nhận một cách trung thực xem mỗi người Việt đã tự tin khi giới thiệu bản sắc văn hóa của mình với bạn bè là người ngoại quốc hay chưa? Câu trả lời nếu ở thể khẳng định thì rất khó được thốt lên một cách tự tin. Bởi có một thực tế là chúng ta chưa hề xây dựng được bức tường thành bảo vệ văn hóa trước khi hội nhập với thế giới. Và, một quốc gia khó có thể dùng “sức mạnh mềm” của mình để tạo ảnh hưởng tới các nước khác khi sức mạnh văn hóa bản địa vẫn chưa được củng cố và vẫn đang thua trên chính sân nhà.
Trông người mà ngẫm…
Nhắc đến việc làm văn hóa một cách rất chuyên nghiệp của các nước, không thể không nhắc đến những “cường quốc” về văn hóa, mà không dừng lại ở việc bảo tồn, cùng với sự phát triển bền vững, văn hóa của nhiều nước đã và đang bộc lộ sức mạnh lan tỏa đáng sợ. Trong số đó, không thể không kể đến Hàn Quốc - với làn sóng Hallyu, Nhật Bản - với sự ảnh hưởng khắp thế giới của truyện tranh và Mỹ - với chiến lược “công nghiệp hóa” âm nhạc, điện ảnh và trò chơi – trong đó, quyền lực chiếm ưu thế chính là Kinh đô điện ảnh Hollywood.
Những năm 60 của thế kỷ trước, Hàn Quốc nằm trong danh sách những quốc gia nghèo nhất thế giới. Nhưng nửa thế kỷ sau, năm 2011, nước này đã lọt vào top 10 cường quốc kinh tế trên thế giới với GDP lên tới 832,5 tỉ USD. Để có được cú bứt phá ngoạn mục đó, xứ sở kim chi đã thực sự thành công trong việc tiếp thị, quảng bá văn hóa và sử dụng văn hóa dân tộc để làm ảnh hưởng, tác động tới các quốc gia khác với làn sóng Hallyu được khởi động từ những năm đầu tiên của thế kỷ 21.
Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak từng khẳng định: “Văn hóa sẽ là nguồn vốn quyết định kinh tế trong thế kỷ 21. Chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống mà trong đó, tất cả mọi người bất kể đang sống ở đâu và thuộc tầng lớp xã hội nào cũng có thể được trải nghiệm văn hóa trong đời sống hàng ngày”. Nhờ xây dựng được nền tảng văn hóa vững chắc đến từng người dân, từng tế bào của đất nước, Hàn Quốc đã liên tiếp gặt hái thành công trong kinh doanh và xuất khẩu văn hóa bản địa. Trong khi thế giới còn đang sửng sốt khi Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc công bố ngành Văn hóa nước này đã thu về 794 triệu USD trong năm 2011, tăng 25% so với năm 2010, thì làn sóng Hallyu đã thể hiện sự hồi sinh mạnh mẽ của mình bằng kế hoạch “thôn tính” thế giới của những ban nhạc đình đám nhất xứ Hàn. Cũng trong năm 2011, Hàn Quốc đã thu hút hơn 8,8 triệu du khách nước ngoài nhờ vào thành công của các bộ phim truyền hình – đó thực sự là những con số đáng mơ ước đối với bất kỳ quốc gia nào.
Ở phía bên kia bán cầu, với phương châm cứ thấy lợi thì làm, người Mỹ đã thu lợi hàng nghìn tỷ USD mỗi năm nhờ khai thác tối đa “sức mạnh mềm”. Châu Âu - Thủ đô của nền văn học vĩ đại, thời trang cao cấp, trào lưu làn sóng mới (Nouvelle Vague) trong điện ảnh… thế giới tưởng như là bức thành trì không thể công phá, nhưng cũng bị người anh em ở bên kia Đại Tây Dương soán ngôi ngay trên chính sân nhà. Những tác phẩm điện ảnh bom tấn từ Hollywood đã chinh phục cả châu Âu và đẩy châu lục khai sinh ra điện ảnh thế giới vào cảnh khốn đốn.
Với vị thế là thị trường văn hóa lớn nhất thế giới (38,2 tỉ USD), Mỹ đã chứng tỏ khả năng sản xuất ra một thứ "văn hóa mà mọi người đều thích". Và trong vai trò phổ biến nền văn hóa có tính đại chúng này, Hollywood đã làm tròn vai đại sứ của mình, khi mà những sản phẩm của Kinh đô điện ảnh thế giới có mặt ở khắp mọi ngõ ngách trên hành tinh. Hollywood đã góp phần quan trọng quyết định trong việc hình thành “giấc mơ Mỹ” và góp công sức làm cải thiện đáng kể hình ảnh nước Mỹ đối với thế giới.
Trở về khu vực châu Á, đất nước mặt trời mọc được coi là một trong những quốc gia đầu tiên sớm nhận thức rõ thế mạnh của việc bảo tồn và lan tỏa văn hóa dân tộc. Được coi là tiền bối của Hàn Quốc trong kinh doanh văn hóa, xứ sở hoa anh đào đã đạt mức tăng trưởng liên tục trong suốt 15 năm qua, với đủ sản phẩm, từ điện ảnh, phần mềm, ca nhạc đến video game. Trong đó, hiệu quả và có sức ảnh hưởng quốc tế lớn nhất là ngành công nghiệp truyện tranh, với 60% phim hoạt họa truyền hình thế giới được sản xuất tại Nhật. Nếu như điện ảnh Hàn Quốc đang thể hiện rõ tham vọng “thống trị” màn ảnh thế giới và trước đó là Mỹ, thì truyện tranh Nhật Bản đã và đang mê hoặc độc giả đủ mọi lứa tuổi trên khắp hành tinh.
Xuất khẩu văn hóa Việt – khi nào?
Nếu đặt câu hỏi: Văn hóa Việt Nam đã có gì xuất khẩu ra thế giới? Câu trả lời sẽ rất khiêm tốn khi mà cái tên Việt Nam mới chỉ được biết đến qua những bộ phim tham dự Liên hoan thế giới – còn chinh phục được khán giả đại chúng theo kiểu “lấy nước mắt” của phim Hàn vẫn còn là giấc mơ xa. Nhạc Việt cũng chỉ được phổ biến ở những cộng đồng người Việt ở nước ngoài, qua những chuyến lưu diễn lẻ tẻ , đã là những thành công mơ ước của khá nhiều ca sĩ nổi tiếng trong nước… Vì thế, chinh phục thị trường nội vẫn là mục tiêu phù hợp với thế và lực của văn hóa Việt. Tương lai “xuất khẩu văn hóa” là mục tiêu nên hướng đến, nhưng không nên biến nó thành tham vọng. Đó cũng đơn giản là lẽ “liệu cơm, gắp mắm” truyền thống bao đời của người Việt.
Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak từng nhận định: “Một đất nước tiến bộ và phát triển bậc nhất không phải chỉ đơn thuần có thu nhập cao, mà là một đất nước có nền văn hóa phát triển ở cấp độ cao cân bằng với sự phát triển của kinh tế”. Vì thế, nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang nhìn nhận vấn đề bảo tồn và kinh doanh văn hóa với sự quan tâm đặc biệt. Mặc dù đặt trên mặt bằng so sánh, xuất phát điểm cũng như các điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa… của Việt Nam với các nước đã bảo tồn và kinh doanh văn hóa thành công thì còn vấp phải khá nhiều khập khiễng.
Và dù còn có khá nhiều hạn chế và vẫn đang dậm chân ở vạch xuất phát trên đường đua kinh doanh văn hóa, nhưng với những lợi thế vốn có, sẽ thật đáng tiếc nếu như Việt Nam tiếp tục bỏ lỡ cơ hội khai thác tiềm năng vô cùng phong phú của mình. Để giữ gìn, phát huy và làm giàu nhờ văn hóa dân tộc là một vấn đề không hề đơn giản và cần một chiến lược phát triển đồng bộ, bền vững. Trong đó, chiếc lược mẫu mực của Hàn Quốc trong việc tận dụng tối đa đặc tính lan truyền nhanh, tác động mạnh của truyền thông trong quảng bá văn hóa và hình ảnh đất nước không khó để áp dụng vào Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, kinh doanh văn hóa có thể được coi là ngành công nghiệp không khói siêu lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu không có những bước đi chính xác, chín chắn, cũng như tôn trọng, tuân thủ và đảm bảo tuyệt đối các giá trị truyền thống thì kinh doanh văn hóa rất dễ trở thành con dao hai lưỡi, khi mà khả năng “ô nhiễm văn hóa” và mục tiêu kinh tế có ranh giới rất mong manh.
Khánh Nguyễn(http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/BAICHU/2012/3/E2A287983EB20E5B/

Kinh nghiệm “đẻ trứng vàng”
Ở nhiều nước phát triển hiện nay, việc kinh doanh văn hóa chính là nơi sản sinh ra rất nhiều tiền. Không chỉ được coi là ngành sản xuất “đẻ trứng vàng”, đây còn là mảnh đất giàu tiềm năng cho việc quảng bá hình ảnh quốc gia.
Ví dụ không ở đâu xa chính là Nhật Bản, chỉ riêng bộ phim hoạt hình Đô Rê Mon ngoài việc bán bản quyền cho truyền hình, xuất khẩu ra nước ngoài, các nhà kinh doanh Nhật Bản còn xuất bản truyện tranh, làm quà tặng lưu niệm... với tổng doanh thu lên đến hơn 2 tỷ USD. Ở Hong Kong, 85% thu nhập quốc dân có được là từ các dịch vụ giải trí, truyền hình và quảng cáo. Tại Anh, ngành công nghiệp ghi âm của nước này tiêu thụ khoảng 20% số băng đĩa toàn cầu, chiếm 10-15% thị phần thế giới. Và tại Mỹ, phim của Hollywood chiếm lĩnh các phòng chiếu phim trên toàn thế giới, thu nguồn lợi nhuận khổng lồ, kéo theo các lĩnh vực khác trong công nghiệp giải trí phát triển.
Có thể nhận thấy nền công nghiệp điện ảnh ở Trung Quốc phát triển khá sớm so với các nước trong khu vực và tới nay đã trở thành một trong những cường quốc điện ảnh ở trên thế giới. Các bộ phim của Trung Quốc thường tìm đến các đề tài lịch sử, kiếm hiệp như: Tam Quốc Diễn Nghĩa, Tần Thủy Hoàng, Thủy Hử, và các bộ phim thần thoại kiếm hiệp như: Anh Hùng, Thần Thoại, Ngọa Hổ Tàng Long… với lợi thế rất riêng nên chiếm được sự quan tâm của người xem trên thế giới. Qua điện ảnh, Trung Quốc đã thành công vang dội trong việc giới thiệu lịch sử, văn hóa đến với thế giới.
Hiện nay, làn sóng Hàn Quốc cũng đã tràn ngập khắp châu Á. Vậy lý do nào cho sự thành công vượt trội này? Đó là vì bên cạnh các ngành công nghiệp, Hàn Quốc đã sớm coi văn hóa là một thị trường giàu tiềm năng. Nhắc tới chiến dịch “xuất khẩu văn hóa” của Hàn Quốc thì không thể không nhắc tới mạng lưới truyền thông khổng lồ và rộng khắp của đất nước này. Họ là một trong những nước châu Á đầu tiên xây dựng thành công ngành kinh tế truyền thông. Ngành kinh tế đặc thù này đã góp phần đưa truyền thông Hàn Quốc trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn chứ không đơn thuần chỉ dừng lại ở mức độ phục vụ nhu cầu giải trí, thông tin… của công chúng. Mặc dù cạnh tranh lẫn nhau rất khốc liệt, nhưng mục đích chung của các kênh truyền hình đều là quảng bá văn hóa của đất nước. Nội dung của các kênh truyền hình này đều nhấn vào hình ảnh đất nước với nền văn hóa vừa truyền thống và vừa hiện đại.
Có thể khẳng định chiến lược “xuất khẩu văn hóa” đã góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc, xuất khẩu văn hóa đã đem đến cho nước này khoản lợi nhuận 794 triệu USD năm 2011, tăng 25% so với năm 2010 với con số 637 triệu USD, cao nhất kể từ năm 1980. Trong khi đó, tình trạng nhập siêu văn hóa của Hàn Quốc giảm mạnh. Quốc gia này chỉ phải chi 224 triệu USD để nhập khẩu các sản phẩm văn hóa nước ngoài, giảm 42% so với năm 2010. Đây quả là niềm mơ ước của tất cả các quốc gia đang quan tâm đến việc kinh doanh văn hóa.
TUẤN LÊ



“Thảm họa” văn hóa: Có cung ắt có cầu
Không thể phủ nhận một mặt trái rõ nét và đáng sợ của việc kinh doanh văn hóa tại Việt Nam hiện nay là sự ra đời những sản phẩm “thảm họa”.
Thảm họa văn hóa chính là những thứ hàng giả, hàng nhái luôn tồn tại và sẽ bị đào thải. Tuy nhiên, thị trường tiêu dùng văn hóa Việt Nam lại phản ánh sự chậm chạp và khả năng đề kháng quá yếu đối với những mặt hàng dởm này. Giữa những người xem các clip thảm họa văn hóa và nhấn "thích" hoặc nhấn "không thích" có một điểm chung là họ đều đã tự nguỵện mua và thưởng thức những thứ rác văn hóa đó. Điều này cho thấy ngay trong bản thân mỗi người dân đã tồn tạo một thứ gọi là "thảm họa".
Có thể nói, chính cái nhìn dễ dãi cho các sản phẩm văn hóa Việt đã dấy lên lo ngại cho sự định hướng thẩm mỹ nghệ thuật trong giới trẻ. Sở dĩ có nhiều ca khúc, những bộ phim, những dịch vụ du lịch… kém chất lượng tồn tại và lan truyền mạnh mẽ trong suốt thời gian qua là do người nghe có xu hướng tò mò, thích cái lạ, cái mới lẫn bị “kích thích” bởi số đông. Người trong giới tỏ ra vô tâm, khán giả luôn tỏ ra hiếu kỳ và một số người trong giới truyền thông luôn góp sức bằng cách tung hê một cách thiếu trách nhiệm. Tất cả những yếu tố đó đã vô tình tạo đất sống cho những gì được gọi là “thảm họa” của văn hóa Việt.
Một thực tế là những ca khúc, những clip phim nằm trong danh sách “thảm họa” của làng giải trí Việt luôn có số lượng người truy cập rất cao và luôn thu về hàng tỷ đồng nhờ cho tải hình ảnh, nhạc chuông, nhạc chờ mỗi năm. Nói như Đạo diễn Lê Hoàng thì, nguyên nhân chủ đạo do dân trí số đông của chúng ta còn quá thấp và những nghệ sĩ tài năng còn quá ít. Một khi khán giả có tầm nhận thức nhất định thì họ có thể tự chọn lọc, tự định hướng được cho mình. Họ sẽ tẩy chay khiến những sản phẩm thảm họa không còn đất sống và thu lợi được nữa.
HÀ ANH



Ý kiến
Bên cạnh chiến lược phát triển chung, cần có sự đánh giá toàn diện hoạt động văn hóa của Việt Nam trong thời điểm hiện tại, để thấy được thực trạng, những cái thiếu, cái cần phải có... từ đó đưa ra các bước đi phù hợp. Việt Nam cũng cần xây dựng, ban hành, thực hiện nghiêm các luật về bản quyền và sở hữu trí tuệ đối với các tác phẩm và công trình văn học, nghệ thuật. PGS.TS Lương Hồng Quang, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật, Bộ VHTT&DL
Văn hóa sẽ là nguồn vốn quyết định kinh tế trong thế kỷ 21. Chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống mà trong đó, tất cả mọi người bất kể đang sống ở đâu và thuộc tầng lớp xã hội nào cũng có thể được trải nghiệm văn hóa trong đời sống hàng ngày. Lee Myung-bak, Tổng thống Hàn Quốc
Công nghiệp văn hóa là ngành công nghiệp sáng tạo mà nhiều nước đang tận dụng để phát triển và hòa nhập vào kinh tế thế giới. Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển ngành công nghiệp mới mẻ này vì điện ảnh Việt Nam ngày nay đã được tham dự và tranh giải ở nhiều liên hoan phim thế giới. Peter Lysholt Hansen, Đại sứ Đan Mạch tại Việt Nam:
Phải thay đổi tư tưởng coi sự nghiệp văn hóa là ngành nghề phi sản xuất, không thể đem lại của cải cho xã hội. Tiếp theo là phải nhìn đúng các vấn đề xuất hiện trong thị trường văn hóa. Trong thị trường văn hóa khó tránh khỏi xuất hiện các vấn đề phức tạp nhưng không vì thế mà phủ định thị trường văn hóa. TS Nguyễn Danh Ngà, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính, Bộ VHTT&DL
Khi phát triển du lịch không có liều lượng thì đó là một nguy cơ giết chết văn hóa. Nó là ngành công nghiệp không khói nhưng cũng gây ô nhiễm không ít. Bùi Hoài Mai, Họa sĩ
Khi người ta phải bỏ tiền ra mua một cái gì đó thì mới biết trân trọng nó. Tôi cho rằng, không có văn hóa miễn phí mà phải bỏ công sức và tiền của ra để có được nó thì mới có giá trị.Trần Văn Bình, chủ website www.maudantoc.com