Thưa các đồng chí và các bạn,
Nhân dịp sang thăm Cu-ba, hôm nay Đoàn
đại biểu cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức vui mừng đến thăm
Trường Đảng Cao cấp Ni-cô Lô-pết - một trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ rất quan trọng của Trung ương Đảng Cộng sản Cu-ba. Thay mặt các đồng
chí trong Đoàn và nhân danh cá nhân, tôi xin gửi tới các đồng chí và các
bạn lời chào đoàn kết và hữu nghị. Chúc mối quan hệ tốt đẹp của chúng
ta ngày càng phát triển, mãi mãi gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau, cùng vững
bước trên con đường đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội.
Trong không khí tin cậy, thắm tình
đồng chí anh em, tôi xin trao đổi với các đồng chí một số ý kiến chung
quanh vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây
là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất
rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi
hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn
một cách sâu sắc, khoa học. Tôi chỉ xin đề cập một số khía cạnh từ góc
nhìn thực tiễn của Việt Nam để các đồng chí tham khảo, cùng trao đổi.
Và, cũng chỉ tập trung vào trả lời mấy câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì?
Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng
cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực
tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong 25 năm
qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?
Như chúng ta biết, chủ nghĩa xã hội
thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ
nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư
cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tuỳ theo thế giới quan và
trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề
cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin
trong thời đại ngày nay.
Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống
các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam chúng tôi dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như
đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ
nghĩa sụp đổ ở nhiều nước, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn
đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu
hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống
cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên
tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao
động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết
nguyên nhân tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là
do sai lầm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng
chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người phụ hoạ
với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca
ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một
thời đã tin theo chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Có
phải như vậy không? Có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước
tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không?
Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư
bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển
sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Nhiều nước tư bản phát
triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã có những biện pháp điều
chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn
so với trước. Tuy nhiên, nó không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ
bản vốn có của nó. Từ giữa thập kỷ 70 và nhất là từ sau khi Liên Xô tan
rã, chủ nghĩa tư bản thế giới đã một lần nữa bộc lộ rõ bản chất của mình
bằng việc thúc đẩy các chính sách "tự do mới" trên quy mô toàn cầu. Và
hôm nay chúng ta đang chứng kiến những diễn biến của cuộc khủng hoảng
tài chính, suy thoái kinh tế, bắt đầu từ năm 2008 ở nước Mỹ, nhanh chóng
lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết
các nước ở các châu lục. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở phương
Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên
quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng
khoán, nhưng chưa thành công. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật
của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống
của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia
tăng; khoảng cách giàu nghèo càng lớn. Những tình huống "phát triển
xấu", những nghịch lý "phản phát triển", từ địa hạt kinh tế - tài chính
đã tràn vào lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội và ở không
ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với biểu
tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật đơn giản là bản thân
thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được
những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại
nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao
động và tư bản toàn cầu. Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết
kinh tế hay mô hình "đồng thuận Oa-sinh-tơn" vốn xưa nay được coi là
thời thượng, được không ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các
chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý.
Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài
chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn
tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái đang đặt
ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân
loại. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy
lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng
vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm
trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương
thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang
diễn ra một lần nữa chứng minh tính chất phản tiến bộ, phản nhân văn và
không bền vững cả về kinh tế, xã hội và sinh thái của nó; như Mác đã
từng nói, chủ nghĩa tư bản đang huỷ hoại chính ngay những nhân tố làm
nên sự giàu có của nó là lao động và tài nguyên. Theo nhiều nhà khoa học
phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một
cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Các phong trào phản kháng xã hội bùng
nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm
bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ
nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự do"
mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề đảm bảo
để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân -
yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu
thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản
lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ
phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát phần lớn nguồn tài chính,
tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi
phối toàn xã hội. Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự
bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn
chỉ là hình thức mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi
quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn
át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi
là "tự do" dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi các thế
lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên
chế của các tập đoàn tư bản.
Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự
phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc
lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về
kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng
khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội
hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, một xã hội nhân ái, đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau, chứ không phải cạnh tranh thắng - thua vì lợi ích vị
kỷ của cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững,
hài hoà với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các
thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt
tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn và huỷ hoại môi trường. Và chúng
ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do
nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một
thiểu số giàu có. Phải chăng đó chính là những giá trị đích thực của chủ
nghĩa xã hội. Đó cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Hồ Chí Minh,
Phi-đen và nhân dân hai nước chúng ta đã lựa chọn và đang kiên trì, kiên
định theo đuổi.
Thưa các đồng chí,
Như các đồng chí và các bạn đã biết,
nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài,
khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược
của thực dân, đế quốc, để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền của
đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần "Không có gì
quý hơn Độc lập Tự do".
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng
là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng
kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng,
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu
sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải
quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống
tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.
Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá
trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định:
chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân
Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường
tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của
mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: "Tiến hành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa". Vào những năm cuối thế kỷ
XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng
lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội
chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều
khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: "Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Mới
đây, tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI (tháng 01-2011) trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011), chúng tôi một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử".
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và
đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là điều mà chúng tôi luôn luôn
trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường
lối, quan điểm, làm sao vừa theo đúng quy luật chung vừa phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Trong những năm tiến hành công cuộc
đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt
Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ
nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc
phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối
cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn
mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy
đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ; đồng
nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp
quyền với nhà nước tư sản...
Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn
đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng tôi đã nhận thức rằng:
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là
một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới.
Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng
tôi phải: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng
chúng tôi càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một
sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến
đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt
Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục
năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên
tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái
mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất
công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những
thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa,
chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại
đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc
kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn
lọc.
Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản
và sáng tạo của Đảng chúng tôi, là thành quả lý luận quan trọng qua hơn
25 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và
tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo nhận thức của chúng
tôi, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một kiểu kinh tế thị
trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Nó là một
kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường
vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản
lý và phân phối, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa và cũng chưa phải là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (vì chúng
tôi còn đang trong thời kỳ quá độ).
Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và
phát triển; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế;
kinh tế hỗn hợp, đa sở hữu, nhất là các doanh nghiệp cổ phần ngày càng
phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Quan hệ phân phối bảo
đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức
đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất
để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính
quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở
Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế
với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt
quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt
tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, càng không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng
trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải
hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm
tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp
pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công,
những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc
để đảm bảo sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đảng chúng tôi coi văn hoá là nền tảng
tinh thần của xã hội và xác định phát triển văn hoá đồng bộ, tương xứng
với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội cũng là một định hướng căn
bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hoá mà
Việt Nam xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một
nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân
văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những
thành tựu, tinh hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn
minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình
độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Chúng
tôi xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát
triển; phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa
học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong
những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia
đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực
hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội
hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung
của toàn xã hội, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm
đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều
kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội.
Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu
và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách pháp luật và hoạt động
của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Mô hình chính trị và cơ chế
vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm
chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là
một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng tôi chủ
trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở
liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời
là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân
thực hiện quyền làm chủ trực tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
tham gia quản lý xã hội. Chúng tôi nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở
chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo
vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp
luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền
lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích
của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, chúng tôi xác định đại đoàn kết toàn
dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc
đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.
Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo
đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng
tôi đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then
chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đảng
Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam;
Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả
dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và
do đó Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nói như vậy
không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà là thể hiện sự
nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn,
vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của
nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng chúng tôi kiên trì lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng
về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu
của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ
đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hoá v.v..., nhất
là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu
cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ
nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí,
thoái hoá v.v... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Thưa các đồng chí,
Công cuộc đổi mới, trong đó có việc
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự
đem lại những thay đổi tích cực cho đất nước chúng tôi trong hơn 25 năm
qua.
Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị
chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả
về người, về của và môi trường sinh thái. Tôi chỉ nêu thí dụ, cho đến
nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm ngàn
trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi tác động của chất độc da cam/dioxin do
quân đội Mỹ sử dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam. Theo các
chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn sạch
hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh; riêng tại tỉnh Quảng Trị, nơi
mà đồng chí Phi-đen đến thăm năm 1973, vẫn có đến 45% diện tích đất nông
nghiệp còn có bom mìn sót lại. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp
đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu
vực và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng tôi.
Lương thực, hàng hoá nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân
hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ. Đó là một
thực tế ở Việt Nam trong thời kỳ trước đổi mới.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền
kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối
cao trong suốt 25 năm qua với mức tăng trưởng trung bình đạt 7 - 8% mỗi
năm. Thu nhập bình quân đầu người tăng gấp gần 11 lần; Việt Nam đã ra
khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu
lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không chỉ đã đảm bảo được an
ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông
sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ
trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 80%
GDP. Xuất khẩu cũng tăng mạnh, đạt xấp xỉ 100 tỉ USD năm 2011. Đầu tư
nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 200 tỉ USD vào cuối năm 2011. Về
cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm
quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 34% từ kinh tế nhà nước, 5% từ
kinh tế tập thể, 31% từ kinh tế hộ, 11% từ kinh tế tư nhân trong nước
và 19% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện dân số của Việt Nam là hơn 86
triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 70% số dân sống ở nông
thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của
nhân dân. Tỉ lệ người nghèo trung bình mỗi năm giảm từ 2 - 3% và cứ 10
năm giảm còn một nửa; giảm từ 75% năm 1986 xuống còn 9,5% năm 2010. Đến
nay, hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện
lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện
thoại. Trong khi chưa có điều kiện để đảm bảo giáo dục miễn phí cho mọi
người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xoá mù chữ, phổ
cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở
năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gấp 9 lần trong 25 năm
qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi
chưa thực hiện được việc đảm bảo cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn
dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng
chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch
bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo,
trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỉ
lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em giảm gần 3 lần; tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh
giảm khoảng 6 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm
1990 lên 73 tuổi năm 2010. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng
tôi đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng
dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ
đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể;
sinh hoạt văn hoá phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng
25 triệu người sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát
triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận
Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hoá các Mục
tiêu Thiên niên kỷ.
Như vậy, có thể nói, việc thực hiện
đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến hết sức tích cực ở Việt
Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói
giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã
hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, an ninh được đảm bảo;
thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của quần chúng nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại
hội Đảng lần thứ X của chúng tôi đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã
giành được "những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử". Trên thực tế,
xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều
kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong
những lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng
và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã
chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những
có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã
hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát
triển kinh tế.
Thưa các đồng chí,
Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực
là cơ bản, chúng tôi cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang
phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất
nước.
Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng còn
thấp, thiếu bền vững; hạ tầng cơ sở thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực
của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế;
môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị
trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày
càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia
tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác
còn nhiều hạn chế; văn hoá, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và
các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, hiện tượng tham nhũng,
lãng phí, sa sút về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống có xu hướng
lan rộng trong không ít cán bộ, đảng viên. Điều không thể không nhắc đến
là các thế lực thù địch luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá,
gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình" nhằm xoá bỏ chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chúng tôi nhận thức rằng, hiện nay
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
hướng tới chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ
nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với
các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa
trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết
liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên
cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách
thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu
quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm
nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường các nhân
tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và tiến
tới không thể đảo ngược được. Thành công hay thất bại là phụ thuộc
trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Hiện nay, chúng tôi đang đổi mới mô
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất
lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là phát triển hạ tầng
cơ sở, phát triển nguồn nhân lực và cải cách hành chính. Về xã hội,
chúng tôi tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất
lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời
sống văn hoá cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Vừa qua, Hội nghị lần
thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết "Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho
tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ
vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy,
xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn
toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ
đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng
đích lâu dài. Vì vậy, bên cạnh việc bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng,
phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực
của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực
hiện đường lối của Đảng vì thấy nó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của
mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát
triển.
Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền,
trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách không thể
chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình mà còn phải từ
thực tiễn thế giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hoá như hiện
nay, phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, ở bên
ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện
của nó. Chính vì vậy, chúng tôi chủ trương phải chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc
tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Và điều hết sức quan trọng là phải
luôn luôn kiên định và đứng vững trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công
nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ
nghĩa Mác - Lênin là những giá trị bền vững, đã và đang được những
người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và
có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát
triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc
trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng
và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới,
luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không
rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.
Thưa các đồng chí và các bạn,
Trên đây tôi đã giới thiệu vắn tắt với
các đồng chí và các bạn một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội từ thực tiễn công cuộc đổi mới ở Việt Nam để các
đồng chí tham khảo. Chúng tôi ý thức được rằng, đây là công việc vô
cùng phức tạp đối với chúng tôi, là công việc chưa có tiền lệ, phải vừa
làm vừa mò mẫm, rút kinh nghiệm; vừa qua mới chỉ là những bước đi ban
đầu, còn rất hạn chế. Rất mong được các đồng chí góp ý. Vả lại, chúng ta
đều biết, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội có thể giống nhau nhưng biện
pháp, cách đi đến các mục tiêu đó có thể rất đa dạng, phụ thuộc vào điều
kiện cụ thể của mỗi nước. Đó là cả một không gian sáng tạo to lớn, đầy
sức sống.
Sau khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên
Xô và Đông Âu, một số nhà tư tưởng phương Tây đã tuyên bố về "sự cáo
chung của lịch sử". Nhiều chính khách và phần tử cơ hội đã dự báo về sự
sụp đổ tiếp theo của các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới.
Nhưng lịch sử đã không diễn ra như họ nghĩ. Trung Quốc, Việt Nam,
Lào,…đang đổi mới thành công, giành được nhiều thành tựu và tiếp tục
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cu-ba vẫn hiên ngang đứng vững, vẫn
là tấm gương sáng về tiến bộ và công bằng xã hội, về đoàn kết quốc tế,
về tinh thần bất khuất vì tự do cho các dân tộc và phẩm giá con người.
Và những bước tiến cách mạng đang diễn ra ở Vê-nê-xu-ê-la, Bô-li-vi-a,
Ê-cu-a-đo... cùng sự lớn mạnh của các phong trào cánh tả tại nhiều nước
Mỹ La-tinh khác thể hiện trào lưu hướng tới chủ nghĩa xã hội đang nổi
lên mạnh mẽ tại Tây Bán cầu này. Các nước xã hội chủ nghĩa khác tại Châu
Á vẫn tiếp tục con đường tiến lên phía trước. Nhiều đảng cánh tả, các
phong trào nhân dân tiến bộ các nước tại các châu lục ngày càng giương
cao khẩu hiệu đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội và xác định ngày càng rõ
rằng đây là sự lựa chọn duy nhất đúng để vượt qua những bế tắc của mô
hình phát triển đang khủng hoảng hiện nay. Đó là những bằng chứng đầy
khích lệ về sức sống của chủ nghĩa xã hội.
Thưa các đồng chí,
Chúng tôi rất vui mừng được biết, Đảng
Cộng sản Cu-ba tại Đại hội VI (tháng 4-2011) và Hội nghị toàn quốc của
Đảng (tháng 01-2012) vừa qua, đã có những quyết sách chiến lược quan
trọng để tạo động lực mới phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân
dân và tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chúng tôi tin tưởng
sâu sắc rằng, nhân dân Cu-ba dũng cảm, anh hùng trong chiến đấu, bảo vệ
Tổ quốc, sáng tạo và năng động trong xây dựng đất nước nhất định sẽ đạt
được những thành tựu to lớn, đưa Cu-ba vượt qua những khó khăn trên con
đường phát triển, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Cu-ba. Chúng
tôi mong muốn, hai Đảng và hai nước chúng ta sẽ tiếp tục cùng sát cánh
bên nhau vững bước trên con đường vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
Đó cũng là niềm tin và tình cảm của chúng tôi gửi tới các đồng chí.
Theo TTXVN |