Chuyển dịch trọng tâm
Thế giới đang chứng kiến xu hướng dịch
chuyển địa - chính trị từ châu Âu - Đại Tây Dương sang châu Á - Thái
Bình Dương. Đây là điều đã được nhắc đến từ lâu song hiện nay tiến trình
dịch chuyển này đang diễn ra ngày càng rõ nét. Năm 2012 là khu vực châu
Á - Thái Bình Dương tiếp tục được dự báo sẽ thu hút sự quan tâm chú ý
của các nước, nhất là các cường quốc lớn và dự kiến các nước này đều có
những điều chỉnh chiến lược, nhằm tăng cường ảnh hưởng, bảo vệ lợi ích
của mình ở khu vực có dân số đông nhất thế giới và có nền kinh tế phát
triển sôi động nhất, tập trung nhiều của cải nhất và tồn tại nhiều “điểm
nóng” của thế giới.
Trọng tâm kinh tế đã chuyển sang
phương Đông trong bối cảnh sự trì trệ về kinh tế tại các thủ đô từng một
thời thịnh vượng ở châu Âu vẫn chưa thể biết khi nào kết thúc. Giáo sư
Joseph Nye của trường Havard gần đây nhận định: “Sự trở lại của châu Á
là trung tâm của các vấn đề thế giới là sự thay đổi quyền lực lớn của
thế kỷ 21… Tới năm 2050, châu Á sẽ trên con đường trở về nơi họ đã từng ở
300 năm trước”.Sự nổi lên của các nền kinh tế châu Á, trong đó có hai
thị trường đông dân lớn thứ 1 và thứ 2 thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ
đang khiến cán cân kinh tế toàn cầu nghiêng thêm nhiều hơn về châu Á.
Khu vực này đang chiếm gần một nửa kim ngạch thương mại toàn cầu và
chiếm tới 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng
sẽ đóng vai trò quan trọng trong hoạch định chính sách của Mỹ. Sức mạnh
nổi lên của Trung Quốc, sự phục hồi của Nga và một nước Mỹ đang suy vi
đều có ảnh hưởng sâu sắc tới châu Á – Thái Bình Dương. Đây cũng là nơi
diễn ra mối quan hệ song phương quan trọng nhất thế giới giữa Trung Quốc
và Mỹ. Tuy nhiên, những biến động chính trị cùng với sự cạnh tranh tiềm
tàng giữa Trung Quốc và Mỹ cũng sẽ khiến khu vực này tiềm ẩn nhiều căng
thẳng. Với Mỹ, điều hòa mối quan hệ vừa hợp tác, vừa kiềm chế Trung
Quốc là lợi ích quốc gia quan trọng. Còn trong quan hệ với Nga, Mỹ vẫn
tăng cường đối thoại và hợp tác quân sự dựa trên những kết quả đã đạt
được về cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược theo Hiệp ước START mới;
hợp tác trong các lĩnh vực: chống khủng bố, chống phổ biến vũ khí hạt
nhân, xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa và chinh phục vũ trụ. Về phần
mình, tham gia vào các chương trình hội nhập khu vực châu Á – Thái Bình
Dương cũng được lãnh đạo Nga nhiều lần tuyên bố là ưu tiên trong chính
sách đối ngoại.
Nợ công ở châu Âu
Nếu trước đây ít ai có thể hình dung
được châu Âu lại có thể lâm vào cuộc khủng hoảng nợ trầm trọng thì điều
này nay đã trở thành sự thực. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu tiếp
tục chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế mà đầu tàu là nền
kinh tế Mỹ vẫn chưa thể hồi phục, cuộc khủng hoảng nợ công của châu Âu
nổ ra đánh dấu thêm một vùng tối của bức tranh kinh tế thế giới. Giới
chuyên gia còn đang lo lắng cho một tương lai mờ mịt: hơn: nếu kinh tế
toàn cầu rơi trở lại vào suy thoái, kinh tế châu Á đương nhiên sẽ chịu
những tác động nghiêm trọng.
Trong cuộc khủng hoảng khu vực đồng
tiền chung châu Âu (Eurozone), có hai lĩnh vực đối đầu nhau: các thị
trường và giới chính trị. Năm 2012, khi các phe nhóm chính trị chia rẽ,
thì cuộc khủng hoảng khu vực sẽ thêm phần phức tạp hơn. Điều quan trọng
là phải giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn chính trị nhằm tìm ra giải
pháp chấm dứt khủng hoảng. Giám đốc giám sát kinh tế toàn cầu thuộc
Phòng phụ trách về kinh tế và xã hội tại Liên hợp quốc cảnh báo, nếu các
nước thành viên EU không đồng thuận về những biện pháp cơ bản nhằm khôi
phục lòng tin của thị trường và kiềm chế nợ công lan rộng sang các nền
kinh tế mạnh hơn thì việc EU rơi vào suy thoái trầm trọng là điều không
thể tránh khỏi.
Cho đến nay, có ba kịch bản về nợ công
châu Âu và tùy theo các kịch bản này, hậu quả của nó cũng sẽ khác nhau.
Kịch bản thứ nhất khả quan nhất là chỉ trừ Hy Lạp là chưa trả được nợ,
còn Ý và Tây Ban Nha sẽ dần cải thiện nhờ thắt chặt chi tiêu. Dự đoán
trong nửa đầu 2012 thì EU sẽ kiểm soát được tình hình. Kịch bản thứ hai
kém khả quan hơn, đó là Ngân hàng Trung ương châu Âu buộc phải phát hành
eurobond – trái phiếu châu Âu. Điều này có nghĩa là châu Âu hóa toàn bộ
khoản nợ của tất cả các nước trong liên minh tiền tệ, biến Liên minh
tiền tệ trở thành liên minh tài chính và chính trị, buộc Hiến pháp châu
Âu và hiệp ước châu Âu phải sửa đổi. Nếu kịch bản này diễn ra chắc chắn
sẽ gây ra sự phản đối của nhiều nước. Kịch bản thứ ba tồi tệ nhất là
phần lớn các nước sẽ rút khỏi liên minh tiền tệ, trong đó có thể có Đức,
Pháp và Bỉ. Nếu điều này xảy ra, nó sẽ thực sự là một chấn động gây ra
khủng hoảng về tiền tệ ở châu Âu và trên toàn thế giới.
Căng thẳng Trung Đông - Bắc Phi
Những ngày đầu năm 2012, thế giới
chứng kiến bầu không khí chính trị quốc tế nóng hừng hực khi Mỹ đơn
phương tăng cường áp đặt lệnh trừng phạt nhằm vào Iran, một biểu hiện
được cho là Mỹ “mất kiên nhẫn” về tham vọng hạt nhân của Iran và một
phần do lo sợ Iran có khả năng tăng cường ảnh hưởng ở khu vực trong bối
cảnh Mỹ rút quân khỏi cuộc chiến ở Iraq và sắp tới là ở Afghanistan. Với
dự báo khó có khả năng xảy ra chiến tranh giữa Iran và phương Tây nhưng
bất ổn Trung Đông Bắc Phi vẫn chưa thể sớm kết thúc và sẽ có ảnh hưởng
lớn tới cục diện quốc tế. Quan hệ Iran với phương Tây có ảnh hưởng lớn
tới khu vực và diễn biến căng thẳng sau những đe dọa mới đây của của
quốc gia Hồi giáo này trong việc đe dọa thông thương ở eo biển Hormuz.–
đường vận chuyển 25% tỷ lệ dầu lửa thế giới và 40% tỷ lệ dầu lửa các
nước vùng Vịnh. Phương Tây muốn cấm vận dầu lửa và tài chính. Hai cấm
vận này ảnh hưởng đến Iran rất nặng vì nó sẽ giảm 70% nguồn thu của
Iran. Iran sẽ tiếp tục là trung tâm của mối quan tâm ở Trung Đông bởi
quốc gia này có một vị thế hoàn toàn khác những nước khác ở khu vực.
Bên cạnh những bất ổn chính trị xã hội
chưa thể dứt tại các nước mà “Mùa xuân Ả Rập” tràn qua như Lybia, Ai
Cập… thì Iraq cũng tiềm tàng không ít bất ổn với một lý do khác. Việc Mỹ
rút quân khỏi Iraq chỉ là quyết định nằm trong chiến lược bố trí lại
lực lượng trên phạm vi khu vực và toàn cầu còn trên thực tế chiến tranh
vẫn tiếp diễn với biểu hiện của một cuộc chiến tranh ngầm giữa các phe
phái sắc tộc.
Bầu cử và thay đổi quyền lực
Các cuộc bầu cử sẽ diễn ra tại một
loạt các nước như Mỹ, Pháp, Nga, Mexico, Ai Cập. Iran…, sẽ có tác động
lớn đến các chính sách tại các quốc gia này trong tương lai. Thông
thường vào thời điểm chuẩn bị bầu cử, các vấn đề đối ngoại của lãnh đạo
đương nhiệm sẽ bị chi phối nhiều bởi các vấn đề đối nội, nhằm phục vụ
chương trình tranh cử, thu hút sự ủng hộ của cử tri. Đáng chú ý là ở
Nga, Trung Quốc và Mỹ trong năm 2012 đều sẽ diễn ra cuộc chuyển giao
quyền lực, điều sẽ có ảnh hưởng trực tiếp thay đổi tham vọng chính trị
và vị trí của các nước này trên chính trường quốc tế.
Nổi bật là cuộc bầu cử của Mỹ. Hai
tháng sau khi những người lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Afghanistan thì
cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ cũng chính thức bắt đầu vào ngày 6/11/2012.
Cuộc bầu cử Tổng thống Nga và sự thay đổi ban lãnh đạo ở Trung Quốc cũng
có những tác động chính trị đến bàn cờ thế giới. Những tác động này
không nằm ở yếu tố bất ngờ khó đoán mà nằm ở việc duy trì chủ trương
ngày càng độc lập hơn với Mỹ và phương Tây của Nga và Trung Quốc trong
một loạt các vấn đề quốc tế nóng bỏng gần đây.
Song cũng chính lịch trình dày đặc các
cuộc bầu cử mà cục diện thế giới trong ngắn hạn sẽ khó có những biến
chuyển lớn, theo như một tờ báo đã nhận định “Chúng ta chỉ có thể "ngắm
nhìn" nền chính trị thế giới dưới góc nhìn giải trí mà các cuộc bầu cử
sẽ mang lại chứ không phải là các giải pháp cho các vấn đề toàn cầu”.
Xu hướng quay về “nội nhu” và toàn cầu hóa chậm lại
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế tài
chính và nợ công, các nước có xu hướng đáp ứng nội nhu, làm chậm lại
tiến trình của toàn cầu hóa, mà biểu hiện rõ nét nhất của nó là sự bế
tắc từ lâu của vòng đàm phán Doha - vòng đàm phán lớn nhất thế giới về
tự do hóa thương mại. Điều đáng nói là việc chậm lại trong quá trình tự
do lưu chuyển vốn, lao động và công nghệ sẽ xuất hiện ngày càng nhiều
cùng với xu hướng các nước quay về đáp ứng nhu cầu trong nước để đối phó
với khủng hoảng kinh tế. Về lâu dài, sau hiện tượng toàn cầu hóa chậm,
sẽ là hiện tượng những quan điểm phản đối toàn cầu hóa sẽ được quan tâm
nhiều hơn để tìm ra mặt trái của toàn cầu hóa.
Trong thông điệp đầu năm 2012 của Tổng
thống Mỹ Barack Obama, trong số các vấn đề được đề cập nổi lên là việc
nước Mỹ quay vào bên trong. Thông điệp lần này nói rất rõ về việc phải
tập trung vào giải quyết vấn đề xã hội cơ bản. Về vấn đề xã hội, ông
Obama không ủng hộ những doanh nghiệp nào đưa công việc ra bên ngoài mà
phải tạo công ăn việc làm tại Mỹ và sản xuất tại Mỹ. Việc Mỹ tự sản
xuất, tự tiêu và xuất khẩu trở lại sẽ làm giảm nhu cầu nhập khẩu, giảm
đầu tư ra bên ngoài, dòng vốn lưu thông từ Mỹ đi các nước khác giảm đi.
Nhưng thay đổi này sẽ có ảnh hưởng lớn đến các nước nhập khẩu vào thị
trường Mỹ.
Tiến trình toàn cầu hóa với trọng tâm
là tạo ra mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các
tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế trên quy mô toàn cầu.
Trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hóa là sự tự do hóa thương mại, với
việc lưu thông các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng
chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá. Thương mại tự
do được kỳ vọng là sẽ cho những nhà sản xuất tại các nước một thị trường
tiêu thụ rộng lớn hơn dẫn đến lợi nhuận cao hơn, đồng thời tạo ra sự
cạnh tranh giữa các nguồn tư bản, từ đó đem lại lợi ích cho người lao
động trên toàn thế giới; cũng như cạnh tranh giữa nguồn nhân công trên
toàn thế giới sẽ mang lại lợi ích cho các nhà tư bản và trên hết là cho
người tiêu thụ. Những người chủ trương toàn cầu hóa cho rằng thương mại
tự do sẽ dẫn đến giá thành thấp hơn, nhiều việc làm hơn và phân phối tài
nguyên tốt hơn. Toàn cầu hoá đối với những người ủng hộ dường như là
một yếu tố dẫn đến phát triển kinh tế cho số đông.
Tuy nhiên kết quả của toàn cầu hoá
hiện không phải là những gì đã được hình dung khi bắt đầu quá trình tăng
cường thương mại tự do. Trong quá trình toàn cầu hóa, lợi ích của người
nghèo đã không được chú trọng, thậm chí nó còn làm gia tăng khoảng cách
giàu nghèo. Thế giới đang phải chứng kiến nghịch lý là một số người quá
giàu có và quá nhiều người lại quá nghèo. Thống kê giật mình như “Sáu
người thừa kế Walmart giàu hơn 30% dân số nghèo nhất của Mỹ" của tờ Los
Angeles Times đáng để cho các nhà lãnh đạo suy nghĩ. Và vì vậy, việc xóa
bỏ bất bình đẳng về kinh tế cũng sẽ là chủ đề chính trong chương trình
nghị sự toàn cầu của các cử tri, những người biểu tình và cả các chính
trị gia tìm kiếm quyền lực trong các cuộc bầu cử quan trọng của thế giới
tới đây.
Nhất Phong (http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/BAICHU/2012/2/86C081A9184DB6AD/)
|