Tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN lần
thứ 37 năm 2003, lần đầu tiên Inđônêxia đã đề ra ý tưởng “Cộng đồng
chính trị-an ninh ASEAN”; tháng 11/2004, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần
thứ 10 tổ chức tại Viêngchăn (Lào) đã thông qua “Cương lĩnh hành động
của cộng đồng an ninh ASEAN”; Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 14 năm
2009 đã thông qua “Kế hoạch xây dựng cộng đồng chính trị-an ninh
ASEAN”.
Từ
đó, mục tiêu phát triển và quy định cụ thể của “Cộng đồng chính trị-an
ninh ASEAN” là đến năm 2015 khối này được thành lập và cần phải thực
hiện 3 mục tiêu sau. Một
là, xây dựng một khối thống nhất có giá trị và chuẩn tắc chung, lấy cơ
chế pháp lý làm nền tảng; hai là, thành lập một khu vực đoàn kết, hòa
bình, ổn định và dựa vào nhau, gánh vác trách nhiệm chung về vấn đề an
ninh phức tạp của khu vực; ba là, thành lập một khu vực linh hoạt, mở
cửa, tăng cường sự liên kết với thế giới và dựa vào nhau. Trong quá
trình này, việc xây dựng “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” sẽ đứng
trước rất nhiều vấn đề và thách thức, ngoài việc nội bộ ASEAN cần phải
bàn bạc giải quyết các vấn đề, các nước này cần phải đối phó với những
thách thức từ bên ngoài.
I- Điều kiện có lợi trong việc xây dựng “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN”
1-
Việc thực thi “Hiến chương ASEAN” khiến cho cộng đồng chính trị-an ninh
ASEAN có được sự bảo đảm về mặt pháp lý. Từ tháng 10/2008, toàn bộ 10
nước thành viên ASEAN đã phê chuẩn “Hiến chương ASEAN” và hiến chương
này chính thức có hiệu lực vào cuối năm đó. “Hiến chương ASEAN” là văn
kiện đầu tiên có tính pháp lý phổ biến từ khi ASEAN thành lập hơn 40 năm
nay. Hiến chương này nêu rõ mục tiêu chiến lược của việc thành lập khối
ASEAN. Ngoài ra, lịch trình không ngừng phát triển lớn mạnh của ASEAN
hơn 40 năm qua đã đem lại sân chơi giao lưu hiệu quả và cơ chế tổ chức
với nhiều hình thức cho các nước thành viên, tăng cường sự nhận thức
chung. Cơ cấu quyết sách, phương thức và nguyên tắc được hình thành dưới
khuôn khổ của tổ chức ASEAN đã đem lại sự bảo đảm về tổ chức quan trọng
cho việc xây dựng cộng đồng chính trị, an ninh.
2-
Khu vực này đứng trước những thách thức mới về an ninh đã thúc đẩy việc
thành lập “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN”. Từ khi bước vào thế kỷ
21 đến nay, khu vực Đông Nam Á đứng trước mối đe dọa an ninh phi truyền
thống ngày càng gia tăng như lực lượng khủng bố, buôn bán ma túy, tội
phạm xuyên quốc gia và thiên tai dịch bệnh. Chính vì thế, điều đó đã
thúc đẩy lòng quyết tâm và mong muốn hơn nữa của các nước thành viên
trong việc xây dựng cộng đồng chính trị-an ninh chung và cũng là một
trong những nhân tố quan trọng, động lực thúc đẩy chủ yếu của việc xây
dựng cộng đồng này.
3-
Việc phát triển nhất thể hóa kinh tế khu vực đã khiến cho ASEAN tăng
cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh-chính trị. Từ cuộc khủng hoảng tài
chính Đông Nam Á năm 1997 đến nay, ASEAN đã đạt được những bước tiến
triển quan trọng trong lĩnh vực kinh tế, giữa các nước thành viên đã
hình thành mối quan hệ qua lại dựa vào nhau ngày càng chặt chẽ về mặt
kinh tế đã thúc đẩy các nước trong khu vực có những nhận thức chung về
lợi ích, tăng thêm sự đoàn kết trong nội bộ và nhất trí với bên ngoài.
ASEAN đã ý thức được rằng cần phải xây dựng một cơ chế an ninh để duy
trì những thành quả của việc nhất thể hóa kinh tế khu vực, bảo đảm chắc
chắn lợi ích chung và lợi ích của bản thân các nước thành viên.
4-
Tình hình khu vực phát triển đã buộc các nước ASEAN theo đuổi cơ chế
cân bằng các sức mạnh lớn trong khu vực. Hơn 10 năm gần đây, tình hình
thế giới và khu vực đã có những thay đổi lớn, nước láng giềng Trung
Quốc, Ấn Độ của ASEAN trỗi dậy nhanh chóng, bên cạnh việc đem lại những
cơ hội mới còn gây ra rất nhiều sức ép cho các nước này, đặc biệt là một
số nước tồn tại tranh chấp về lợi ích chủ quyền biển và lãnh thổ với
Trung Quốc. Bên cạnh đó, chính sách mới Đông Nam Á của Chính quyền Obama
đã tạo điều kiện cho các nước ASEAN trong việc cân bằng các nước lớn.
II- Tiến trình “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” đứng trước những thách thức
Việc
xây dựng “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” tuy có một số nhân tố tích
cực và điều kiện bên trong và ngoài có lợi, nhưng muốn thực hiện thực
sự ý tưởng này vẫn còn phải đối mặt với rất nhiều vấn đề và trở ngại.
Điều này ở mức độ nhất định, sẽ ảnh hưởng đến tiến trình xây dựng “Cộng
đồng chính trị-an ninh ASEAN”.
Nhân tố bên trong
1-
Tính đa dạng, sự khác nhau và những mâu thuẫn bên trong phức tạp, đan
xen sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển ổn định của mối quan hệ hợp tác
chính trị và an ninh ASEAN. Một mặt, trong khu vực ASEAN có rất nhiều
dân tộc, ngôn ngữ và bối cảnh văn hóa, tôn giáo phức tạp, tồn tại sự
khác biệt về nhiều mặt như trình độ phát triển của các nước, tình hình
đất nước, chế độ tư pháp, thể chế chính trị và lợi ích nhà nước. Vì thế,
những mâu thuẫn giữa các nước ASEAN về các mặt như chế độ xã hội, ý
thức hệ và tín ngưỡng tôn giáo dân tộc sẽ tồn tại lâu dài, từ đó ảnh
hưởng đến sự đoàn kết và sức quy tụ bên trong tổ chức này, khiến cho nội
bộ ASEAN rất khó có được sự thống nhất trong điều tiết các hoạt động an
ninh. Mặt khác, giữa các nước còn tồn tại những tranh chấp lãnh thổ
(biển) song phương hoặc đa phương. Ví dụ như gần đây giữa Thái Lan và
Campuchia liên tiếp xảy ra tranh chấp đền Preah Vihear. Những vấn đề này
rất có thể phát triển thành điểm xung đột mới của khu vực này. Lợi ích
chung có hạn và lợi ích quốc gia khó có thể điều tiết đã cản trở việc
hợp tác phát triển hơn nữa, khiến cho hợp tác an ninh của các nước ASEAN
có thể vẫn sẽ giữ ở mức độ và tầng nấc hợp tác tương đối thấp trong một
khoảng thời gian tương đối.
2-
Nội bộ ASEAN khó có thể đạt được sự thống nhất và nhận thức chung về
quan niệm an ninh và mối đe dọa chung trong tình hình mới. Tính đến nay,
trên thực tế nhận thức của các nước ASEAN về mối đe dọa chủ yếu đang
phải đối mặt vẫn ở góc độ rộng và mang tính khái niệm, thiếu nhận thức
chung, đến mức các nước càng khó đạt được nhận thức chung về mối đe dọa
tiềm tàng. Đặc biệt là quan điểm của các nước thành viên ASEAN rất khác
nhau về những vấn đề như cái gì là mối đe dọa an ninh chủ yếu, làm thế
nào để đối phó với mối đe dọa an ninh. Ví dụ, Philíppin, Thái Lan và
Xinhgapo tán thành chính sách chống khủng bố của Mỹ, coi chủ nghĩa khủng
bố là mối đe dọa an ninh chính, còn Inđônêxia và Malaixia thì không coi
chủ nghĩa khủng bố là mối đe dọa chính của mình. Ngoài ra, nội bộ các
nước ASEAN tồn tại bất đồng về nhiều vấn đề như nhân quyền, dân chủ và
thành lập lực lượng gìn giữ hòa bình khu vực. Các nước ASEAN tồn tại
nhận thức khác nhau về quan niệm an ninh và mối đe dọa chung, hơn nữa
các bên đều có lợi ích đặc biệt về các lĩnh vực khác nhau và các vấn đề
riêng. Trong tình hình này, hợp tác an ninh đa phương hiển nhiên là
thiếu đi nền tảng.
3-
Các lực lượng vũ trang giữa các nước ASEAN thiếu khả năng điều tiết và
hợp tác, thể hiện rõ sự do dự không quyết đoán trong việc chuyển từ hợp
tác an ninh song phương sang đa phương. Hệ thống chỉ huy, kiểm soát,
thông tin của lực lượng vũ trang của đa số các nước ASEAN đều không có
cách đáp ứng đầy đủ nhu cầu triển khai hành động quân sự đa phương. Bên
cạnh đó, chiến lược quân sự và học thuyết quân sự khác nhau đã khiến cho
một số nước ASEAN ngày càng dựa vào hợp tác an ninh song phương hoặc
các nước lớn ngoài khu vực, từ đó làm yếu đi hành động an ninh tập thể
của nội bộ các nước ASEAN và sẽ cản trở những cố gắng của các nước ASEAN
trong hợp tác an ninh đa phương.
4-
Những khiếm khuyết tồn tại trong phương thức quyết sách và cơ chế quyết
sách đặc biệt - “phương thức ASEAN” sẽ cản trở hành động chung của hợp
tác an ninh đa phương. Hợp tác an ninh chính trị ASEAN thể hiện rõ tính
đặc biệt rất lớn và có phương thức vận hành độc đáo, nhấn mạnh tính độc
lập và khác biệt giữa các nước cũng như tính đặc biệt mà các nước cần
quan tâm trong các công việc an ninh khu vực, từ đó sinh ra một phương
thức hợp tác mới đó là “phương thức ASEAN”. Trọng tâm của “Phương thức
ASEAN” là hiệp thương, độc lập chủ quyền và không can thiệp, tức là
“nguyên tắc bình đẳng tuyệt đối”, “nguyên tắc nhất trí chung”. ASEAN là
một tổ chức mang tính khu vực tương đối lỏng lẻo, ở mức độ nhất định, cơ
chế hợp tác này được hình thành trong thực tiễn lâu nay đã thúc đẩy sự
phát triển của ASEAN, nhưng cơ chế này cũng khiến cho kết cấu nội bộ và
sức ràng buộc của ASEAN bị yếu đi, cản trở việc hình thành “cơ cấu xuyên
quốc gia” và “quyền lực tối cao” của ASEAN, tức là thiếu đi vai trò
lãnh đạo. Điều này đã cản trở tiến trình hợp tác an ninh đa phương sâu
sắc và thống nhất trong nội bộ ASEAN.
Nhân tố bên ngoài
Vị
trí chiến lược đặc biệt của khu vực Đông Nam Á đã quyết định khu vực
này không thể hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của nước lớn trong khu vực.
Sau Chiến tranh Lạnh, quan hệ quốc tế nảy sinh những biến đổi lớn, sự
đa cực hóa thế giới đã đem lại không gian phát triển nhanh cho ASEAN, vị
thế chiến lược của khu vực Đông Nam Á ngày càng quan trọng, những nước
lớn ngoài khu vực đều có lợi ích bản thân ở khu vực này. Vì thế, ảnh
hưởng và vai trò của nhân tố bên ngoài – đặc biệt là các nước lớn như
Mỹ, Trung Quốc đối với việc xây dựng “Cộng đồng chính trị-an ninh” của
ASEAN ngày càng dễ nhận thấy.
1-
Mỹ điều chỉnh chính sách và bố cục chiến lược đối với Đông Nam Á, cố
gắng trở thành nước trọng tài và người soạn ra các quy tắc trò chơi của
“Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN”. Nhìn tổng thể, chính sách mới Đông
Nam Á của Chính quyền Obama đại thể có vài đặc điểm sau: một là, coi
trọng và tăng cường đầu tư về mặt chiến lược; hai là, kiên trì lấy việc
tăng cường liên minh quân sự song phương, duy trì sự hiện diện quân sự
tuyến đầu là nền tảng của chính sách an ninh khu vực; ba là, thông qua
việc gia nhập “Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á” để tăng cường
mối quan hệ hợp tác toàn diện với ASEAN về các lĩnh vực như chính trị,
an ninh; bốn là, tháng 10/2010 trở thành thành viên của Hội nghị cấp cao
Đông Á, xác lập vị thế chủ đạo của Mỹ ở khu vực này. Việc điều chỉnh
chính sách Đông Nam Á của Mỹ sẽ nảy sinh những ảnh hưởng sâu sắc và hiện
thực đối với việc xây dựng “Cộng đồng chính trị-an ninh” của ASEAN.
Căn
cứ vào những tính toán chiến lược toàn cầu và châu Á-Thái Bình Dương,
Mỹ đã tăng cường quan hệ hợp tác chiến lược với các nước liên minh Đông
Nam Á trên nền tảng sẵn có hơn nữa. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc,
Mỹ đã mất đi căn cứ Subic và căn cứ không quân Clark - căn cứ quân sự
mang tính vĩnh cửu ở Philíppin, nhưng Xinhgapo đã đem lại căn cứ quân sự
và tiếp cận quân sự cho Mỹ để Mỹ tiếp tục duy trì sự hiện diện quân sự
của mình ở Đông Nam Á. Năm 1990, Mỹ và Xinhgapo đã ký “Bản ghi nhớ về
tiếp cận quân sự”. Năm 2002, Mỹ và Philíppin đã thảo ra “Hiệp định hỗ
trợ hậu cần lẫn nhau”, đưa ra những quy định cụ thể về việc quân Mỹ tiến
vào Philíppin, bù đắp phần nào thiệt hại sau khi quân Mỹ rút khỏi
Philíppin. Để thể hiện cụ thể những tác dụng của việc bố trí quân sự
tuyến đầu, Mỹ lần lượt đạt được hiệp định với các nước Đông Nam Á như
Malaixia, Brunây, Inđônêxia, Thái Lan (Mỹ cũng đang tiến hành tiếp xúc
với Việt Nam để sử dụng căn cứ vịnh Cam Ranh), điều này khiến cho tàu
thuyền của quân Mỹ có thể vào các căn cứ và bến cảng của các nước nói
trên để tu sửa bảo dưỡng. Quân Mỹ đồn trú ở Tây Thái Bình Dương cũng
nhiều lần tập trận chung với các nước ASEAN, chuyên mục diễn tập nhằm
vào mối đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng nhiều, quy mô cũng
ngày càng lớn. Các căn cứ quân sự, đóng quân cũng như việc Mỹ tập trận
chung, tiếp cận quân sự với các nước trong khu vực đã tạo thành hình
thức chủ yếu trong việc hiện diện quân sự tuyến đầu ở khu vực Đông Nam Á
của Mỹ.
Mỹ
tích cực thông qua việc gia nhập và lợi dụng cơ chế hợp tác đa phương
khu vực để nắm vững và chủ đạo tiến trình và phương hướng phát triển hợp
tác an ninh khu vực. ARF (Diễn đàn Khu vực ASEAN) thành lập năm 1994 đã
phát triển thành diễn đàn đối thoại an ninh đa phương giữa các chính
phủ, có nhiều nước tham gia nhất, có sức ảnh hưởng lớn nhất khu vực châu
Á-Thái Bình Dương. Mấy năm gần đây, Mỹ tích cực tham gia diễn đàn này,
tăng cường hợp tác với các nước ASEAN về lĩnh vực an ninh, thúc đẩy ARF
phát triển theo hướng cơ chế hóa. Đối với tiến trình an ninh chung đang
nổi lên, tháng 10/2010, Mỹ đã đạt được việc xây dựng cơ chế bảo đảm chắc
chắn “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” phù hợp với giá trị và lợi ích
của mình bằng phương thức tham gia Hội nghị các bộ trưởng ASEAN mở rộng
lần thứ nhất (10+8), từ đó nắm quyền chủ đạo trong trật tự an ninh Đông
Nam Á và khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Sự mở cửa do ASEAN đề xướng và
tính dựa vào nhau của các nước lớn bên ngoài đã tạo điều kiện cho Mỹ
tham gia và có sức ảnh hưởng trong các công việc an ninh khu vực. Các
vấn đề an ninh phi truyền thống mà các nước ASEAN đang phải đối mặt đã
không chỉ là vấn đề trong nội bộ các nước, mà còn là vấn đề mang tính
khu vực. Đối với việc này, các nước cần thông qua hợp tác mang tính khu
vực để đối phó. Chính vì thế, việc các nước ASEAN quyết định xây dựng hệ
thống hợp tác an ninh sẽ không thể tránh khỏi những ảnh hưởng của nhân
tố bên ngoài.
Trong
các nước ASEAN, Philíppin và Thái Lan đều là những nước liên minh của
Mỹ, quan hệ hợp tác quân sự giữa hai nước với Mỹ được thúc đẩy ổn định
đã tạo thành một phần trong hệ thống an ninh châu Á-Thái Bình Dương của
Mỹ. Chính phủ Philíppin sau khi phê chuẩn “Hiệp định thăm viếng quân sự
lẫn nhau”, hợp tác quân sự giữa Mỹ và Philíppin càng trở nên chặt chẽ.
Tuy Xinhgapo không phải liên minh của Mỹ, nhưng đã cùng Mỹ phát triển
thành mối quan hệ bảo đảm an ninh mang tính chất liên minh bán quân sự.
Tháng 7/2005, Mỹ và Xinhgapo đã ký hiệp định khung về chiến lược đối tác
hợp tác quốc phòng và an ninh chặt chẽ, làm sâu sắc thêm mối quan hệ
chiến lược và các công việc quốc phòng giữa hai nước, xác định Xinhgapo
với tư cách là “đối tác hợp tác an ninh chủ yếu” của Mỹ. Năm 2005, Mỹ và
Việt Nam đã ký hiệp định hợp tác quân sự. Tháng 7/2006, Tổng tư lệnh
Thái Bình Dương của Mỹ Fallon đã đến thăm Việt Nam , cam kết sẽ dần dần
làm sâu sắc thêm việc giao lưu quân sự giữa hai nước. Ngày 22/7/2010,
trong thời gian đến thăm Việt Nam Ngoại trưởng Hillary Clinton đã cùng
với Việt Nam nghiên cứu, thảo luận về việc tăng cường hợp tác quân sự,
muốn kéo Việt Nam vào cuộc tập trận chung Carat. Hiện nay, trong các
nước ASEAN chỉ có Việt Nam , Lào, Mianma chưa tham gia cuộc tập trận
chung Carat. Có thể dự đoán Mỹ sẽ thông qua các liên minh quân sự hoặc
liên minh bán quân sự của mình cũng như phương thức hợp tác song phương
để tham gia và có sức ảnh hưởng hiệu quả, sâu sắc và trực tiếp hơn trong
các công việc an ninh. Mỹ sẽ ủng hộ ASEAN xây dựng cộng đồng an
ninh-chính trị, thúc đẩy việc cơ chế hóa lâu dài hội nghị các bộ trưởng
ASEAN mở rộng; ASEAN sẽ đưa Mỹ, Nhật, Ôxtrâylia, Nga, Ấn Độ vào khu vực
Đông Nam Á để làm yếu đi ảnh hưởng của Trung Quốc.
2-
Chiến lược phát triển hòa bình của Trung Quốc khiến cho các nước xung
quanh như khu vực Đông Nam Á trở thành những tính toán ưu tiên và “hàng
đầu” trong chính sách và quan hệ đối ngoại của Trung Quốc. Sau khi cải
cách mở cửa, Trung Quốc lấy việc xây dựng kinh tế làm trung tâm, chiến
lược đối ngoại của nước này cũng có những thay đổi lớn. Năm 2010, Chủ
tịch Hồ Cẩm Đào lại tỏ rõ với thế giới rằng “Trung Quốc sẽ trước sau
không thay đổi con đường phát triển hòa bình, thực thi chiến lược mở cửa
cùng có lợi, cùng thắng lợi, thúc đẩy việc xây dựng thế giới hài hòa,
hòa bình lâu dài, phồn vinh chung. Trung Quốc dồn sức vào giải quyết một
cách hòa bình những tranh chấp quốc tế, vĩnh viễn không tranh bá, không
bành trướng”. Vì thế, việc Trung Quốc xây dựng một môi trường bên ngoài
hòa bình và ổn định là phục vụ cho tiến trình cải cách, phát triển và
xây dựng xã hội hiện đại hóa, văn minh của nước mình. Không còn nghi ngờ
gì, môi trường bên ngoài, đặc biệt là môi trường xung quanh ổn định và
hữu nghị là điều không thể thiếu đối với Trung Quốc. Trung Quốc đặc biệt
coi trọng việc phát triển quan hệ với các nước ASEAN, từ sau hội nghị
không chính thức các nhà lãnh đạo Trung Quốc-ASEAN lần thứ nhất tháng
12/1997, quan hệ song phương đạt được sự phát triển nhanh. Quan hệ đối
ngoại của Trung Quốc tuân thủ nguyên tắc hòa bình, cùng có lợi và cùng
thắng lợi, mối quan hệ với các nước ASEAN cụ thể là coi láng giềng là
bạn, thân thiện với láng giềng cũng như hòa thuận, an ninh và giàu có
với láng giềng v.v... Trung Quốc thông qua một loạt phương thức mang
tính sáng tạo chẳng hạn như cùng với ASEAN khởi động việc xây dựng Khu
thương mại tự do, ủng hộ sự chủ đạo của các nước này đối với việc phát
triển khu vực, dần dần thay đổi cách nhìn nhận của ASEAN đối với Trung
Quốc, Trung Quốc và ASEAN thực hiện thắng lợi kép trong quá trình phát
triển quan hệ 20 năm.
Trung
Quốc xác định mối quan hệ với ASEAN là quan hệ đối tác hợp tác chiến
lược. Trước và sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, mối quan hệ giữa Trung
Quốc và các nước xung quanh, đặc biệt là các nước Đông Nam Á lần lượt
được bình thường hóa, đồng thời toàn cầu hóa kinh tế phát triển nhanh
chóng đã đem lại môi trường có lợi cho Trung Quốc tham gia hợp tác khu
vực. Năm 1991, Trung Quốc bắt đầu tiến hành đối thoại toàn diện với các
nước ASEAN; năm 1994, Trung Quốc tham gia và khởi động “Diễn đàn khu vực
ASEAN”; tháng 12/1997, Trung Quốc tuyên bố cùng với ASEAN xây dựng mối
quan hệ “đối tác tin tưởng lẫn nhau” v.v... Báo cáo Đại hội Đảng Cộng
sản Trung Quốc lần thứ 16 năm 2002 nêu rõ phương châm “hòa thuận với
láng giềng, coi láng giềng là bạn” và thúc đẩy hai phương hướng ngoại
giao xung quanh: một là, tăng cường láng giềng hữu nghị; hai là, đẩy
mạnh hợp tác khu vực. Tháng 10/2003, Trung Quốc chính thức gia nhập
“Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á”, trở thành nước phi Đông Nam
Á đầu tiên tham gia hiệp ước này. Hành động này đã đẩy ASEAN lên thành
trung tâm của vũ đài hợp tác khu vực. Những việc làm và nỗ lực của Trung
Quốc đã thu được kết quả: dưới sự chỉ đạo “bình đẳng cùng có lợi, hợp
tác cùng thắng lợi”, mối quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN đã phát triển
nhanh, toàn diện đó là về chính trị, ngoại giao, hai bên đã xây dựng
được mối quan hệ chiến lược cùng tin tưởng lẫn nhau, Trung Quốc ủng hộ
ASEAN phát huy vai trò chủ đạo trong các công việc khu vực; về kinh tế,
ngày 1/1/2010, Khu thương mại tự do Trung Quốc-ASEAN đã chính thức đi
vào hoạt động, ASEAN trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba của Trung
Quốc. Trong tình hình ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính vẫn chưa
kết thúc, 10 tháng đầu năm 2010 kim ngạch thương mại song phương đã đạt
136,5 triệu USD.
Trung
Quốc càng phát triển, càng coi trọng sự ổn định an ninh xung quanh.
Những áp lực an ninh xung quanh mà Trung Quốc đối mặt chủ yếu là từ sự
chén ép của Mỹ đối với lợi ích và vai trò trong khu vực của Trung Quốc.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế lần này, kinh tế Trung Quốc vẫn
phát triển theo mục tiêu đã định, trở thành đầu tàu phát triển kinh tế
khu vực cho tới thế giới, sức ảnh hưởng của Trung Quốc đối với thế giới
đã thách thức vị thế hạt nhân của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Vì thế, điều này đã dẫn đến “thói quen” hoài nghi của một số nước Đông
Nam Á, đứng đầu là Mỹ. Đặc biệt là vào năm 2010, ngoại giao con thoi của
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton ở khu vực Đông Nam Á cũng như một loạt
cuộc tập trận chung của quân Mỹ ở khu vực này diễn ra đồng thời với tình
hình an ninh Đông Bắc Á căng thẳng, khiến cho “Thuyết về mối đe dọa từ
Trung Quốc” lại một lần nữa nổi lên trong một số nước ASEAN. Mấy năm gần
đây, vấn đề Biển Đông không ngừng leo thang. Tháng 7/2010, tại Hội nghị
ngoại trưởng diễn đàn khu vực ASEAN lần thứ 17 tổ chức ở Hà Nội, Ngoại
trưởng Hillary Clinton tỏ rõ Mỹ có “lợi ích quốc gia” ở biển Nam Trung
Hoa (Biển Đông). Chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ khiến cho mối
quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN lại một lần nữa đứng trước những thách
thức mới. Cùng với việc Trung Quốc nỗ lực xây dựng “mối quan hệ nhà nước
kiểu mới cùng tôn trọng, cùng tin tưởng về chính trị, cùng có lợi, cùng
bổ trợ cho nhau về kinh tế”, tuy một số nước Đông Nam Á lo lắng và cảnh
giác đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhưng thực sự muốn công khai
phản đối Trung Quốc kết quả chỉ có thể khiến cho bản thân các nước đó
bất an hơn. Có thể dự đoán chiến lược “cân bằng nước lớn” sẽ tiếp tục
trở thành sự lựa chọn của các nước ASEAN.
III- Tương lai của “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN”
Ngày
10/4/2009, Hội đồng “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” lần thứ nhất
được tổ chức tại Pattaya, Thái Lan, đã đánh dấu mục tiêu tích cực xây
dựng “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” thêm bước nữa. Nhưng do việc
xây dựng “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” đứng trước rất nhiều vấn đề
phức tạp, vì thế việc xây dựng này sẽ là một phương thức phát triển đặc
biệt.
1-
Việc xây dựng “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” đòi hỏi trước dễ sau
khó, tuần tự từng bước, dần dần xây dựng một khung an ninh đa tầng nấc.
“Hiến chương ASEAN” quy định mục tiêu chủ yếu của “Cộng đồng chính
trị-an ninh ASEAN” là giữ vững hòa bình và ổn định khu vực cũng như sự
ổn định tình hình chính trị của các nước. Khu vực ASEAN hòa bình và ổn
định cũng như tình hình chính trị các nước này ổn định là hai vấn đề ở
tầng nấc khác nhau: tình hình chính trị các nước này ổn định là nền tảng
của hòa bình và ổn định khu vực ASEAN; khu vực ASEAN hòa bình và ổn
định là sự bảo đảm ổn định tình hình chính trị của các nước. Xây dựng
“Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” cần phải tính đến việc giải quyết
hai vấn đề: an ninh khu vực và tình hình chính trị các nước ổn định. Do
các nước ASEAN đứng trước mối đe dọa và tình hình an ninh khác nhau,
nhân tố bất ổn định mà các nước đang phải đối mặt cũng khác nhau, chiến
lược an ninh và trọng điểm phòng thủ an ninh cũng như nhận thức đối với
tình hình an ninh khu vực của các nước vì thế cũng khác nhau. Vì vậy,
trong khoảng thời gian ngắn việc xây dựng “Cộng đồng chính trị-an ninh
ASEAN” sẽ rất khó thực hiện, chỉ có thể thực hiện được mục tiêu an ninh
khác nhau theo mức độ từ thấp đến cao trong giai đoạn khác nhau. Mục
tiêu ban đầu của việc xây dựng “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” là
tìm kiếm lợi ích an ninh, chính trị chung trong mọi lĩnh vực mà các nước
dễ chấp nhận, tạo ra sân chơi hợp tác an ninh, chính trị cơ bản, chẳng
hạn như trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống, chống khủng bố, tấn
công tội phạm xuyên quốc gia v.v... Mục tiêu cuối cùng của việc xây dựng
cộng đồng này là tạo ra sân chơi hợp tác an ninh khu vực thống nhất
trong lĩnh vực an ninh truyền thống. Ví dụ như xây dựng hệ thống và cơ
chế phòng thủ an ninh chung, cùng nhau đối mặt và giải quyết vấn đề
tranh chấp chủ quyền Biển Đông, mâu thuẫn trong nội bộ ASEAN, xung đột
lợi ích an ninh giữa ASEAN với các nước lớn khu vực v.v..., cuối cùng
mới tính đến làm thế nào để soạn ra cơ chế điều tiết hợp tác an ninh.
2-
Phương thức phát triển của “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” không
thể là liên minh quân sự. Hợp tác an ninh và quân sự là nội dung quan
trọng của kế hoạch xây dựng “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN”, nhưng
hợp tác an ninh và quân sự ASEAN không thể theo phương thức của NATO.
Một là, sức ảnh hưởng chính trị, thực lực kinh tế và khả năng quân sự
của ASEAN không đủ để xây dựng liên minh an ninh quân sự. Xây dựng liên
minh an ninh quân sự cần phải có thực lực kinh tế và khả năng quân sự
hùng mạnh. Liên minh châu Âu (EU) tự trở thành một cực trong thực lực
kinh tế vẫn không thể đơn độc xây dựng liên minh an ninh quân sự, huống
chi ASEAN là một tổ chức khu vực có thực lực tương đối yếu, càng không
có khả năng quân sự và thực lực kinh tế lớn mạnh như NATO. Vì thế, trong
khoảng thời gian tương đối dài, việc bảo đảm an ninh quân sự của ASEAN
đương nhiên vẫn cần phải dựa vào sự giúp đỡ của các cường quốc quân sự
bên ngoài khu vực. Liên minh an ninh quân sự mà ASEAN tự thân xây dựng
sẽ không có ý nghĩa thực tế to lớn. Hai là, trước khi xây dựng liên
minh, giữa các nước vẫn chưa có sự hiểu biết và tin cậy đầy đủ, cơ chế
hợp tác an ninh kiểu mới này có thể sẽ dừng lại ở mức độ đối thoại, hiệp
thương trong khoảng thời gian tương đối dài, khó có thể đạt được tiến
triển mang tính thực chất. Ba là, quan niệm hợp tác an ninh đa phương và
một loạt văn kiện, tuyên ngôn của ASEAN đã quyết định thuộc tính phi
liên minh quân sự của các nước này. Đúng như “Tuyên bố chung ASEAN lần
thứ hai” nêu rõ: “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” không phải là một
liên minh quân sự hoặc hiệp định phòng thủ, giữa các nước ASEAN chỉ có
thể giải quyết những bất đồng khu vực thông qua các biện pháp hòa bình,
không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực. Bốn là, trong các hành
động và quy định, khác với hợp tác an ninh đa phương châu Âu là nhấn
mạnh tự vệ tập thể và cơ chế hóa, “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN”
nhấn mạnh nhiều đến trật tự quyết sách lấy an ninh hợp tác và hiệp
thương, nhận thức chung làm đặc trưng, tức cái gọi là “phương thức
ASEAN”. Điều này cũng đã quyết định trong khoảng thời gian tương đối
dài, “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” không có điều kiện cơ bản của
liên minh quân sự.
3-
Lấy lĩnh vực an ninh phi truyền thống như kinh tế, văn hóa xã hội và
bảo vệ môi trường làm trọng điểm, tích cực thúc đẩy hợp tác an ninh. Về
mục tiêu hợp tác, ASEAN đã chuyển từ “an ninh truyền thống” sang “an
ninh phi truyền thống” và dần dần hình thành nhận thức chung. Khu vực
Đông Nam Á đứng trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng gia
tăng. Do an ninh phi truyền thống có đặc điểm như tính tiềm ẩn, không
xác định và xuyên quốc gia, việc dựa vào thực lực của một nước rất khó
có thể khống chế và xóa bỏ mối đe dọa này, các nước ASEAN cần phải triển
khai hợp tác đa phương, cùng nhau đối phó với khủng hoảng và thách
thức. “Tuyên bố chung ASEAN lần thứ hai” công bố tháng 10/2003 và tuyên
bố chung của Hội nghị các ngoại trưởng lần thứ 37 tháng 7/2004 đều nêu
rõ, cộng đồng chính trị, an ninh sẽ lợi dụng một cách đầy đủ cơ chế và
tổ chức hiện có của ASEAN, đẩy mạnh các nước và khu vực này tấn công các
hoạt động tội phạm như tội phạm xuyên quốc gia, lực lượng khủng bố,
buôn lậu ma túy, hải tặc, buôn bán người v.v... Các nước ASEAN tăng
cường hợp tác trong các lĩnh vực an ninh phi truyền thống sẽ có lợi cho
việc dựa vào nhau tồn tại, thúc đẩy sự hình thành nhận thức chung giữa
các nước thành viên trong cộng đồng.
Hiện
nay, trong nội bộ ASEAN đã xây dựng một loạt cơ chế hợp tác an ninh về
vấn đề an ninh phi truyền thống, chẳng hạn như Hội nghị tư lệnh cảnh sát
ASEAN, Hội nghị các bộ trưởng ASEAN về tấn công tội phạm xuyên quốc gia
v.v... Tháng 1/2007, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 12, 10 nước
ASEAN đã ký “Công ước chống khủng bố ASEAN”, đây là văn kiện đầu tiên
có hiệu lực pháp lý trong lĩnh vực an ninh kể từ khi ASEAN thành lập đến
nay. Công ước này quy định những biện pháp cụ thể trong việc chống
khủng bố của ASEAN và cơ chế thực hiện chống khủng bố chung của ASEAN.
Điều đáng chú ý là mấy năm gần đây, hợp tác trong các công việc quốc
phòng của ASEAN cũng đã giành được những tiến triển tích cực. Ngày
6/5/2006, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần đầu tiên được tổ chức ở
Cuala Lămpơ đã coi hội nghị này là một trong những cơ chế chủ yếu của
cộng đồng chính trị, an ninh ASEAN. Đây là một sáng kiến chưa từng có
đối với ASEAN trong việc lâu nay vẫn chưa xếp hợp tác phòng thủ vào nghị
trình chính thức, nhưng không có nghĩa là sự chuyển hướng trong hợp tác
an ninh của ASEAN. Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN nhằm tăng cường
tiếp xúc mang tính xây dựng giữa các nước trong khu vực, đề cao việc
giao lưu đối thoại trong nội bộ ASEAN về đề tài phòng thủ và an ninh
cũng như việc xây dựng cơ chế tin tưởng lẫn nhau. Hiện nay, kinh tế toàn
cầu vẫn diễn biến phức tạp, việc điều chỉnh tình hình thế giới chu kỳ
mới vẫn chưa đúng chỗ. Nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng “Cộng đồng
chính trị-an ninh ASEAN” cũng không chỉ dừng lại ở hai nước Trung Quốc
và Mỹ, mà vai trò của các nước Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Ôxtrâylia cũng
không thể xem nhẹ. Dưới sự chỉ đạo của chiến lược “cân bằng nước lớn”
của ASEAN, tiến trình “Cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN” sẽ dần dần
được thúc đẩy tiến lên./.
Theo Tạp chí “Hòa bình và phát triển” - Trung Quốc
Viết Tuấn (gt)
http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-asean/2218-2218-