Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2012

7. ASEAN học được gì từ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu

Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ sáu ngày, 30/3/2012
TTXVN (Giacácta 25/3)


Bàn về tính chất của Liên minh châu Âu nói chung, cuộc khủng hoang nợ công ở khu vực đồng tiền chung châu Âu nói riêng trong mi tương quan với đặc điểm của ASEAN, tác giả Rudi Winandokomột nhà ngoại giao thuộc Bộ Ngoại giao Inđônêxia có bài viết “ASEAN có th học được gì từ cuộc khủng hoảng châu Âu” đăng trên tờ “Bưu điện Giacácta” s ra mới đây. Tác giả đã có những so sánh, phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng, từ đó nêu lên một số bài học kinh nghiệm của mình về hội nhập kinh tế đối với ASEAN. Sau đây là nội dung bài viết.

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Liên minh châu Âu (EU) có những đặc điểm xã hội và kinh tế rất khác nhau. Căn cứ vào GDP thì sức mạnh kinh tế của EU gấp hơn 9 lần so với ASEAN. EU bắt đầu tiến trình hội nhập từ năm 1958, một khoảng thời gian dài trước khi có Tuyên bố Băng Cốc về thành lập ASEAN vào năm 1967. Dù có sự khác biệt như vậy, nhưng cuộc khủng hoảng nợ ở khu vực đồng tiền chung châu Âu (eurozone) hiện nay có thể mang lại cho ASEAN bài học quý giá cho tương lai.


Cuộc khủng hoảng ở eurozone được kích hoạt bởi nhiều yếu tố phức tạp. Dẫu các nhà kinh tế vẫn đang tranh luận về nguyên nhân thực sự của cuộc khủng hoảng, nhưng ở đây tồn tại ít nhất ba yếu tố liên quan với nhau mà ASEAN có thể đúc rút kinh nghiệm.

Trước hết là sự chênh lệch về khả năng cạnh tranh kinh tế của các nước thành viên. Điều đó tạo ra sự mất cân bằng thương mại. Những nền kinh tế mạnh, chẳng hạn như Đức, đạt giá trị xuất khẩu vượt xa nhập khẩu. Trong khi các nền kinh tế yếu như Bồ Đào Nha, Alien, Italia, Hy Lạp và Tây Ban Nha (PIIGS) lại chịu điều kiện ngược lại.

Sản phẩm xuất khẩu của các nước PIIGS bị mất khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, buộc họ phải dựa nhiều hơn vào các khoản nợ để trang trải cho thâm hụt thương mại. Đồng euro, với tư cách là một loại tiền tệ duy nhất, đang làm trầm trọng thêm tình hình, do PIIGS không thể độc lập phá giá tiền tệ để làm cho sản phẩm của họ rẻ hơn.

Chính bởi sự mất cân bằng thương mại kéo dài, các nền kinh tế yếu kém buộc phải nợ chồng chất đến mức họ không thể trả thêm được nữa. Cách hành xử của họ được thúc đẩy bởi một thực tế là sự khuyến khích đi vay nợ tăng lên cùng với lãi suất giảm sau khi các nước đó gia nhập khu vực đồng euro.

Lý do thứ hai là thiếu cam kết từ các nhà lãnh đạo EU. Hiệp ước Maastricht năm 1992 nêu rõ, các thành viên đồng tiền chung châu Âu chỉ có thể có tối đa 3% GDP trong giới hạn được vay hàng năm và tỷ lệ nợ trên GDP là 60% để đảm bảo sự ổn định của khu vực đồng tiền chung châu Âu và ngăn chặn hành vi tài chính thiếu thận trọng. Nhiều năm sau đó, mọi người dường như quên rằng họ từng có những giới hạn như vậy.

Không cần thiết phải nói rằng Hy Lạp đã bỏ qua qui định hạn chế này, dẫn đến mức thâm hụt ngân sách chiếm 12% GDP và tỷ lệ nợ so với GDP lên đến 160%. Một số phương tiện truyền thông cáo buộc Hy Lạp mánh khóe lợi dụng qui định của Hiệp ước Maastricht bằng cách sử dụng các kỹ thuật tài chính phức tạp. Điều làm chúng ta quan ngại là Đức và Pháp – hai quốc gia lớn nhất trong khu vực đồng tiền chung châu Âu – cũng vượt quá các quy tắc tối thiểu bằng cách làm cho ngân sách thâm hụt lần lượt 4% và 7% GDP, cũng như tỷ lệ nợ so với GDP là 83% và 82%. Điều đó khiến chúng ta nhận thức được rằng các nhà lãnh đạo EU không thể duy trì các quy tắc riêng của họ.

Mới đây, các nước thành viên EU, ngoại trừ Anh và Séc, đã ký một hiệp ước tài chính mang tính bước ngoặt nhằm cải cách các thỏa thuận trước đó. Họ làm cho các quy tắc trở nên chặt chẽ hơn, bao gồm cả việc dành cho Toà án Tư pháp châu Âu quyền kiểm tra liệu các nước có thực hiện các quy tắc ngân sách một cách đúng đắn, cũng như quyền tạo ra một cơ chế tự động buộc các quốc gia điều chỉnh ngân sách của họ. Việc các nước liên quan có thực sự triển khai các quy định mới một cách nhất quán hay không còn cần phải đợi thời gian chứng minh.

Lý do thứ ba là sự mất tự tin trong tất cả các quốc gia thành viên khu vực đồng euro. Yếu tố này là câu trả lời chung cho tất cả các nguyên nhân đã đề cập. Tâm lý thị trường trở nên bất ổn về việc liệu đồng euro có thể được tiếp tục duy trì và các nhà lãnh đạo có khả năng kiềm chế cuộc khủng hoảng. Những chỉ số lãi suất cho thấy các nước khu vực đồng euro đã đạt đến mức cao nhất kể từ khi khởi đầu loại tiền tệ chung duy nhất này, nghĩa là công chúng không có nhiều niềm tin đối với nền kinh tế châu Âu.

Quan ngại về khả năng cuộc khủng hoảng ngày càng tồi tệ hơn trở nên rõ nét khi các cơ quan đánh giá tín nhiệm phản ứng với cuộc khủng hoảng bằng cách giảm mức xếp hạng tín dụng quốc gia của hàng loạt nền kinh tế yếu ớt dưới mức đầu tư, hay là thứ “vô giá trị” – mặc dù không ít nhà phê bình lập luận các cơ quan xếp hạng dường như đã phản ứng thái quá vì đã không đưa ra một cảnh báo thích hợp trước khi khủng hoảng
bùng phát. ASEAN là tổ chức khu vực hội nhập nhất trong số các nước đang phát triển. Hiệp hội này có thể không coi EU là một hình mẫu cho sự phát triển kinh tế, nhưng có một điều không thể phủ nhận là ASEAN có thể rút ra nhận thức sâu sắc về việc hội nhập kinh tế cần được xử lý cẩn thận như thế nào.    

Bài học quan trọng cho ASEAN là mọi sự hội nhập kinh tế nên bắt đầu với những nỗ lực để đạt được sự phát triển kinh tế như nhau ở mỗi nước thành viên. Điều quan trọng là tránh được sự mất cân bằng kinh tế đang xảy ra ở khu vực đồng tiền chung châu Âu. Nếu muốn tăng cường công cuộc hội nhập, ASEAN phải đảm bảo tất cả các nước thành viên phát triển kinh tế với cùng một nhịp độ và không nước nào bị tụt lại phía sau.

Hiện tại, sự mất cân bằng kinh tế giữa các nước thành viên ASEAN có thể có ảnh hưởng rất ít tới sự phát triển của tổ chức này. Trong ASEAN, quy mô quan hệ thương mại với các đối tác bên ngoài nhiều hơn đáng kể so với thương mại nội khối, vì vậy các nước thành viên có vẻ dễ bị tổn thương bởi các cú sốc bên ngoài ASEAN hơn là bên trong khu vực. Tuy nhiên, trong tương lai, thực trạng như ở châu Âu sẽ còn xảy ra do ASEAN trở nên hội nhập hơn. Tăng trưởng bền vững trong khu vực chỉ có thể đạt được nếu tất cả các quốc gia thành viên ở trong cùng một giai đoạn phát triển.

Rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng của khu vực đồng tiền chung châu Âu, ASEAN cũng cần tạo ra một cơ chế đảm bảo phản ứng nhanh và thích hợp khi có một cuộc khủng hoảng xảy ra. Tăng cường tin cậy đối với ASEAN là điều cần thiết để thị trường tin rằng ASEAN có thể xử lý ổn thỏa cuộc khủng hoảng.

Chống lại toàn cầu hóa cũng giống như không tuân theo quy luật của lực hấp dẫn. Hội nhập kinh tế là không thể tránh khỏi và các hiệp định thương mại là cần thiết để làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, khi các quốc gia càng hội nhập thì càng dễ bị tổn thương hơn bởi các vấn đề nội bộ của nước khác. ASEAN, với ý thức về cộng đồng, cần xử lý quá trình hội nhập của mình một cách cẩn thận để có thể mang lại nhiều điều tốt đẹp hơn là những tai hại./.