Trịnh Sơn Hoan
Chủ
nghĩa thực dụng là nét đặc trưng của văn hóa Mỹ, nó có vai trò quan
trọng đối với quá trình hình thành và phát triển của nước Mỹ. Bài viết
này đề cập đến quá trình ra đời và phát triển của chủ nghĩa thực dụng ở
nước Mỹ, đồng thời chỉ ra ảnh hưởng của nó ở bên ngoài biên giới Mỹ.
1. Đặt vấn đề
Trong
các trào lưu triết học hiện đại ở Mỹ thì chủ nghĩa thực dụng là trường
phái tiêu biểu nhất. Chủ nghĩa thực dụng ra đời cùng với tiến trình
phát triển của nước Mỹ hiện đại, và có tác động không nhỏ đến sự hùng
cường của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Người Mỹ coi chủ nghĩa thực dụng là một
công cụ hữu hiệu bậc nhất để khẳng định bản sắc và phát huy nội lực cho
phát triển. Qua thời gian, chủ nghĩa thực dụng trở thành linh hồn của
dân tộc Mỹ vì rằng, chính chủ nghĩa thực dụng đã góp phần tạo nên bản
sắc văn hóa nổi trội trong một quốc gia đa văn hóa, đa sắc tộc.
2. Nội dung
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa thực dụng Mỹ
Xu
hướng nổi trội của người Mỹ (kể cả phương Tây) là thực chứng. Vì thế,
những lý thuyết được tin dùng nhất phải là những lý thuyết được
kiểm nghiệm bằng chính sự cảm nhận của mỗi cá nhân. Giá trị cá nhân với
người Mỹ được xếp hàng đầu trong dòng nhân sinh - xã hội.
Chủ
nghĩa thực dụng là một loại thực chứng vì chủ trương ban đầu phải là
miêu tả cho được sự thật kinh nghiệm, có mục tiêu giành lấy hiệu quả
thực tế. Và như vậy, chủ nghĩa thực dụng kế thừa gần trọn vẹn
chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa hiện tượng của D. Hume, coi
căn cứ khoa học tự nhiên thực nghiệm là cơ sở lý luận của triết học,
lãng tránh vấn đề cơ bản của triết học, mang tham vọng cải tạo lại triết
học truyền thống.
Nếu
triết học là tinh th ần của thời đại thì chủ nghĩa thực dụng chính
là sự thể hiện tập trung tinh thần của nước Mỹ. Đối với nước Mỹ,
chủ nghĩa thực dụng là một loại “đặc sản tinh thần”. Vì vậy, “nếu
nói có một loại triết học nào trên thế giới bắt nhịp chặt chẽ nhất
với mạch đập của thời đại, trước hết cần nêu lên triết học chủ nghĩa
thực dụng của nước Mỹ. Chủ nghĩa thực dụng Mỹ là linh hồn của tinh
thần Mỹ được nẩy sinh theo tiếng gọi của thời đại Mỹ, có chung số phận
với sự phát triển của xã hội Mỹ, trở thành triết học nhân sinh của người
Mỹ”.
Chủ
nghĩa thực dụng là biến thể của một nền triết học mới. Đây là một
thực tế có căn cứ khách quan, khoa học bởi vì chính sự phát triển vượt
bậc để trở thành cường quốc kinh tế của nước Mỹ vào cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX là cơ sở cho sự hình thành và phát tri ển của chủ
nghĩa thực dụng và chính học thuyết này đã tạo nên sức mạnh tiềm
ẩn ẩn chứa trong xã hội, làm cơ sở cho đời sống tinh thần, dung hợp
được với ý chí “vươn vượt” của người Mỹ.
Chủ
nghĩa thực dụng xuất hiện ở quốc gia mà ở đó, tự do được xem là biểu
tượng. William James đã ví chủ nghĩa thực dụng như ánh hào quang mới
trong triết học: “thật giống như tia chớp trong đêm tối mù mịt vậy!”
Nguồn
gốc ra đời của chủ nghĩa thực dụng là từ "câu lạc bộ siêu hình" của
trường Đại học Harvard (1871). Theo C.S. Pierce, câu lạc bộ này có tên
gọi như vậy là “để tránh xa mọi người mà nó cần tránh xa”, nhưng thực
chất nó nhằm diễn tả hai vấn trọng tâm và có tính thời sự:
Thứ
nhất, ông khẳng định, thành luỹ chủ nghĩa duy tâm khách quan của Heghen
một thời thống trị trong triết học thì nay đã hết vai trò lịch sử và đã
đến lúc phải lui vào hậu trường, nhường lại sân khấu cho “sự diễn xuất
hợp thời thượng”.
Thứ
hai, thuật ngữ có tên gọi“siêu hình học” trước đây có lúc bị khinh
miệt và phỉ báng nhưng nay người ta phải thoả hiệp và chấp nhận nó. Vì
vậy, danh từ “siêu hình học” vào thời khắc đó được người ta cắt nghĩa
làm hai rằng: “một nửa trào lộng và một nửa xấc xược”.
Những
thành viên đầu tiên xây dựng “câu lạc bộ siêu hình” gồm có nhà sử học
J. Fiske, Luật sư O. W. Holmes, thẩm phán J. Warrner, nhà luật học N.J.
Green, mục sư Aponte, nhà tâm lý học Wright cùng C.S. Pierce và W.
James. Những người này nhóm họp lại với nhau một tháng hai lần và tranh
luận về tất cả những vấn đề mà họ thích, đặc biệt là những vấn đề sát
thực cuộc sống.
Chủ
nghĩa thực dụng chính thức trở thành học thuyết khi C.S.Pierce đưa ra
tiểu luận: “Làm thế nào để tư tưởng của ta sáng sủa” và một bài viết “Sự
xác định của tín người” đăng trên Nguyệt san khoa học phổ thông - 1878.
Đây chính là nh ững viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho tư tưởng thực
dụng Mỹ. Có thể dễ dàng nhận thấy W. James là người đầu tiên quan niệm
chủ nghĩa thực dụng như là một hệ thống triết học mới phù hợp với lối
sống và tình cảm của người Mỹ. Trong bài “Khái niệm triết học và hiệu
quả thực tế” ông đã trình bày v ề chủ nghĩa thực dụng, và thừa nhận,
chính C.S. Pierce là người phát minh ra chủ nghĩa thực dụng, còn ông
chỉ là người làm sáng tỏ công lao của C.S.Pierce. Tên g ọi như thế,
theo C.S. Pierce không phù h ợp và ông đổi thành “chủ nghĩa thực
hiệu” để phân biệt với “chủ nghĩa thực dụng” của W. James.
Không
chỉ C.S. Pierce và W. James bất đồng với nhau mà bản thân các nhà thực
dụng trong quá trình xây dựng triết thuyết không thống nhất được với
nhau về tên gọi. Vì thế, W.J ames thì g ọi là “chủ nghĩa đa nguyên”,
Schiller thì gọi là “chủ nghĩa nhân đạo”, Seamen thì gọi là “chủ nghĩa
triển vọng”, còn J. Dewey thì gọi là “chủ nghĩa công cụ”. Nhưng dù thế
nào thì đó cũng chỉ là cách thuật lại của từng người mà thôi, bởi vì
C.S.Pierce được xác định là người khởi sự cho một sự phát triển. Chính
ông đã sáng lập ra chủ nghĩa thực dụng. Công lao lớn nhất của
C.S.Pierce là hệ thống hoá các phương pháp và khái quá hoá về lý luận
được nêu lên trong “câu lạc bộ siêu hình”.
Chủ
nghĩa thực dụng, về thực chất chịu ảnh hưởng của các tư tưởng
triết học trước đó như: Socrat, J.Locker, Bercly, D.Hume, Kant, Holbach
và kể cả Nietzsche,... trong đó có c ả những tư tưởng của chủ nghĩa
kinh nghiệm, chủ duy danh, chủ nghĩa vị lợi, chủ nghĩa thực chứng.
Về
mặt thuật ngữ: chủ nghĩa thực dụng (Pragmatism) có căn cứ
trong từ “Pragma” (Hy L ạp) mang hàm nghĩa “thực tiễn”, “hành động”.
Trong khi đó, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, và hành động là
nguyên nhân dẫn tới hậu quả. Chủ nghĩa thực dụng đã nhạy bén nắm lấy căn
cứ này làm mục tiêu. Vì vậy, một số triết gia thực dụng đã lớn tiếng
tuyên bố triết học của mình là “triết học thực tiễn”, “triết học
hành động” hay là “triết học đời sống”. Tuy nhiên, “hiện thực” mà chủ
nghĩa thực dụng nói đến chỉ là hiện thực mà con người (chủ thể) đã
trải qua, đã xử lý, đã cải tạo, và hoàn toàn mang tính ch ủ quan.
Với chủ nghĩa thực dụng thì “niềm tin” được xác lập là nguyên
vọng tha thiết của cá nhân, vì đó là điểm xuất phát của mọi diễn biến
cuộc sống.
“Hành
động” hay “thực tiễn” là ý chí chủ quan thuần tuý của chủ thể. Còn
“hiệu quả” là một sự phù hợp của thực tế khách quan đối với lợi ích mà
chủ thể hướng tới. J.Dewey cho rằng, “ý nghĩa thực sự của vấn đề hành
động của con người đó là hành động như thế nào cho có l ợi cho cuộc sống
của tôi, đạt được sự thành công do tôi đề ra” [2]. Người đặt nền
móng cho chủ nghĩa thực dụng chính là C.S.Pierce, người bảo tồn và phát
huy, đưa nó lên tầm cao là W.James, còn J.Dewey là “một hậu duệ làm xứng
danh gia phong thực dụng”, làm cho cả thế giới biết đến chủ nghĩa thực
dụng như là một học thuyết làm nền tảng cho đời sống tinh thần của nước
Mỹ. C.S.Pierce, W.James và J.Dewey được ví như Socrat, Plato và Arixtote
trong triết học Hy Lạp cổ đại.
Sự
phát triển về sau của chủ nghĩa thực dụng ở Mỹ đã được G.H. Mead và
C.I. Lewis. G.H. Mead phát triển. Với tư cách là người đứng đầu trường
phái Chicago ở Mỹ, với lý thuyết về hành vi xã hội, G.H. Mead đã có
đóng góp rất lớn về mặt lý luận cho chủ nghĩa thực dụng. Còn C.I. Lewis
là ng ười có ý tưởng kết hợp chủ nghĩa thực dụng với chủ nghĩa thực
chứng lôgíc.
Kể
từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, trên diễn đàn triết học,
chủ nghĩa thực dụng ở Mỹ có phần lắng xuống dành ưu thế cho một số
trào lưu triết học xuất phát từ Âu châu như chủ nghĩa kinh
nghiệm lôgíc, triết học phân tích, hiện tượng học, chủ nghĩa
hiện sinh,... Sự xuất hiện của các trường phái triết học đó đã góp
thêm vào kho tàng triết học nước Mỹ, làm cho triết học Mỹ thêm phần đa
dạng và phong phú.
Trong
số các trào lưu triết học thống trị ở Mỹ thời bấy giờ, triết học phân
tích được đánh giá cao hơn cả. Đặc trưng lớn nhất của dòng triết học này
là phân tích ngôn ngữ, nó đặt trọng tâm vào giao tiếp ngôn ngữ thường
ngày, kể cả ngôn ngữ trong khoa học và triết học. Khuynh hướng cơ bản
của dòng triết học này gắn với chủ nghĩa thực chứng mới nên có khoảng
cách không xa với chủ nghĩa thực dụng. Tinh thần chung của loại triết
học này là bài xích quan điểm triết học và khoa học cho rằng triết học
có đối tượng độc lập, từ đó quan niệm thế giới quan không nằm trong nội
dung triết học, triết học không phải là một sự phân biệt quá lớn. Ở Mỹ,
triết học phân tích được thể hiện chủ yếu qua Canap và Goodman. Và
tại đây, nó được biến tướng thành chủ nghĩa kinh nghiệm lôgíc
(Logical empiricism) v ới hai cách hiểu: Thực chứng luận lôgíc và
thực chứng luận mới. Tuy nhiên, triết học phân tích theo H.Putman
(nhà triết học Mỹ ngày nay đang nổ lực khôi phục chủ nghĩa thực dụng về
mặt khoa học, lý luận) “đã thực hiện được nhiều điều lớn, nhưng
cuối cùng đều tiêu cực cả”. R.Rorty cũng đồng cảm với Putman
cho r ằng: “ Triết học phân tích” cuối cùng đã đương đầu với những khó
khăn khiến cho nó có lúc phải nhớ lại chủ nghĩa thực dụng. Hai hậu duệ
thực dụng này cũng cho rằng, không thể đi vòng sự cản trở của ngôn ngữ,
do đó triết học không thể có vai trò phán xét nh ững khoa học và đạo đức
trên danh nghĩa những nhận thức đặc biệt của triết học đối với cơ sở
của những khoa học và đạo đức.
Nói
chủ nghĩa thực dụng suy tàn ở mảnh đất mà nó được sinh ra là không đúng
vì thực tế, dù nó không còn là tâm điểm để luận bàn trên
lĩnh vực học thuật, nhưng những nguyên tắc cơ bản, chủ chốt của
nó đã trở thành tiêu chuẩn suy nghĩ và hành động của người Mỹ. Vị
trí của chủ nghĩa thực dụng khắc sâu vào tâm kh ảm con người, xã hội
Mỹ. Những luồng triết học châu Âu ảnh hưởng vào triết học Mỹ chỉ được
ghi nhận về mặt học thuật đơn thuần. Còn về tác dụng thực tế cho
đời sống Mỹ thì chẳng đáng là bao. Morri kh ẳng định rằng: chủ nghĩa
lôgíc, triết học phân tích ngôn ngữ, hiện tượng học, chủ nghĩa hiện
sinh là “hiệp đồng nhất trí về tính chất” với chủ nghĩa thực dụng.
“Mỗi vấn đề mà họ nhấn mạnh, thực ra đều được chủ nghĩa thực dụng coi là
một vấn đề trung tâm trong cả hệ thống” [3].
Từ
khoảng cuối thế kỷ XX trở lại đây, một số trào lưu triết học xuất phát
từ châu Âu có mặt ở Mỹ đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn về mặt lý luận
(đặc biệt là triết học phân tích). Cho nên, ở Mỹ đã dấy lên phong trào
phục hồi chủ nghĩa thực dụng, tập trung vào một số đại biểu lớn như
đã nói ở trên (H. Putman và R. Rorty và W.Quine). Khuynh hướng quay
về với chủ nghĩa thực dụng được xem là sự “trở về với chính mình” và tạo
nên nét đặc trưng của văn hoá Mỹ. Jean Pierre Ficho trong cuốn “Văn
hoá Mỹ” cho rằng chủ nghĩa thực dụng là một trong tám tư tưởng chủ đạo
của nền văn minh Mỹ. Chủ nghĩa thực dụng phủ nhận những giá trị, những
hệ thống tư tưởng và lý luận đã có từ trước, mà chỉ thừa nhận những giá
trị kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Thái độ đó được người Mỹ tôn vinh và
minh ho ạ bằng mộ t cụm từ “thanh niên tính”. Có nhà nghiên cứu về văn
hóa Mỹ cho rằng: “cái gắn bó người Mỹ với nhau là quyền lợi chứ không
phải là tư tưởng”.
W.
James quan ni ệm thế giới như một đấu trường giữa thiện và ác
đúng như quan niệm của Thanh giáo, nó gần như trở thành chủ nghĩa cơ
giới, phân biệt rạch ròi đến mức cực đoan giữa cái tốt và cái xấu.
Trong khuôn khổ giữa thiện và ác, con người phải đối kháng với nhau
để tìm đến một con đường riêng cho mình để tích luỹ kinh
nghệm và chính những kinh nghiệm đó đã góp phần tạo dựng nên một hình
ảnh nước Mỹ phồn thịnh và tự do. J.Dewey chỉ ra phương cách giáo dục
là: muốn hiểu biết được thì phải tự mình làm lấy, chỉ chấp nhận lĩnh
hội tri thức sau khi đã thảo luận và phân tích. Chủ trương này rất
thích hợp với nghiên cứu khoa học thí nghiệm công nghiệp. Tư tưởng
này đã được người Mỹ và cả phương Tây áp dụng một cách triệt để bởi vì
nó tạo ra tính độc lập của tư duy, tích cực tự do sáng tạo và tôn trọng
chủ nghĩa cá nhân.
Những
tư tưởng như vậy của chủ nghĩa thực dụng phù h ợp với quỹ
đạo của Thanh giáo và được Jefeer lĩnh hội vận dụng, định hướng phát
triển xã hội Mỹ. Ông cho rằng, con người có xu hướng tốt chỉ cần tạo ra
thể chất tốt, để tự do cho cá nhân hành động. Do đó, ở Mỹ, nghị lực của
cá nhân luôn được đề cao, ý chí trở thành bạn đồng hành với chủ
nghĩa thực dụng. Khi lấy kinh nghiệm và những nổ lực cá nhân làm nền
tảng, coi trọng yếu tố ngẫu nhiên nên người Mỹ đã chấp nhận một phương
thức sống đa nguyên và một thể chế chính trị dân chủ đa đảng.
2.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến phương Tây và Việt Nam
Ở
phương Tây, vào đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa thực dụng đã xuất hiện với tư
cách là một trào lưu triết học mới ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống
cộng đồng. Ở Anh có C.Schiller, ở Italia có G. Vailati, M. Calderom, G.
Papinni, ở Đức, Pháp, Áo chủ nghĩa thực dụng không ảnh hưởng trực tiếp
mà thông qua một số trường phái như chủ nghĩa Kant mới và thông qua
đó các quan điểm của chủ nghĩa thực dụng được phát huy.
Chủ
nghĩa thực dụng khi ảnh hưởng đến Âu châu nó không sâu đậm như ở Mỹ. Nó
được xem như là một lý thuyết, một công cụ có tính ứng dụng tốt nhất
cho đời sống hiện tại. Song càng về sau, khi hiểu được những giá trị
đích thực của nó thì người châu Âu lại coi trọng, đặt nó ngôi vị cao
quý, được xem là bạn đồng hành, không thể thiếu trong cuộc sống.
Trên thực tế, chủ nghĩa thực dụng đã đáp ứng được khát vọng, ham muốn
tự do, được sáng tạo và coi trọng thành quả sáng tạo, đề cao nhân cách
cá nhân. Đối với chủ nghĩa thực dụng, chân lý được đồng nhất với tính
hiệu quả.
Đặc
điểm cơ bản nhất phân biệt chủ nghĩa thực dụng với các trường phái
triết học phương Tây khác là nó nhấn mạnh khoa học phải dựa trên đời
sống hiện thực, chủ trương lấy niềm tin làm điểm xuất phát, hành động là
biện pháp chủ yếu, lấy “hiệu quả” làm mục đích tối cao. Chẳng hạn
Charles Moriss quan niệm, đối với người theo chủ nghĩa thực dụng, hành
vi của loài người khẳng định là luận đề được quan tâm nhất của họ (tức
chủ nghĩa thực dụng) và tuyên bố: “Triết học là triết học thực tiễn,
hành động”. Chính vì v ậy, nó từng được xem là lý luận điển hình
cho thế giới quan vị kỷ và chủ nghĩa cá nhân tư sản. Chính vì thế, chủ
nghĩa thực dụng có quan hệ mật thiết với thể chế kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa theo đuổi mục đích tư lợi. Lý luận của chủ nghĩa
thực dụng về cuộc sống, về niềm tin, về hành động rất dễ bị lợi dụng để
luận chứng cho tư tưởng cá nhân tư sản. Do vậy, nó khiến cho hậu thế dễ
có cảm giác rằng, chủ nghĩa thực dụng mang màu sắc “triết học con buôn”.
Sự
đánh giá về chủ nghĩa thực dụng như vậy, theo chúng tôi là chưa toàn
diện. Vì rằng, triết học thực dụng thể hiện khá nhiều nhân tố tinh thần
của thời đại, luận chứng cho phương pháp luận và luận chứng khoa học, đề
cập các vấn đề hiện thực cả về mặt đạo đức trong cơ chế thị trường.
Cách đánh giá như thế, thiết nghĩ có nhiều mặt hợp lý.
Tuy
nhiên, các đánh giá như v ậy đều chứa đựng những mặt hạn chế nhất định
của nó. Về mặt hiệu quả thì nó là một lý thuyết khoa học, song, về tính
mục đích thì nó dễ dẫn đến việc tạo nên nền tảng cho những quan niệm
hình thành nên các chính sách nhằm bảo vệ lợi ích riêng cho quốc gia,
dân tộc. Điều này phải chăng là cơ sở cho chính sách hiếu chiến cho một
bộ phận những nhà cầm quyền nhằm thực hiện mục đích chính trị riêng của
mình.
Chủ
nghĩa thực dụng du nhập vào mi ền Nam Việt Nam theo bước chân
xâm lược của đạo quân viễn chinh Mỹ trong những năm 60 – 70 của thế kỷ
XX. Bằng nhiều con đường, chủ nghĩa thực dụng đã trở thành một trong
những trào lưu tư tưởng mới và được đón nhận như là một lý tưởng sống
của một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là thanh niên thời bấy giờ.
Tuy nhiên, để hiểu được bản chất của chủ nghĩa thực dụng thì quả là
không giản đơn với một dân tộc mà nền văn hóa truyền thống có ảnh hưởng
rất lớn từ Nho - Phật – Lão. Lối sống gấp, lối sống hưởng thụ của một bộ
phận dân cư đã bóp méo ý ngh ĩa chân chính của chủ nghĩa thực dụng. Chủ
nghĩa thực dụng được xem là triết học của người Mỹ, là niềm tự hào
của nước Mỹ nhưng khi du nhập vào miền Nam Việt Nam cùng chủ nghĩa thực
dân kiểu mới và sự hà khắc của chính quyền tay sai, trào lưu tư tư
ởng này đã bị biến thể thành thứ thực dụng tầm thường. Các
ý đồ chính trị đen tối cùng sự tham lam vô độ, muốn thu vén cho mình
mọi thứ của giới cầm quyền hay như lối sống gấp, chà đạp lên các quan hệ
đạo đức, luân lý, giá trị nhân văn truyền thống, đánh mất danh dự nhân
phẩm của một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là t ầng lớp thanh
thiếu niên đã làm cho chủ nghĩa thực dụng trở thành hệ ý thức
phi nhân tính, phản nhân văn đối với truyền thống đạo lý của người Việt.
3. Kết luận
Với
tư cách là một trào lưu triết học, một khoa học - triết học, chủ
nghĩa thực dụng không phải được hiểu như là một trào lưu triết học phi
nhân văn như một số người đã lầm tưởng. Khách quan mà nói, chừng nào
hoạt động thực tiễn, sản xuất vật chất xã hội của con người còn lấy hiệu
quả làm thước đo thì chừng đó chủ nghĩa thực dụng còn có ý ngh ĩ a và
giá trị khoa học. Tuy nhiên, nghiên cứu chủ nghĩa thực dụng Mỹ không
chỉ dừng lại ở hiệu quả cá nhân mà phải hướng đến hiệu quả toàn xã
hội, có như vậy mới xác lập đầy đủ tính nhân văn, nhân bản của một học
thuyết triết học.
Trong
xu thế toàn cầu hoá hiện nay việc hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành
tất yếu khách quan thì vấn đề hội nhập văn hoá là tất yếu cho sự
tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia dân tộc. Vấn đề tiếp thu những
tinh hoa văn hoá của nhân loại nhằm làm sâu sắc hơn các giá trị văn
hoá truyền thống của dân tộc luôn là một đòi hỏi cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay. Vì thế, việc nghiên cứu những giá trị của các hệ
thống triết học ngoài mácxít, trong đó có chủ nghĩa thực dụng
Mỹ sẽ góp phần tạo nên tiền đề vững chắc để phát huy các giá trị
truyền thống của văn hoá dân tộc./.
Nguồn: T/c Khoa học - Đại học Đà Nẵng, 28 - 2008