Đại tá Lê Thế Mẫu
Viện Chiến lược Quân Sự, Bộ Quốc phòng
Viện Chiến lược Quân Sự, Bộ Quốc phòng
Các
cuộc biểu tình rầm rộ từ đầu năm 2011 đã làm nền kinh tế một số nước A Rập
thiệt hại nặng.
Từ
cuối năm 2010 tới nay, dư luận quốc tế bị bất ngờ trước những biến động chính
trị-xã hội diễn ra liên tiếp tại một số nước châu Phi và Trung Đông, bắt nguồn
từ vụ tự thiêu của một người bán hàng rong ở Tunisia phẫn uất vì xe chở hàng
của mình bị cảnh sát đập phá. Sự việc này ngay lập tức được lan truyền rộng khắp
trên các mạng xã hội và châm ngòi cho “đám cháy lớn” xuất phát từ tâm trạng bất
mãn đối với chính quyền của Tổng thống Ben Ali đã từng âm ỷ lâu nay trong đại
bộ phận dân chúng Tunisia. Ông Ben Ali, người đã 23 năm tại vị ở ghế tổng thống
Tunisia, đã buộc phải bỏ chạy sang cư trú chính trị tại Arập Xêut (Saudi
Arabia).
“Hội chứng Tunisia” ngay lập tức bùng phát ở nhiều nước
Bắc Phi và Trung Đông như Jordan, Bahrain, Yemen, Lybia, Arập Xêut v.v, đặc
biệt tại Ai Cập, buộc Tổng thống H.Mubarak đã phải từ chức sau 34 năm cầm
quyền. Tiếp sau sự kiện Ai Cập, dân chúng Lybia xuống đường chống lại nhà lãnh
đạo Gaddafi- người từng cầm quyền từ năm
1969 đến nay và đã từng ra lệnh thiết lập tình trạng khẩn cấp ở Lybia trong
nhiều năm qua. Hiện chưa ai có thể dự báo trước được những gì sẽ xảy ra tại
nhiều nước châu Phi và Trung Đông như Bahrain, Iran, Yemen, Algeria, Sudan, Jordan
v.v. Điều khiến dư luận quốc tế ngạc nhiên là, dường như tất cả các cuộc biểu
tình của dân chúng một số nước Bắc Phi và Trung Đông là “tự phát” và “không có
ai lãnh đạo”.
Trước tình hình này, một số vấn
đề đặt ra cần được nghiên cứu làm rõ là nguyên nhân nào dẫn tới các cuộc bạo
động chính trị đó? Các sự kiện chính trị ở Bắc Phi và Trung Đông vừa qua có thực sự là những “cuộc cách mạng xã
hội” hay chỉ là những thủ đoạn chính trị của một số thế lực nào đó? Liệu các sự
kiện chính trị đó có mang tính quy luật hay là do các thế lực nào đó lợi dụng
các mâu thuẫn mang tính chất kinh tế-xã hội và chính trị ở một số nước để dàn
dựng và kích động làn sóng “cách mạng” nhằm theo đuổi các mục đích chiến lược
riêng của họ? Từ đó mới có thể làm rõ tác động của các biến động chính trị-xã
hội ở các nước Bắc Phi và Trung Đông tới tình hình kinh tế-xã hội, chính trị và
quân sự ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới.
Nguyên nhân dẫn tới các cuộc bạo động chính trị ở một số nước Bắc Phi và
Trung Đông
Nghiên cứu các sự kiện chính trị ở một số nước Bắc Phi
và Trung Đông, mở đầu từ Tunisia vào cuối năm 2010 tới nay có thể thấy, các biến
động chính trị-xã hội đó xuất phát từ hai nhóm nguyên nhân: nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân sâu xa.
Về nguyên
nhân trực tiếp: Nguyên nhân trực tiếp
dẫn tới các biến động chính trị-xã hội ở một số nước Bắc Phi và Trung Đông, mở
đầu từ Tunisia, xuất phát từ chính tình
trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội và chính trị ở các nước đó như nạn thất nghiệp
gia tăng; sự bất bình đẳng trong xã hội; sự chênh lệch quá lớn giữa người giàu
và người nghèo; chính quyền ở các nước đó bảo thủ và trì trệ trong nhiều năm (Tổng thống Tunisia Ben Ali cầm quyền sau
cuộc đảo chính cung đình vào năm 1987 và kéo dài trong suốt 24 năm; Tổng thống Ai Cập H.Mubarak
cầm quyền sau vụ đảo chính vào tháng 10-1981, trong 30 năm; nhà lãnh đạo Lybia Gaddafi
lên nắm quyền sau cuộc đảo chính quân sự năm 1969, trong 42 năm; Thủ tướng Bahrain
Khalifa Ibn Salman Al Khalifa cầm quyền 40 năm và là thủ tướng lâu đời nhất
trên thế giới; Tổng thống Yemen Ali Abdullah Saleh cầm quyền năm 1978 trong
suốt 33 năm). Tình trạng khủng hoảng này càng trở nên trầm trọng hơn do tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu bùng phát từ Mỹ năm 2008
và đến nay vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc.
Bản thân chính phủ các nước châu Phi và Trung Đông
trong những năm gần đây cũng đã từng nhận thấy tình trạng khủng hoảng này và chính
họ đã đề ra “Sáng kiến của các nước châu Phi và Trung Đông về dân chủ hoá” với
6 nội dung cơ bản. Một là, cải cách dân
chủ ở các nước châu Phi và Trung Đông cần phải được thực hiện từ bên trong các nước
đó mà không được áp đặt từ bên ngoài. Hai
là, quá trình cải cách dân chủ cần phải được thực hiện từng bước để không
làm tổn hại đến an ninh và sự ổn định. Ba
là, quá trình cải cách cần phải phục vụ lợi ích của khu vực chứ không phải
các “kẻ thù” từ bên ngoài. Bốn là,
việc giải quyết cuộc xung đột giữa các nước Arập và Israel là điều kiện tiên quyết để
tiến hành thắng lợi cuộc cải cách chính trị. Năm là, khi tiến hành cải cách dân chủ cần phải tính đến đặc điểm
của từng nước trong khu vực chứ không thực hiện theo một công thức cố định. Sáu là, không cho phép các tổ chức Hồi
giáo cực đoan sử dụng thành quả của các cuộc cải cách và mở cửa. Xem xét 6 nội
dung chủ yếu của Sáng kiến dân chủ hoá trên đây có thể thấy, sáng kiến này chỉ
mang tính hình thức mà chưa đề cập đến nội dung và bản chất. Ngoài ra, khó có
thể đáp ứng tất cả 6 điều kiện, hoặc điều kiện thứ tư là giải quyết cuộc xung
đột giữa các nước Arập và Israel. Do đó, sẽ
khó có thể diễn ra cuộc cải cách dân chủ ở các nước châu Phi và Trung Đông.
Từ những năm 1980-1990, một số nước trong khu vực châu
Phi và Trung Đông đã có những nỗ lực cải cách dân chủ nhất định dưới tác động
của các quá trình toàn cầu hoá. Chương trình cải cách do các nước Arập đề xuất đã
từng được trình bày tại Hội nghị lần thứ XVI của Liên đoàn các nước Arập ở Tunisia vào
ngày 22 và ngày 23-5-2004. Khi chuẩn bị Hội nghị này, Bộ trưởng Ngoại giao các nước Arập bị
chia rẽ thành hai phe. Những ai nỗ lực kết nối quan điểm của họ với Mỹ kết
thành một phe, còn phe khác phản đối chính sách của Mỹ và Israel ở Trung Đông. Trong khi đó,
đại diện của phe thân Mỹ bày tỏ thái độ sẵn sàng hợp tác với Mỹ trong chủ
trương cải cách Trung Đông, còn phe chống đối tuyên bố rằng “Đề án Đại Trung
Đông” của Mỹ là sự can thiệp vào công việc nội bộ của các nước Arập. Hội nghị
các nước Arập ở Tunisia
còn chứng tỏ các nước trong khu vực này không có khả năng đạt được sự đồng
thuận ngay cả về những vấn đề cấp bách nhất (1).
Đến năm 2010, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh
tế toàn cầu, những mâu thuẫn do khủng hoảng kinh tế-xã hội và chính trị ở các
nước châu Phi và Trung Đông trở nên gay gắt hơn bao giờ hết,
chỉ cần có tác động kích động châm ngòi là có thể bùng phát thành các cuộc bạo
động chính trị. Trong điều kiện đó, các mạng xã hội như Twitter, Facebook, đặc
biệt là trang web của Wikileaks, đã có tác
động châm ngòi rất quan trọng. Chính thủ tướng của Tunisia đã tuyên bố, mạng Internet
đã châm ngòi cho các biến chuyển chính trị ở quốc gia này (2).
Về nguyên
nhân sâu xa. Có hai nguyên nhân sâu
xa dẫn tới các biến động chính trị-xã hội ở các nước Bắc Phi và Trung Đông từ
cuối năm 2010 tới nay. Một là, các
nước trong khu vực Bắc Phi và Trung Đông vừa đang ở trong tình trạng khủng
hoảng kinh tế-xã hội và chính trị, vừa đang bị tranh giành ảnh hưởng giữa các
nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ,
Nhật Bản, các nước EU, trước hết là nhằm sở hữu quyền khai thác tài nguyên thiên
nhiên như dầu mỏ, khí đốt, nguyên tố đất hiếm, quặng kim loại và thị trường
tiêu thụ sản phẩm cũng như thị trường đầu tư. Trong đó, Trung Quốc đang tỏ ra
có ảnh hưởng “lấn lướt” các nước khác, kể cả Mỹ. Đây là điều mà Washington không
thể chấp nhận được trong bối cảnh Mỹ đang bắt đầu chuyển sang giai đoạn cạnh
tranh quyết liệt với Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực trên phạm vi toàn cầu (5,6,7).
Hai là, các mâu thuẫn nảy sinh từ
cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội và chính trị ở các nước trong khu vực này đã bị
một số thế lực bên ngoài, trước hết là ở Mỹ, lợi dụng để kích động nhằm nhanh
chóng thay đổi chế độ cầm quyền, tạo cơ hội để thiết lập ảnh hưởng trong thời
kỳ “hậu cách mạng”. Theo Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ, kịch bản các cuộc
bạo động chính trị đã và đang diễn ra ở nhiều nước Bắc Phi và Trung Đông được
thực hiện theo cái gọi là “Đề án Đại Trung Đông” mà nhiều đời tổng thống ở Mỹ đã từng ấp
ủ. Do đó, Mỹ quyết định thực hiện giai đoạn mới trong chiến
lược của họ ở châu Phi và Trung Đông là “phá cũ để xây mới” (2,3).
“Đề án Đại Trung
Đông” của Mỹ ở châu Phi và Trung Đông
“Đề án Đại Trung Đông” đã từng được nhiều đời tổng
thống Mỹ đề xuất sáng kiến xây dựng. Năm 1957, Tổng thống Mỹ Eisenhower đề xuất
“Đề án về Trung Đông” nhằm lấp khoảng trống chiến lược ở khu vực này sau khi
thực dân Anh và thực dân Pháp bắt đầu rút lui dần ảnh hưởng của họ tại đây
trước phong trào giải phóng dân tộc bùng phát ở nhiều quốc gia trong khu vực
này.
Năm 1970, Tổng thống Mỹ Nixon đề xuất “Đề án thứ hai
của Mỹ về Trung Đông” dựa trên cơ sở “Học thuyết Guam” hoặc “Học thuyết Nixon”
nhằm Trung Đông hoá sự hiện diện của Mỹ. Năm 1980, Tổng thống Mỹ Carter đề xuất
“Đề án thứ ba của Mỹ về Trung Đông” dựa trên cơ sở “Học thuyết Carter”, mở đầu giai đoạn Mỹ
tranh giành quyết liệt ảnh hưởng với Liên Xô ở khu vực này. “Đề án thứ tư của
Mỹ về Trung Đông” do Tổng thống Mỹ Reagan đề xuất nhằm thiết lập chuỗi các khu
vực chiến lược trên khắp thế giới gắn bó với nhau, trong đó Trung Đông có vị trí
hết sức quan trọng.
“Đề án Đại Trung Đông” như phiên bản hiện nay của Mỹ
được một nhóm bảo thủ mới ở Mỹ soạn thảo năm 1996, dựa trên cơ sở kết quả các
cuộc “cách mạng Nhung” làm thay đổi chế
độ ở các nước cộng sản Đông Âu trước đây. Sau sự kiện ngày 11-9-2001, “Đề án Đại
Trung Đông” là một trong những nội dung của chiến lược xây dựng “trật tự thế giới mới” của Mỹ dựa trên cơ sở văn kiện mang tên “Chiến
lược an ninh quốc gia của Mỹ ở Trung Đông: phân tích sau sự kiện 11-9-2001”. Đề
án này nhằm thay đổi biên giới của 24 quốc gia, từ Morocco tới Afghanistan, làm
bàn đạp để Mỹ tiến tới thiết lập quyền kiểm soát đối với toàn bộ lục địa Á - Âu.
Tổng thống Mỹ G.W.Bush ưu tiên nỗ lực cao nhất để thực
hiện "Đề án Đại Trung Đông". Ông đã từng trình bày nội dung của “Đề
án Đại Trung Đông” dưới dạng đầy đủ nhất trong bài phát biểu vào ngày 6-11-2003
tại “Quỹ quốc gia hỗ trợ dân chủ” (“National Endowment for Democracy”). Theo đề
án này, việc chiếm đóng Afghanistan và Iraq sau sự kiện 11/9/2001 là giai đoạn
đầu tiên trong một cuộc thập tự chinh lâu dài của Mỹ nhằm “thiết lập dân chủ”
trên toàn bộ khu vực Trung Đông Lớn. Tổng thống G.W.Bush nhận xét: "Nền
dân chủ ở Iraq sẽ chiến thắng và thành quả đó sẽ chứng tỏ cho tất cả các nước,
từ Syria đến Iran rằng, tự do là số phận của mỗi dân tộc". Tháng 06-2004,
"Đề án Đại Trung Đông" được Tổng thống Mỹ G.W.Bush trình bày tại hội
nghị G-8 ở Sea Island (Mỹ) và được đánh giá như Định ước Helsinki năm 1975 do
Mỹ và các đồng minh NATO ký kết để “phổ biến dân chủ”, “bảo đảm quyền con
người” và thực hiện các cải cách kinh tế căn bản ở Liên Xô cũng như các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Việc Tổng thống G.W.Bush nhắc tới chức năng đặc biệt
của Mỹ là “phổ biến tự do” và “xúc tiến dân chủ” trên toàn thế giới không phải
là ý tưởng mới. Ông đã từng so sánh “Đề án Đại Trung Đông” của mình với
"Cương lĩnh 14 điểm" của Tổng thống Mỹ W.Wilson và "Cương lĩnh
bốn tự do" của Tổng thống Mỹ D.Roosevelt.
“Đề án Đại Trung Đông” có mấy đặc điểm rất đáng chú ý.
Một là, các nước Arập không được nhắc đến như là những quốc gia-dân
tộc có tính đặc thù về mặt địa lý cũng như đặc điểm phân loại. Hai là, đề án này bao quát một khu vực
địa lý rộng lớn và hết sức đa dạng, trong đó có thế giới Arập và thế giới Hồi
giáo với tất cả những yếu tố cấu thành cực kỳ phức tạp. Theo nhiều nhà quan
sát, mục đích của việc nhào nặn văn hóa này chính là nhằm tạo ra ưu thế dẫn đầu
cho Israel, biến quốc gia-dân tộc này trở thành đầu tàu lôi kéo các nước khác
trong khu vực. Ba là, đề án hoàn toàn
không đề cập đến những vấn đề liên quan đến việc giải quyết cuộc xung đột giữa
các nước Arập với Israel.
Điều này có nghĩa là chiến lược của Mỹ không nhằm giải quyết những vấn đề đích
thực của khu vực đầy bất ổn này. Bốn là,
đề án nhằm tạo cho Mỹ thế độc quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên trong khu
vực, còn các nước châu Âu sẽ phải có trách nhiệm đầu tư tiền của cho những cải
cách sẽ diễn ra ở khu vực này, nghĩa là sẽ tiếp tục những gì mà cuộc chiến
tranh Iraq đã khởi đầu. Năm là, đề án
này giải thích những hiện tượng tiêu cực trong thế giới Arập như nghèo đói, chủ
nghĩa cực đoan, chủ nghĩa khủng bố v.v là do xuất phát từ các nguyên nhân nội
bộ như “thiếu dân chủ” và “mất công bằng xã hội”.
Như vậy, cái gọi là "dân chủ hóa" và
"chống lại các chế độ cầm quyền độc đoán” chỉ là lớp vỏ che đậy sự xâm
nhập về kinh tế, chiếm đóng và tạo ra các chế độ bù nhìn ở các nước trong Trung
Đông Lớn. Từ đó có thể thấy, “Đề án Đại Trung Đông” tuy bề ngoài là chủ trương
“cải cách căn bản các nước Arập”, nhưng trên thực tế đã loại bỏ quyền tự do của
họ, làm tê liệt ý chí và làm cho họ hoàn toàn phụ thuộc vào các quyết định sẽ
được thông qua tại Washington theo quan điểm chiến lược của các lực lượng bảo
thủ mới. Đây là chương trình hành động kết hợp các biện pháp chính trị, kinh tế
và văn hóa không chỉ liên quan đến sáng kiến của Tổng thống Mỹ G.W.Bush mà là
một chương trình nhằm mục tiêu dài hạn (4,5).
Trong những năm gần đây, Washington xúc tiến chiến dịch nhằm giải
thích đề án “tái cấu trúc” Đại Trung Đông. Đầu năm 2004, lãnh đạo các nước
Trung Đông và các đối tác của Mỹ tại G-8 và NATO đã được tiếp xúc nội dung của
đề án “tái cấu trúc” Đại Trung Đông của Mỹ. Đầu tháng 3-2008, Trợ lý Bộ trưởng
ngoại giao Mỹ Grôxman đã đến thăm các nước hàng đầu trong thế giới Arập và Thổ
Nhĩ Kỳ, gặp Bộ trưởng Ngoại giao các nước EU tại Brussels để giải thích ý tưởng
xây dựng đề án Đại Trung Đông. Khi bắt đầu thảo luận về đề án của Mỹ, đa số các
nước Arập coi đó như là một sự can thiệp vào công việc nội bộ của các nước
trong khu vực. Nguyên thủ các nước Arập đều thống nhất cho rằng cải cách dân
chủ phải là kết quả quá trình phát triển của các xã hội Arập chứ không thể áp
đặt được từ bên ngoài. Họ cũng chứng tỏ cho Mỹ thấy rằng kế hoạch của Washington không nhắc tới việc phải giải quyết cuộc xung
đột giữa các nước Arập và Israel
mà đây lại là tiền đề để tiến hành cải cách dân chủ trong khu vực.
Đa số lãnh đạo các nước Arập đều có cách nhìn nhận
tiêu cực về “Đề án Đại Trung Đông” của Mỹ. Theo họ, quá trình dân chủ hoá và
tái cơ cấu trong các xã hội Arập tuy đã chín muồi nhưng cần phải được thực hiện
bằng nỗ lực của chính các nước trong khu vực chứ không thể do Mỹ áp đặt dễ dàng
theo công thức từ bên ngoài và không tính đến đặc điểm của toàn bộ Trung Đông
cũng như từng nước riêng lẻ. Tổng thống Syria, ông B.Axat, tuyên bố rằng
không thể phát triển dân chủ và cải cách trong điều kiện chiến tranh và còn tồn
tại các vấn đề chính trị. Vì thế, không ai ở Syria cũng như trên toàn bộ khu
vực này tin tưởng vào các sáng kiến của Mỹ. Nhà lãnh đạo Lybia, ông Gaddafi,
gọi sáng kiến của Mỹ là "phân biệt chủng tộc". Thủ tướng Kuwait,
ông Sabát Ansabat, tuyên bố rằng ông không chấp nhận các nỗ lực của Mỹ xây dựng
“Trung Đông Mới” theo lối áp đặt các cải cách dân chủ và xã hội. Một số giới
phê bình ở các nước Arập cáo buộc ý tưởng của Mỹ về “tái cấu trúc” Trung Đông
chỉ là nhằm đảm bảo lợi ích của Mỹ và Israel ở khu vực này (6).
Để thực hiện “Đề án Đại Trung Đông” ở châu Phi và
Trung Đông, Mỹ sử dụng kết hợp “sức mạnh cứng” (quân sự) và “sức mạnh mềm”. Sử
dụng “sức mạnh cứng”, Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh ở Afganistan (2001), Iraq (2003) và
hiện nay có sự can dự vào cuộc chiến tranh ở Lybia. Sử dụng “sức mạnh mềm”, Mỹ
đã triển khai chương trình ngoại giao nhân dân rộng khắp và đầu tư xây dựng các
mạng xã hội làm công cụ tiến hành “cách mạng Nhung” từ mạng Internet (2).
Nhiều chuyên gia dự báo, các cuộc bạo động chính trị
tương tự như ở Bắc Phi và Trung Đông có thể sẽ bùng phát ở Balkan, Trung Á và
một số khu vực khác trên thế giới trong một cuộc cạnh tranh về địa-chính trị kéo
dài và gay gắt trong những thập kỷ tớí, liên quan tới cuộc chiến tranh giành
giật tài nguyên và năng lượng trên phạm vi toàn cầu. Ông Brrezinski, cố vấn của
Tổng thống Mỹ Barak Obama, đã từng dự báo trong những năm 1990 rằng, đó sẽ là
“Bàn cờ lớn” trong thế kỷ XXI (7).
Tài liệu
tham khảo
1. Thay đổi Trung Đông Lớn . http://www.imperiya.by/club4-9258.html
2.Yếu tố Mỹ
trong các cuộc cách mạng ở các nước Arập. Trung tâm nghiên cứu Trung Đông
hiện đại. Xanh Pê-tec-bua. Năm 2011.
3. Uyliam
Ăngđan. Cuộc “cách mạng” ở Ai Cập phải
chăng là “phá để xây” Trung Đông Lớn?
http://www.warandpeace.ru/ru/exclusive/vprint/55198/)
4. Đề án Trung Đông Lớn của Mỹ và vai trò của NATO.
http://inforos.ru/ru/?module=news&action=view&id=21626
5. Trung Đông trong chiến lược của Mỹ. http://www.humanities.edu.ru/db/msg/87657
6. Dân chủ hoá
kiểu Mỹ đối với Trung Đông: điều đó có nghĩa là gì?
7. Z. Brêdinxki. Bàn
cờ lớn. NXB Chính trị quốc gia. Năm 1999.