Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2012

8. ASEAN 12 hướng tới "Một cộng đồng đùm bọc và chia sẻ"

Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12 (ASEAN-12), diễn ra từ ngày 12 đến ngày 15/1 tại thành phố Xêbu của Philíppin, mang chủ đề “Một cộng đồng đùm bọc và chia sẻ”, đã tạo một động lực mới quan trọng trong tiến trình hình thành một cộng đồng ASEAN liên kết chặt chẽ, năng động, hiệu quả và rộng mở.

Hội nghị ASEAN-12 lần này diễn ra đúng vào thời điểm tổ chức khu vực này bước vào tuổi 40 (1967-2007). Qua quá trình hình thành và phát triển, tổ chức khu vực hiện có 10 thành viên này đã trở thành một nhân tố vô cùng quan trọng đối với hòa bình, ổn định và hợp tác trong nội khối và ngoại khối.
Tuy có nhiều thuận lợi song các nước ASEAN đang đứng trước không ít thách thức. Ngoài những vấn đề toàn cầu như thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, tội phạm xuyên quốc gia, hoạt động khủng bố ở một số nước, ASEAN còn phải đối mặt với sự bất ổn xã hội và sức ép từ bên ngoài đối với một số nước thành viên, sự cạnh tranh gay gắt về thương mại và đầu tư trong quá trình toàn cầu hóa và khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, miền trong cùng một quốc gia cũng như giữa các nước thành viên.
Tờ báo hàng ngày Người điều tra của Philippin, số ra ngày 13/1, đã công bố số liệu so sánh thu nhập bình quân đầu người (tính theo sức mua) mỗi năm của 10 nước thành viên ASEAN, theo đó thu nhập của người dân Xinhgapo gấp tới gần 17 lần so với người dân Mianma.
Cụ thể, mức thu nhập bình quân đầu người của các nước trong khu vực này lần lượt là 28.600 USD ở Xinhgapo, 23.600 USD ở Brunây, 12.000 USD ở Malaixia, 8.600 USD ở Thái Lan, 3.600 USD ở Inđônêxia, 2.800 USD ở Việt Nam, 2.500 USD ở Campuchia, 2.000 USD ở Lào và 1.700 USD ở Mianma.
Trong bối cảnh chung đó, để giải quyết vấn đề thời sự của ASEAN là hình thành một cộng đồng gắn bó chặt chẽ, không còn cách nào khác là phải có giải pháp để thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước thành viên. Điều này lý giải vì sao Hội nghị Cấp cao lần này lại chọn chủ đề là “Hướng tới một Cộng đồng đùm bọc và chia sẻ”.
Trên cơ sở các mục tiêu và mục đích của Tầm nhìn 2020, trong đó đề ra một tầm nhìn xa, rộng về tương lai ASEAN sẽ trở thành “một nhóm hài hòa các quốc gia Đông Nam Á hướng ngoại, sống trong hòa bình, ổn định và phồn vinh, gắn bó với nhau bằng quan hệ đối tác trong phát triển năng động và trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc và chia sẻ”, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Xêbu ”Hướng tới một cộng đồng đùm bọc và chia sẻ” với 8 nội dung cụ thể.
Những kết quả đáng chú ý của Hội nghị Cấp cao ASEAN-12:
- Thứ nhất, ASEAN quyết định đẩy nhanh thời hạn hình thành Cộng đồng ASEAN từ năm 2020 lên năm 2015. Quyết định này thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của các nước ASEAN hướng tới xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN đoàn kết, năng động và mở rộng.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế càng gia tăng đòi hỏi các quốc gia phải hợp tác với nhau tích cực hơn, trong đó có các thành viên ASEAN. Từ khi ra đời năm 1967 đến năm 1997, phần lớn các quyết định của ASEAN chủ yếu liên quan tới chính trị, chỉ có quyết định thành lập Khu vực Mâu dịch Tự do được đưa ra năm 1993 là quyết định liên quan đến kinh tế.
Tính đến năm 1997, ASEAN luôn là tổ chức thành công và có uy tín nhờ thực hiện nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và giữ gìn bản sắc dân tộc trong sự đa dạng về trình độ phát triển và thể chế chính trị.
Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998 ở khu vực đã gây ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín của ASEAN. Tổ chức này có ảnh hưởng về kinh tế không lớn, cơ chế hợp tác lỏng lẻo, họp hành quá nhiều (khoảng 700 cuộc họp mỗi năm) nhưng các quyết định nhiều khi không được thực hiện. ASEAN không mạnh vì các nền kinh tế phân mảnh, không liên kết với nhau.
Vào năm 2002, có ý kiến nêu ra là cần xây dựng một ASEAN mạnh hơn và ASEAN muốn mạnh thì phải cần có kinh tế mạnh. Nhìn lại lịch sử, ASEAN chỉ là một tổ chức khu vực thiên về chính trị, chưa có tư cách pháp nhân ở Liên Hợp Quốc cũng như các tổ chức quốc tế hoặc khu vực khác vì chưa có Hiến chương, điều lệ, pháp lý.
Vì vậy, ý tưởng hình thành Cộng đồng ASEAN đã được đưa ra trong bối cảnh thế giới và khu vực phát triển đặt ASEAN trước vấn đề phải liên kết chặt chẽ, có cơ chế phù hợp.
Nhưng để làm được điều này, một trong những biện pháp quan trọng phải thực hiện là thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước thành viên.
- Thứ hai, là thỏa thuận về xây dựng Hiến chương ASEAN. Do có ý nghĩa đặc biệt và đánh dấu quá trình hình thành trưởng thành của ASEAN trong bốn thập niên tồn tại và phát triển nên Hiến chương trở thành một chủ đề trọng tâm của Hội nghị được các nước dành nhiều thời gian trao đổi.
Trong 40 năm tồn tại, ASEAN vẫn là tổ chức chính trị không có tính pháp lý, nay cần phải có Hiến chương để quan hệ với các tổ chức khác và Liên Hợp Quốc. Đây là một quyết sách đúng đắn và kịp thời của ASEAN trước tình hình thực tế, đồng thời có ý nghĩa như một "cú hích" lớn tạo ra động lực mới, thúc đẩy hợp tác nội khối ngày càng phong phú, rộng lớn, sâu sắc và hiệu qủa hơn.
Lãnh đạo các nước ASEAN đã xem xét và cho ý kiến về báo cáo của Nhóm những nhân vật nổi tiếng (EPG) về Hiến chương ASEAN. Nhìn chung, các nước đều cho rằng xây dựng Hiến chương trước hết phải dựa trên những nguyên tắc, giá trị căn bản và chuẩn mực chung vốn là nền tảng của những thành tựu mà ASEAN đã đạt được trong gần 40 năm qua. Hiến chương ASEAN còn tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các thể chế của ASEAN, qua đó, cải tiến mạnh mẽ và sâu sắc bộ máy tổ chức, lề lối hoạt động nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của ASEAN. Nhóm đặc trách cao cấp (HLTF) có trách nhiệm soạn dự thảo Hiến chương và báo cáo lãnh đạo tại Hội nghị Cấp cao ASEAN tới vào cuối năm 2007 tại Xingapo.
Cuối năm 2004, Hội nghị Cấp cao ASEAN-11 tại Malaixia đặt ra vấn đề phải xây dựng Hiến chương ASEAN. Trước hết, ASEAN lập ra Nhóm Những nhân vật nổi tiếng (EPG), mỗi nước cử một người (Nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm là đại diện của Việt Nam). EPG có trách nhiệm xây dựng đề cương Hiến chương và ý tưởng của từng điều. Nhóm chuyên viên cấp cao của ASEAN sẽ dựa vào các ý kiến đó để xây dựng Hiến chương.
Trong gần 2 năm qua, EPG đã họp 8 kỳ và đưa ra các khuyến nghị, được Hội nghị cấp cao ASEAN-12 đánh giá cao và ghi nhận. Hiến chương sẽ bao gồm 3 vấn đề cơ bản: Cơ chế, cơ cấu tổ chức và điều chỉnh các nguyên tắc.
ASEAN sẽ tiếp tục được duy trì là khu vực hòa bình, ổn định, phồn vinh, tôn trọng nhau, bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng các quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền con người và quản lý tốt... Tuy nhiên cơ cấu tổ chức sẽ có nhiều thay đổi để ASEAN trở thành tổ chức chặt chẽ hơn.
Từ trước đến nay, hàng năm ASEAN đều tổ chức Hội nghị Cấp cao một lần và trước đó đều có các cuộc họp các quan chức cao cấp (SOM) và các Hội nghị Bộ trưởng. Nay EPG đề nghị đổi Hội nghị Cấp cao thành Hội đồng ASEAN, họp một năm 2 lần, cfó thể có ngoại lệ khi cần có quyết định về các vấn đề quan trọng. EPG khuyến cáo cần xây dựng Ban Thư ký mạnh: Tổng Thư ký ASEAN có quyền lớn hơn trong việc giám sát các thành viên thực hiện các cam kết trong ASEAN.
Ba trụ cột cơ bản (An ninh, Kinh tế, Văn hóa-xã hội) sẽ được xây dựng thành 3 Hội đồng trực thuộc ASEAN. Các nước thành viên ASEAN cử Đại sứ bên cạnh ASEAN có trụ sở ở Giacácta (In đônêxia). Các nước đối thoại có thể cử Đại sứ theo dõi việc hợp tác giữa ASEAN với nước đó.
EPG khuyến nghị rằng khi có Hiến chương ASEAN, nước thành viên nào vi phạm nghiêm trọng thì sẽ bị treo quyền một thời gian nào đó, nhưng không có chuyện khai trừ (để giữ gìn nguyên tắc đoàn kết truyền thống). Trong trường hợp đặc biệt, Hội đồng ASEAN sẽ đưa ra những quyết định cụ thể.
Hiến chương này qui định tuân thủ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong một số trường hợp có thể xem xét, điều chỉnh để bảo vệ lợi ích chung (chẳng hạn vấn đề xử lý khói bụi do cháy rừng ở Inđônêxia gây ra). Riêng trong lĩnh vực kinh tế, nguyên tắc đồng thuận trước đây sẽ không được áp dụng mà theo nguyên tắc bỏ phiếu đa số.
- Thứ ba, là quyết định đẩy nhanh hợp tác kinh tế. Trong thời gian qua, hợp tác kinh tế nội khối của ASEAN đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ; mức độ liên kết của các nền kinh tế ASEAN đang ngày càng được nâng cao với những hình thức ngày càng phong phú, nội dung ngày càng sâu sắc. Do đó, đây chính là thời điểm để đẩy nhanh hơn nữa tốc độ hội nhập nhằm tận dụng tốt hơn những thời cơ mới, ứng phó hiệu quả hơn với những thách thức mới.
Quyết định của ASEAN đẩy nhanh việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015, mở rộng nội dung, triển khai và tiếp tục phát triển các thỏa thuận về kinh tế với các đối tác quan trọng ngoài ASEAN sẽ tạo ra một thế đứng và hình ảnh mới của ASEAN trong con mắt của cộng đồng quốc tế.
- Thứ tư, về quan hệ đối ngoại, Hội nghị Cấp cao ASEAN với các nước đối thoại (ASEAN+1, ASEAN+ 3, EAS-2) đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Các nước đối thoại tiếp tục nhấn mạnh quyết tâm tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt và cùng có lợi với ASEAN, khẳng định và cam kết tiếp tục vai trò chủ đạo của ASEAN trong các tiến trình khu vực, hỗ trợ tổ chức này trong các nỗ lực xây dựng Cộng đồng cũng như hợp tác chặt chẽ trong ứng phó có hiệu quả với các vấn đề xuyên quốc gia.
Điều này cho thấy vai trò và vị thế của Hiệp hội trong khu vực ngày càng gia tăng. Không những thế, sức hút của hợp tác ASEAN được thể hiện rõ hơn thông qua việc Pháp và Đông Timo chính thức tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á (TAC).
Đặc biệt, Hội nghị Cấp cao Đông Á lần thứ hai (EAS-2) lần này được coi là bước phát triển tiếp theo của tiến trình hợp tác và liên kết vùng.
Khu vực Đông Á bao gồm nhiều vùng kinh tế thuộc loại tiềm năng nhất trên thế giới, chiếm tới một nửa dân số thế giới và hơn 20% các hoạt động thương mại của thế giới.
Cách đây hơn một năm, EAS-1 đã diễn ra tại Malaixia khi giá dầu mỏ trên thị trường quốc tế tăng vọt, gây lo ngại cho cả thế giới, đặc biệt là cho các nền kinh tế trong khu vực đầy năng động này. EAS được xác lập và đi vào hoạt động trong bối cảnh sự độc lập về nền kinh tế đang tăng lên trong khu vực, phản ánh mong muốn chung của các thành viên tăng cường hợp tác ngăn chặn rủi ro tài chính, chủ nghĩa khủng bố, thảm họa thiên nhiên và đại dịch. Mặc dù chỉ có một số quyết định cụ thể ban đầu được thông qua, nhưng EAS đã đánh dấu một mức độ mới trong hợp tác khu vực.
Ý tưởng thành lập ESA được Thủ tướng Malaixia M.Mohamed đưa ra từ năm 1990, bắt nguồn từ dự định thành lập một Cộng đồng Kinh tế Đông Á (EAEC), bao gồm các thành viên ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc (ASEAN+3).
Giữ vai trò hạt nhân trong EAS, ASEAN đặt ra những yêu cầu cụ thể đối với các thành viên tham dự: Các thành viên phải ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác ASEAN hoặc phải có mong muốn ký kết; phải là thành viên đối thoại của ASEAN và phải có mối quan hệ thực sự với Hiệp hội.
EAS với sự tham dự của các vị đứng đầu Nhà nước hoặc Chính phủ sẽ góp phần hình thành các biện pháp xây dựng lòng tin giữa các quốc gia thành viên, một bước đi đầu tiên tiến tới sự hợp tác có hiệu qủa hơn. Điều này chứng tỏ rằng các thành viên không phải chỉ đưa ra các quyết định mang tính hình thức mà sẽ tham gia vào một lịch trình mang ý nghĩa thiết thực.
EAS được xác định là "Diễn đàn đối thoại về các vấn đề chiến lược, chính trị và kinh tế to lớn mà các bên quan tâm, với mục tiêu thúc đẩy hòa bình, ổn định và sự thịnh vượng về kinh tế ở Đông Á”. EAS phấn đấu để thúc đẩy các giá trị được công nhận trên bình diện toàn cầu, trong đó ASEAN là lực lượng chi phối cùng sự hợp tác của các đối tác khác.
Các nước Đông Á có nhiều điểm tương đồng về văn hóa, từ lâu có quan hệ gắn bó về kinh tế và thương mại với nhau nên việc ra đời của Hội nghị Cấp cao Đông Á là một hệ quả tự nhiên. Tuy nhiên, giữa các quốc gia trong khu vực vẫn còn không ít sự khác biệt về lịch sử, chế độ chính trị-xã hội, trình độ phát triển kinh tế. Do đó, việc hình thành Cộng đồng Đông Á không đơn giản và cần phải có thời gian.
Trước mắt, EAS hướng tới thúc đẩy sự hợp tác về nhiều mặt giữa các nước trong khu vực thông qua các cơ chế ASEAN+1, ASEAN+3 và Cấp cao Đông Á, trong đó dành sự ưu tiên cao cho hợp tác kinh tế-thương mại, đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa; Thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư, sớm nghiên cứu khả năng kết nối các thỏa thuận về Khu vực Mậu dịch Tự do giữa các nước trong khu vực.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hợp tác ứng phó với những mối quan tâm chung như thiên tai, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, thảm họa, môi trường. Một trong những hướng quan trọng là tăng cường hợp tác, giúp đỡ thu hẹp về khoảng cách và trình độ phát triển của các nước thành viên ASEAN, trước hết là Việt Nam, Campuchia, Lào và Mianma.
EAS là một diễn đàn với sự đa dạng về kích cỡ, mức độ của sự phát triển chính trị và hệ thống chính trị của các nước thành viên tham gia. Nhưng yếu tố kinh tế sẽ giữ vai trò chi phối chứ không phải yếu tố chính trị. Song, chính sự hợp tác có hiệu quả về kinh tế giữa ASEAN với các bên đối tác sẽ góp phần tạo dựng hòa bình, ổn định vững chắc cho khu vực.
Tại Hội nghị Cấp cao Đông Á lần này, an ninh năng lượng là vấn đề thời sự được các nước hết sức quan tâm. Để tăng cường hợp tác khu vực trong lĩnh vực này, Lãnh đạo các nước Đông Á đã tuyên bố đẩy mạnh hợp tác trong tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế, sử dụng hiệu quả và bảo tồn các nguồn năng lượng hiện có, qua đó bảo đảm nguồn cung cấp năng lượng ổn định cho sự phát triển của các nước trong khu vực.
Ngoài ra, Tuyên bố của Lãnh đạo các nước Đông Á về Hợp tác An ninh Năng lượng còn thể hiện ASEAN tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong tiến trình hợp tác Đông Á, đồng thời khẳng định Cấp cao Đông Á là bộ phận không thể tách rời của các cấu trúc khu vực, trong đó có ASEAN+3.
Đóng góp của Việt Nam tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-12:
Trong hơn 10 năm kể từ khi chính thức trở thành thành viên ASEAN (ngày 28/7/1995), Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực và ngày càng phát huy vai trò và tiếng nói của mình trong Hiệp hội.
Hơn thế nữa, theo Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm, Việt Nam đã trở thành một hạt nhân đoàn kết, một nhân tố quan trọng vì hòa bình, hợp tác khu vực và một đối tác tin cậy, đóng góp thực chất vào những vấn đề có ý nghĩa quan trọng cho tương lai ASEAN. Việt Nam đã góp phần vào việc mở rộng quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của ASEAN, trong đó có việc phát triển thêm nhiều đối tác như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, tổ chức thành công một số Diễn đàn hợp tác lớn như ASEM-5, APEC-2006.
Sự tham gia tích cực vào các hoạt động hợp tác kinh tế ASEAN của Việt Nam thời gian qua đã góp phần thực hiện mục tiêu quan trọng là xây dựng thị trường, xúc tiến xuất khẩu, tạo nguồn nhập khẩu các hàng hóa, nguyên liệu cần thiết phục vụ sản xuất, tiêu dùng trong nước.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng trung bình 15,8%/năm trong giai đoạn 1996-2003. Thời gian gần đây, xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường ASEAN tăng khá cao. Năm 2004 xuất khẩu sang khu vực ASEAN chiếm tới 14,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Các nước có tỷ trọng nhập khẩu cao từ Việt Nam gồm Xinhgapo, Malaixia, Philíppin và Thái Lan.
Quan hệ hợp tác kinh tế giữa ASEAN với các đối tác ngoài khối cũng có những bước phát triển đáng kể, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Là thành viên tích cực, Việt Nam đang cùng các nước ASEAN đàm phán thành lập các Khu vực Mậu dịch Tự do (FTA) với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia và Niu Dilân.
Việt Nam đã được giao là quốc gia điều phối của ASEAN trong quan hệ hợp tác kinh tế với EU, hợp tác phát triển với Ôxtrâylia. Ngoài ra, Việt Nam đã tham gia vào hàng trăm dự án hợp tác của ASEAN trên 9 lĩnh vực khác nhau về khoa học công nghệ như lương thực thực phẩm, khí tượng, công nghệ thông tin, vật liệu, sinh học, năng lượng phi truyền thống để đào tạo cán bộ, học tập kinh nghiệm, kiến thức và tiếp nhận công nghệ của các bên đối tác.
Trong lĩnh vực môi trường, Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể về mặt tài chính cũng như nhân lực để đảm bảo sự hợp tác bình đẳng và hiệu quả với các nước thành viên khác và đã đề xuất một số dự án hợp tác. Đặc biệt, sáng kiến "Đối thoại về chính sách thúc đẩy thực hiện Hiệp ước ASEAN về phòng chống cháy rừng" của Việt Nam được các nước ASEAN hoan nghênh.
Về du lịch, thời gian qua, ASEAN là một trong những khuôn khổ hợp tác du lịch đa phương mà Việt Nam tham gia sâu rộng và có hiệu quả nhất. Những năm gần đây, lượng khách từ ASEAN vào Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá cao. ASEAN luôn là một trong ba thị trường gửi khách lớn nhất của Việt Nam. Từ 1999-2004, lượng khách ASEAN vào Việt Nam đã tăng gần 200%. ASEAN cũng là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lớn vào du lịch Việt Nam, chiếm trên 31% trong tổng số gần 6 tỷ USD đầu tư trực tiếp vào du lịch. Các nước trong khu vực có nhiều khách đến Việt Nam du lịch là Campuchia, Malaixia, Thái Lan, Xingapo, Philíppin.
Việt Nam cũng tham gia tích cực vào tất cả các chương trình, dự án hợp tác của ASEAN trong lĩnh vực văn hóa thông tin. Hàng trăm đoàn văn hóa, thông tin của Việt Nam đã sang các nước ASEAN để trao đổi hợp tác, trao đổi thông tin, góp phần tăng cường hiểu biết, giao lưu văn hóa giữa các nước trong khu vực.
Ngoài ra, hợp tác phát triển xã hội giữa các nước ASEAN cũng đạt được nhiều kết quả trên nhiều lĩnh vực như giáo dục, lao động, phụ nữ, thanh niên, phòng chống thiên tai, phòng chống AIDS, sức khỏe - dinh dưỡng, phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo.
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN -12, đoàn đại biểu Việt Nam do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu đã tham dự Hội nghị và các hội nghị liên quan, gồm Hội nghị cấp cao ASEAN+3 với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, các Hội nghị Cấp cao ASEAN+1 với từng nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ, cùng Hội nghị Cấp cao Đông Á, gồm 10 nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, ấn Độ, Niu Dilân và Ôxtrâylia lần thứ hai (ESA-2).
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã tham dự các Hội nghị Cấp cao giữa 4 nước Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam, Hội nghị giữa 4 nước Campuchia, Lào, Mianma, Việt Nam với Thái Lan.
Là một thành viên tích cực và có trách nhiệm của Hiệp hội, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-12, Việt Nam cùng các nước ASEAN khác một lần nữa khẳng định những nguyên tắc và giá trị cơ bản của Hiệp hội; trên cơ sở đó, tiếp tục thắt chặt hơn nữa tình đoàn kết gắn bó tự nhiên giữa các nước thành viên, tăng cường hơn nữa sự năng động và tính linh hoạt, khả năng tính ứng và những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới, nhu cầu phát triển và hoàn cảnh của khu vực và mỗi nước thành viên; cũng như thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN và giữa ASEAN với các khu vực khác.
Đó là sự lựa chọn đúng đắn để ASEAN xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN đoàn kết, năng động và rộng mở, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Trong năm 2007, để góp phần thiết thực vào tiến trình này, Việt Nam đang tích cực chuẩn bị tổ chức Diễn đàn Hợp tác Phát triển (IDCF) lần thứ hai, nhằm để ra chiến lược tổng thể cho việc triển khai Sáng kiến liên kết ASEAN về thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN.
Trung Dũng
Theo TTXVN, ngày 19 tháng 01 năm 2007