ThS. Trịnh Sơn Hoan
Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng
Trong
bài viết này, tác giả đã nêu và phân tích khái quát quá trình hình
thành, phát triển của nước Mỹ từ khi châu Mỹ được phát hiện, nước Mỹ ra
đời và phát triển bởi những cuộc di dân. Chính lịch sử di dân đã làm cho
nước Mỹ mang trong mình bản sắc hết sức độc đáo. Đồng thời, tác giả đã
cho thấy hình ảnh một nước Mỹ đa sắc tộc nhưng được hòa trộn thành một
sắc tộc mới. Bên cạnh đó, các khía cạnh văn hóa, tín ngưỡng, triết học,…
cũng được tác giả phân tích với tư cách những cơ sở góp phần làm nên
tính cách Mỹ.
Năm
1492, việc Christopher Columbus (1451-1506) phát hiện ra châu Mỹ là một
sự kiện lớn trong lịch sử phát triển nhân loại. Đây được xem là một
trong những thành tựu có vai trò làm biến đổi thế giới. Kể từ khi châu
Mỹ (đặc biệt là Bắc Mỹ) được định vị trên địa cầu, người ta dần dần phát
hiện thấy tiềm năng dồi dào của vùng đất này và những cuộc di dân đến
đó cũng bắt đầu diễn ra một cách ồ ạt. Vậy, điều gì đã hấp dẫn nhiều
người đến đất Mỹ để lập kế sinh nhai?
Mỹ
là nơi “có khí hậu ôn hoà của các nước Pháp, Tây Ban Nha hay ý ở các
bang phía Bắc, và gần như á nhiệt đới của nước Maroc hay miền Nam
Algérie, ở các bang phía Nam”. Và “dĩ nhiên các khí hậu này còn chịu ảnh
hưởng của các dòng Đại Dương, của thiên nhiên và độ cao của địa thế,
của các hồ lớn, của chế độ gió. Chẳng hạn, mùa đông ở Minnesota thường
lạnh hơn ở Lorraine hay ở áo tuy gần như cùng vĩ tuyến. Có điều chắc
chắn là: Không cực nóng và cũng không cực lạnh, khí hậu Hoa Kỳ là một
thứ khí hậu lành và tăng lực, khuyến khích làm việc và đã đem lại những
phần thưởng to lớn cho những người di dân châu Âu. Những người di dân
này trong suốt ba thế kỷ đã kéo tới đây - thoạt đầu theo từng nhóm nhỏ,
kế đó với số lượng lớn - để phát huy niềm tin tôn giáo, trí tuệ và bắp
thịt của họ, lòng yêu thích sống tự do và ước muốn sống thoải mái”([1]).
ở Mỹ, “có những ngọn núi cao, những cánh đồng lúa phì nhiêu, bằng
phẳng; có cả sa mạc khô cằn, có những vùng nhiệt đới xanh tốt, có những
cánh đồng cỏ bao la, có dải bờ biển lởm chởm và có cả những ngọn đồi
nhấp nhô”([1]). Bên cạnh đó, ở Mỹ, trong lịch sử người ta không quên
rằng “vàng trộn với đất” mà bản thân người da đỏ ở đây không hề biết đến
giá trị của nó.
Có
nhiều nguyên nhân tạo nên kết quả di cư đến nước Mỹ, nhưng theo Cố Tổng
thống J.Kennedy, chủ yếu: “do ba áp lực chính: sự khắc nghiệt của tôn
giáo, áp lực chính trị, khó khăn về kinh tế là những nguyên nhân chính
của sự di dân hàng loạt”(3) đến vùng đất này. Tuy nhiên, khi nói đến hệ
quả của những cuộc di cư đến nước Mỹ thì vấn đề được truy xét không chỉ
dừng lại ở mặt định lượng, mà còn là vấn đề định tính của nó. Bởi lẽ, di
dân không chỉ mang theo số lượng con người đến Mỹ, mà còn mang theo cả
văn hoá của khắp mọi nơi trên thế giới đến vùng đất này. J.Kennedy đã
dẫn lại lời của nhà thơ Walt Whiteman (1819 – 1892) rằng, “chúng ta là
một dân tộc gồm nhiều dân tộc”(4). Vì thế, trong hành trang của mỗi
người di cư đến đây đều ít nhiều mang trong đó bản sắc văn hoá riêng của
dân tộc họ. Đây là những cái riêng phong phú, đa dạng góp nhập vào kho
tàng Mỹ để làm nên bản sắc Mỹ.
Thế
hệ đầu tiên của nước Mỹ là những con người can đảm phi thường từ khắp
các châu lục, đó là những con người có ý chí mạnh mẽ, dám dứt bỏ nơi
chôn nhau cắt rốn của mình để bước chân đến một vùng đất hoàn toàn mới
lạ. Người Tây Ban Nha là những người đầu tiên đặt chân tới nước Mỹ, tiếp
đến là người Pháp, người Hà Lan, người Thuỵ Điển,… Người Anh đến nước
Mỹ chậm hơn nhưng lại không phải “uống nước đục”. Họ dần dần chiếm ưu
thế và làm bá chủ nơi này.
Những
con người thuộc thế hệ đầu tiên của nước Mỹ đều giống nhau ở một điểm
là: “phóng thích mình ra khỏi sự ràng buộc về đạo đức, có tinh thần tiên
phong, dám mạo hiểm, dám hy sinh, có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Người ta thừa nhận, “kỷ nguyên của Jackson tháo vát và ít quan tâm đến
nghệ thuật nhưng giỏi xoay sở để có thể hoàn thành tốt những gì mà mình
tiến hành. Người Mỹ trên vùng biên giới mới này đôi khi là cả những
người quê kệch, thô lỗ nhưng họ là những người làm việc có hiệu quả, sản
xuất giỏi, có đầu óc thực tế hướng về tương lai và đoàn kết gắn bó với
nhau”(5). Trong so sánh, nhà văn Mark Twain (1835 - 1910) đã chỉ ra
rằng, tính cách người Âu bảo thủ, còn người Mỹ thì thực dụng. Ông còn mô
tả người Anh là “người làm những gì đã từng làm”, và người Mỹ là “người
làm những gì mà họ chưa bao giờ làm”(6).
Từ
rất sớm, những cư dân xây dựng nước Mỹ đã xác định phương hướng sinh
tồn cho mình. Trước mắt, để có thể “tồn tại”, họ phải “rũ bỏ” lại đằng
sau ý thức hệ phong kiến châu Âu. Đối với họ, đó là truyền thống không
còn phù hợp với không gian sinh sống mới. Những luân lý trong quan hệ
giai cấp mà phong kiến châu Âu tạo ra đã trở thành một món ăn tinh thần
tẻ nhạt và cần phải được thay thế bằng một thứ khác. ý thức hệ được xây
dựng một cách hào hứng, cả cộng đồng người Mỹ mới đồng tình xây dựng một
phong thái tinh thần mà trong đó họ cảm nhận được sức sống mạnh mẽ, đủ
lực để xóa bỏ trạng thái sống cũ kỹ của văn hoá truyền thống châu Âu.
ở
Mỹ, có một khái niệm văn hoá đã thành văn: “Nồi hầm nhừ” (Melting-pot).
Với người Mỹ, ai cũng hiểu điều này. Đó là, tất cả mọi thứ đều được cho
vào “nồi nấu” để nấu cho nhuyễn, hoặc có thể hiểu nó là một nơi mà ở đó
những con người, những nền văn hoá và tư tưởng các loại đan xen lẫn
nhau. Ai xứng danh là một người Mỹ, thì người đó phải hấp thu một cách
tất yếu những giá trị văn hoá khác nhau, và sự hấp thu của họ góp phần
hình thành nên phong cách Mỹ. Crèveoeur (1735 - 1813), năm 1782 đã nói
rằng, “những cá nhân thuộc đủ các dân tộc trà trộn nhuần nhuyễn thành
một chủng tộc mới, và từ đó sẽ xuất hiện con người mới nhiều đặc
điểm”(7). Về sau, năm 1908, Zangwil (1864 - 1926) đã cụ thể hóa bằng vở
kịch “Nồi hầm nhừ” (The melting - pot) tại Washington, nhằm tôn vinh
lãnh địa trú thân của những người biệt xứ và ca ngợi sự hoà hợp về hôn
nhân giữa những con người thuộc các dân tộc khác nhau. Và, càng tiến gần
đến sự phồn thịnh của nền văn minh công nghiệp thì tính chất của
“Melting - pot” càng được trộn nhuyễn vào mọi góc cạnh của đời sống. Nhà
công nghiệp Ford đã chuyển tải tinh thần “Nồi hầm nhừ” của người Mỹ
bằng hành động đầy tự hào trong một buổi trao thưởng cho công nhân như
sau: “Trước một màn sân khấu vẽ một chiếc tàu buông neo ở bến cảng nơi
người nhập cư đổ bộ, có đặt một chiếc lò lớn được nối vào tàu qua một
chiếc cầu nhỏ. Hơn hai trăm thanh niên từ tàu lên chui vào lò, lúc bước
ra mặt mày rạng rỡ, phấn khởi vì đã trải qua quá trình “tôi luyện” để
trở thành người Mỹ. Trước khi bước vào lò, những thanh niên ấy đã vứt
lại quần áo rách bẩn của người di cư, và họ ra khỏi lò với những bộ quần
áo mới. Hàng nghìn khán giả theo dõi. Người ta hỏi học viên ở lò ra:
“Bạn có phải là người Mỹ - Ba Lan hay người Mỹ - ý không?” Họ trả lời:
“Không! Tôi là người Mỹ”(8).
Trong
cuốn “Văn minh Hoa Kỳ”, Jean Pierre Fichou viết: “Làn sóng di dân vào
Mỹ vừa nhiều vừa liên tục, chỉ nhất thời bị biến loạn vào những thời kỳ
khủng hoảng, suy thoái kinh tế ở các nước có di dân, hoặc trái lại, do
có sự vẫy gọi của tân thế giới. Hệ quả đầu tiên là sự muôn hình, muôn vẻ
của các cội nguồn sinh học và văn hoá. Những cuộc hôn nhân giữa những
người dân tộc khác nhau đã góp phần rất lớn vào thành công của “Melting -
pot”: Người Ariang, Do Thái, da đen, da vàng trộn lẫn với nhau, dù rằng
cho tới gần đây những cuộc hôn nhân ấy hãy còn hiếm. Con cái những cặp
vợ chồng đó tiếp nhận hai dấu ấn văn hoá của bố và mẹ, cộng với dấu ấn
của môi trường xã hội, nhất là trường học. Tiếng Anh nhanh chóng trở
thành sợi dây liên kết bền vững. Sự pha trộn bẩm sinh ấy hẳn là nguồn
gốc của tinh thần bao dung, trí óc cởi mở, yêu thích những tình thế quá
độ. Cũng có thể tìm thấy ở đó nguyên nhân sự ít quan tâm đến quá khứ,
hướng nhiều vào tương lai”(9).
“Nồi
hầm nhừ” đối với người Mỹ là một huyền thoại. Nó khảm sâu vào tâm trí
người Mỹ một ước mơ, một khát vọng rũ bỏ sự “rác rưởi” để khoác lên mình
ánh hào quang của sự giàu có. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là ước vọng mang
tính lý tưởng hoá đôi khi dùng để cổ vũ hoặc tuyên truyền, vì thực tế
người Mỹ sống đối diện với nhau hơn là kề vai sát cánh. ở Mỹ, tinh thần
dân chủ, công bằng của người da trắng (Anglo sacxong) ưu trội chỉ như
một tấm màn che mỏng manh, mà nhìn từ xa người ta tưởng là trong trắng
và tinh khiết, nhưng sau động thái “vén màn” người ta ngỡ ngàng vì biết
người da đỏ bị diệt chủng, người da đen bị nô lệ hoá và từ đó, “Nồi hầm
nhừ” chỉ còn như “một cái bẫy giương giương để đánh lừa chú chim non”
(theo cách nói của Jean Pierre Fichou). Điều đó khiến “nồi hầm nhừ” ngày
nay ở Mỹ luôn âm ỉ nhiệt độ nóng bỏng và gây ra nhiều vết rạn nứt, làm
cho tinh thần gắn kết truyền thống của người Mỹ ngày càng doãng ra.
Tất
cả những ai, dù ở phương trời nào, khi đến Mỹ đều được khuôn đúc thành
một khối. Những con người hướng tầm nhìn và bước chân đến miền “đất hứa”
không chỉ mang theo thân xác, ý chí khẳng định mình, mà còn gói trong
hành trang văn hoá của dân tộc họ. Tuy nhiên, khi đến đây - đối diện
trước một tồn tại mới, bắt buộc họ phải tẩy rửa những vết tích quá khứ
để hội nhập và “đeo bám”, để “rượt đuổi” và tìm kiếm sự thành công.(9)
Thiết
chế của một nền dân chủ, tự do là chất xúc tác để hình thành nên cá
tính dân tộc Mỹ và nó được biểu trưng bằng những cá nhân trong xã hội.
Chủ nghĩa tự do Mỹ dựa trên chủ nghĩa bình quân và thuyết đa nguyên cho
thấy tiêu chí sinh tồn của một nước Mỹ đa sắc tộc, đó là có lợi ích cá
nhân thì mới có tiến bộ, sự bình đẳng về cơ hội cho phép ai cũng có thể
phát huy khả năng trong bối cảnh “trăm hoa đua nở”. Mỗi người Mỹ đều tự
khẳng định rằng, dù trong xã hội làm nghề gì, giàu hay nghèo, đã có
những hành động gì... thì chính tôi đã tự tạo ra bản sắc của tôi. Vì
vậy, mỗi người Mỹ không chịu nhờ vả ai, họ đi lên bằng chính đôi chân
của mình bởi họ quan niệm rằng, “vận mệnh không ai trao cho mình bằng
chính mình tạo ra”. Với suy nghĩ đó, họ chấp nhận hứng trải cuộc sống
trong niềm tin, sự lạc quan về một kết cục tốt đẹp. ở Mỹ, chủ nghĩa tự
do là cơ sở cho chủ nghĩa cá nhân phát triển, vì trong dòng chảy cuộc
sống mỗi cá nhân tự khẳng định mình trong sự sáng tạo. Sự sáng tạo đó
được xã hội công nhận trong chừng mực cá nhân đó thành đạt và có ích cho
xã hội. Chủ nghĩa tự do ở Mỹ cũng có quan hệ mật thiết với đạo Tin Lành
và Thanh giáo, bởi lẽ nó cho phép con người một mình đối diện trực tiếp
với Chúa để tự do lựa chọn, tự giao ước. “Ngay thuở bình minh của sự ra
đời của nước Mỹ, những nhóm nhỏ di dân đã ấp ủ một niềm tin mạnh mẽ vào
sứ mạng xây dựng một vương quốc của Chúa Trời trên “miền đất hứa” này.
Sự thông giao của Chúa với tín hữu Thanh giáo coi thành công vật chất là
sự minh chứng về ơn huệ của Chúa. Lòng khao khát của cải, lòng hăng say
lao động và vui sống đạm bạc, tất cả như biện minh cho việc kinh doanh
buôn bán chính là một phương thức giành thắng lợi”(10).
Một
phương châm sống đã thành truyền thống của người Mỹ là phải tự làm nên
chính mình - thân lập thân (self made man). Người Mỹ quan niệm rằng,
giá trị hữu dụng với cá nhân không thể có được từ một sự may rủi nào, nó
phải là kết quả của sự nỗ lực cá nhân. Đây chính là cơ sở tạo nên tính
tự chủ về hành vi trong mỗi hành động của người Mỹ, họ quyết đoán trong
hành động và có bản lĩnh chịu trách nhiệm đối với những hành động của
mình. Để làm được điều này, đôi khi người Mỹ chấp nhận mạo hiểm. Nhưng
vì lợi ích, họ chấp nhận lao vào vòng xoáy của sự tiến thân, “vươn vượt”
lên phía trước để theo đuổi lợi ích, và xem mạo hiểm chỉ là một yếu tố
trên con đường đi đến thành công. “Nếu hành động trong mạo hiểm sẽ có
một nửa cơ hội thành công và một nửa nguy cơ thất bại, nhưng nếu không
hành động thì không có gì cả. Vậy, nên hành động để có thể thành công”.
Đó là suy luận của một người Mỹ khi đối diện với cơ hội và thách thức.
Đối với người châu Âu, nếu không làm được cái gì tốt nhất thì thà rằng
chẳng có gì; ngược lại, với người Mỹ: thà có được một cái gì đó còn hơn
không có gì cả. Vì thế, hành động trong cuộc sống luôn được người Mỹ tôn
thờ như một tín ngưỡng. (10)
Người
Mỹ quan niệm hành động là phải thúc đẩy để tạo ra một hiệu quả nào đó
và nó phải giúp ích cho sự tồn hữu của họ. Họ quả quyết rằng, cái gì có
“tác dụng” thì cái đó là chân lý, chân lý là “hiệu quả”, càng nhiều chân
lý càng tốt. Để hành động có hiệu quả, mỗi cá nhân Mỹ lao phóng vào
thực tiễn bằng sự dũng cảm và quyết đoán của ý chí, dám đối diện với
thách thức và vượt qua nó để đạt đến thành công. Mọi hành động phải luôn
xác định rõ mục đích và mục đích cuối cùng là “hiệu quả”. Hiệu quả
chính là thước đo giá trị hành động.
ở
Mỹ, đứng trước “giá trị tiền mặt” thì mọi người đều bình đẳng như nhau:
“Anh ta hài lòng vì ở đây (Mỹ) không phải là bác sĩ mới được tôn trọng,
người ta không cần biết gốc gác anh là ai? Bố anh làm nghề gì?,... Chỉ
cần có tiền là có thể mua xe Mescedes, tậu biệt thự, lên giai cấp dễ
dàng... Nhiều nhà chính khách không giầu, mà còn khoe gốc gác hèn kém
của mình. Người nước ngoài chê người Mỹ quá ư vật chất lý tài, họ chưa
thấy hết giá trị tượng trưng cho thành công cá nhân của đồng tiền”(11).
Những
người Mỹ thành đạt và trở nên giàu có như thế giới biết đến không phải
là một sự ngẫu nhiên, may rủi hay “ngồi mát ăn bát vàng”. Thành quả của
họ luôn nằm sau sự nhọc nhằn nắng mưa, chịu khó, chăm chỉ, biết tiết
kiệm, sống có kỷ luật và coi trọng đạo đức lao động. Đạo đức lao động
của người Mỹ thể hiện ở việc họ không chỉ biết quý giá trị của đồng tiền
có được từ “mồ hôi, xương máu và nước mắt”, mà còn coi đó là một sự ân
sủng của Thiên Chúa. Lịch sử “Lễ Tạ ¥n” của người Mỹ viết: “Năm 1620, có
một tàu buồm mang tên “Hoa tháng năm” (Mayflower), sau 65 ngày trôi nổi
trên mặt biển đã đến New England của châu Mỹ. Trên thuyền có tất cả 102
người... Mùa đông năm 1621, số người này gặp giá rét dữ dội, lại bị một
số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, khiến họ phải trải qua một cuộc sống
hết sức khổ sở. Sau tai nạn trên, con số 102 người chỉ còn sống có 44
người và trong số đó chỉ có 7 người đủ sức khoẻ để chôn người chết. Mặc
dù phải chịu sự khổ sở như vậy, thế mà khi con thuyền “Hoa tháng năm”
bắt đầu trở về nước Anh, không có một người nào chịu theo thuyền trở về
nước cả!... Mùa thu 1621, họ trúng mùa to. Thế là họ tổ chức ngay một
buổi tiệc tạ ơn giữa đồng nội”(12). Khi đó, những người Mỹ đầu tiên nghĩ
rằng, Chúa đã thương tình cứu vớt sự sống bằng những giá trị đích thực;
vì vậy, phải tạ ơn Chúa! Điều này chứng thực rằng, ở Mỹ, yếu tố tôn
giáo chiếm giữ một vị trí quan trọng trong văn hoá. “Chúa” có vai trò
quan yếu trong đời sống tinh thần của một bộ phận không nhỏ người Mỹ.
ở
Mỹ, yếu tố cá nhân luôn được đề cao hơn cả trong văn hoá, chính điều
này đã làm nổi bật “cá tính Mỹ”. Người Mỹ luôn chống lại quan điểm cho
rằng "tất cả mọi người đều giống nhau”. Họ nêu khẩu hiệu: "Hãy là chính
mình". Và, không có lý do gì phải thay đổi cách ứng xử để hợp với số
đông”. "Nếu muốn một việc gì đó được thực hiện tốt, phải tự tay mình làm
lấy" hoặc "về lâu về dài, người duy nhất mà bạn có thể tin cậy, đó là
chính mình".
Tính
cách Mỹ có những giá trị phổ quát đã được định hình. Tuy nhiên, nhìn từ
giác độ đơn sắc thì nó lại luôn vận động không ngừng, vì mỗi cá nhân Mỹ
luôn là một chủ thể bất định. Francis Lieber (1800 - 1872) từng nói: “ở
Mỹ ông cảm thấy mình bị buộc vào cánh quạt của cối xay gió,… sự vận
động trở thành sứ mệnh lịch sử”(13). Người ta cũng nói vui với nhau
rằng, người Mỹ cử động cả trong khi ngủ. J.P.Fichou đã ví von: “Hoa Kỳ
là đất nước của những bánh xe lăn”.
Sự
hình thành cá tính Mỹ theo dòng chảy của lịch sử nước Mỹ không thể
thiếu vắng triết học Mỹ. Như F.Nietzche (1844 - 1900) nói, triết học là
yếu tố cơ bản (bên cạnh tín ngưỡng và khoa học) làm nên văn hóa Mỹ. Tuy
nhiên, triết học Mỹ không như triết học châu Âu, vì ở châu Âu triết học
là sản phẩm của nhà kính, của tư duy bị cuốn hút bởi những khái niệm
tinh tế, còn ở Mỹ, triết học là sản phẩm của tự nhiên. Triết học Mỹ
không xây dựng lâu đài bằng những khái niệm mà nó là một nền triết học
tự do, tung bay ngoài trời. Nó chủ trương lảng tránh những vấn đề của
triết học truyền thống, không thích bàn đến những vấn đề trừu tượng, chỉ
chú tâm vào những vấn đề cụ thể mang lại lợi ích thiết thân cho con
người. Trong sự đua nở của triết học Mỹ (triết học phân tích, triết học
khoa học, trường phái lịch sử, chủ nghĩa Frued mới, chủ nghĩa hiện thực
mới, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa
hiện sinh,…) thì chủ nghĩa thực dụng được xem là biểu trưng của văn hóa
Mỹ, nó là đặc sản tinh thần của nước Mỹ, đã thấm sâu vào tính cách Mỹ.
“Nếu nói có loại triết học nào trên thế giới bắt nhịp chặt chẽ nhất với
mạch đập của thời đại, trước hết cần nêu lên triết học chủ nghĩa thực
dụng của nước Mỹ, được nảy sinh theo tiếng gọi của thời đại Mỹ, có chung
số phận với sự phát triển của xã hội Mỹ, trở thành triết học nhân sinh
của người Mỹ”(14). Quả thật, đối với người Mỹ, chủ nghĩa thực dụng được
xem như một loại phương pháp chỉ dẫn mỗi cá nhân hành động hướng đến
hiệu quả. Mỗi khi nói đến nó, người ta nghĩ ngay đến nước Mỹ; ngược lại,
khi nói đến nước Mỹ, người ta cũng nghĩ ngay đến chủ nghĩa thực dụng.
Tóm
lại, nước Mỹ với những yếu tố tự nhiên cùng sự chuyển biến xã hội từ
khi hình thành cho đến khi nó đi vào quỹ đạo phát triển là quá trình
hình thành nên tính cách Mỹ. Nước Mỹ có điều kiện phát triển không giống
bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới và tính cách của người Mỹ cũng
khác biệt tương tự. Nhờ tính cách này mà người Mỹ luôn xác định được
phương hướng nhân sinh phù hợp để hành động và có hiệu quả tốt.
Một
quốc gia thịnh hay suy chủ yếu là do yếu tố con người của quốc gia đó.
Chính người Mỹ và tính cách của họ đã làm nên sự phồn vinh và thịnh
vượng của đất nước họ. Bằng nội lực con người cộng với “thiên thời, địa
lợi” nước Mỹ đã trở thành một siêu cường về nhiều lĩnh vực chỉ sau 4 thế
kỷ. Cá tính Mỹ là sự hoà quyện lẫn nhau bởi các giá trị văn hoá, văn
minh của nhiều dân tộc trên thế giới. Nó là một cá tính tồn tại trong đa
dạng nhưng lại hết sức độc đáo. Sự độc đáo này đã làm nên một phong
cách riêng biệt – phong cách Mỹ.(14)
************
(1) Lê Minh Đức, Nguyễn Nghị. Lịch sử nước Mỹ. Nxb Văn hóa – Thông tin, 1994, tr.6.
(2)
Lê Thị Hương. Chủ nghĩa thực dụng và cuộc đấu tranh chống lối sống thực
dụng ở nước ta hiện nay. Luận văn Thạc sĩ Triết học, 2004, tr.8.
(3) Đặng Ngọc Dũng Tiến. Hoa Kỳ - phong tục và tập quán. Nxb Trẻ, Tp. HCM, 2001, tr.239.
(4) Vương Kính Chi. Lược sử nước Mỹ. Nxb Tổng hợp, Tp. HCM, 2000, tr.43.
(5) Nguyễn Thái Yên Hưng. Liên bang Mỹ - đặc điểm xã hội - văn hoá. Nxb Văn hóa – Thông tin, 2005, tr.132.
(6) Đặng Ngọc Dũng Tiến. Hoa Kỳ - phong tục và tập quán. Sđd., tr.19.
(7) Nguyễn Thái Yên Hưng. Liên bang Mỹ - đặc điểm xã hội – văn hóa. Sđd., tr.143.
(8) Nguyễn Thái Yên Hưng. Sđd., tr.72.
(9) Jean Pierre Fichou. Văn minh Hoa Kỳ. Nxb Thế giới, Hà Nội, 1998, tr.33.
(10) Vương Kính Chi. Lược sử nước Mỹ. Sđd., tr.39.
(11) Nguyễn Thái Yên Hưng. Liên bang Mỹ - đặc điểm xã hội - văn hóa. Sđd., tr.72.
(12) Vương Kính Chi. Lược sử nước Mỹ. Sđd., tr.14.
(13) Jean Pierre Fichou. Văn minh Hoa Kỳ. Sđd., tr.51.
(14) Vương Ngọc Bình. Uyliam Giêmxơ. Nxb Thuận Hóa, Huế, 2004, tr.69.
Nguồn: Tạp chí Triết học số 3/2011