Cung Đình Thanh
Vanhoahoc.edu.vn: Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương, Vanhoahoc.edu.vn xin giới thiệu bài viết của Cung Đình Thanh về nguồn gốc dân tộc Việt Nam viết vào dịp này cách đây 8 năm tại Úc.
PHẦN DẪN NHẬP
Gần
đây cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc tìm hiểu nguồn gốc dân tộc. Một
trong những thành tích về vấn đề này cần được lưu ý là quyển Nguồn Gốc
Dân Tộc Việt Nam của Nguyễn Khắc Ngữ do Nhóm Nghiên Cứu Sử Ðịa Việt Nam
xuất bản tại Montréal (Canada) năm 1985. Nói là đáng lưu ý bởi quyển
sách nhỏ này (172 trang) trình bầy những dữ kiện và áp dụng một lối lý
luận rất khoa học. Theo Nguyễn Khắc Ngữ thì : "đại để có thể chia các
giả thuyết (nguồn gốc dân tộc Việt Nam) thành bốn loại tiêu biểu:
- Giả thuyết con Rồng cháu Tiên
- Giả thuyết Bách Việt
- Các giả thuyết của các tác giả miền Nam
- Các giả thuyết của các tác giả miền Bắc".
Phân
chia như vậy e rằng vừa thiếu lại vừa dư. Quá thiếu vì nếu cứ ý kiến
của một tác giả được kể như một "giả thuyết" thì bảng liệt kê trên còn
thiếu nhiều giả thuyết chưa kể ra. Quá dư vì những giả thuyết mà Nguyễn
Khắc Ngữ gọi là giả thuyết Bách Việt, giả thuyết của các tác giả miền
Nam, miền Bắc ... thực ra chỉ là con đẻ của một trong hai thuyết :
-
Thuyết thứ nhất dựa vào văn bản (những bộ sử hay truyện của người xưa
viết ra để lại) chủ trương người Việt có nguồn gốc từ phương Bắc đi
xuống. Các tác giả có công xây dựng nên thuyết này đầu tiên phải kể đến
những học giả người Pháp như Edouard Chavannes, Léonard Aurousseau.
Nhiều học giả nổi tiếng người Việt đã phụ họa thêm vào thuyết này như
Ðào Duy Anh, Trần Trọng Kim ... Có điều lạ cần nhấn mạnh là những học
giả người Pháp tuy có gốc thực dân, dựa vào những sách của các tác giả
Trung Hoa cũng thực dân không kém như Tư Mã Thiên, Hoài Nam Tử ... đã
giả thuyết rằng người từ phương Bắc đây, vốn thuộc đại tộc Bách Việt, vì
sự bành trướng của nòi Hoa Hán dưới thời Tần nên phải di cư xuống Bắc
Việt để cùng với dân bản xứ đã có sẵn ở đó từ trước (Madrolle CL. Les
populations de LIndochine, Paris 1918) lập nên nước Văn Lang.
Những
tác giả vốn là người Việt nói về nguồn gốc dân mình lại không bằng
những ông Tây kể trên. Nhiều người còn nghi ngờ cái nguồn gốc Bách Việt
của mình, cuối cùng (đã phải là cuối cùng chưa?) còn sản sinh ra một đứa
con hoang cho rằng dân Việt Nam chỉ là một bộ phận của người Trung Hoa
hết đợt nọ đến đợt kia sang thực dân ở đây, khi hoàn cảnh thuận lợi đã
lập ra nước riêng có tên là Việt Nam (Nguyễn Phương, GS Ðại Học Văn Khoa
- Việt Nam thời khai sinh - Viện Ðại Học Huế 1965).
Mới
xem giả thuyết này có vẻ không sai vì quả đã có một cuộc di cư của
người từ phía nam sông Dương Tử, vùng nay thuộc các tỉnh Triết Giang,
Phúc Kiến, Quý Châu, Quảng Ðông, Quảng Tây đi xuống phía Nam từ khi nhà
Tần thống nhất đại lục, lập ra một chính quyền trung ương dưới sự thống
trị của nòi Hoa Hán (chỉ mấy trăm năm trước Công Nguyên). Tuy nhiên
thuyết đó không giải thích được những điểm căn bản về sự xuất hiện của
loài người đã sinh sống và đạt được một nền văn minh khá cao tại miền
đất này cả chục ngàn năm, trước khi có người từ Phương bắc di cư tới.
Thuyết này càng không thể hiểu được tại sao có sự xâm lấn ồ ạt của người
phương Bắc đến một địa phương đã có người sinh sống trong một xã hội có
tổ chức quy củ lại xẩy ra một cách êm thắm như vậy ? Ngay cả khi vua
Thục chiếm Văn Lang của vua Hùng lập ra nhà nước Âu Lạc cũng tương đối
êm thắm chưa kể vua Thục cũng được dân địa phương lập đền thờ như đã thờ
vua Hùng. Lại nữa, khi nhà Hán đã xâm chiếm Giao Châu, chia thành quận
huyện để cai trị cả mấy trăm năm, vậy mà khi Hai Bà Trưng nổi binh đánh
Hán vào năm Canh Tý (năm 40 sau Công Nguyên), sử chép rằng : "Hô một
tiếng mà các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở
Lĩnh Nam đều hưởng ứng. Việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay"
(Lê Văn Hưu - Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư - trg 146). Dân ở Cửu Chân, Nhật
Nam là dân ở vùng Bắc và Bắc Trung Việt ngày nay, chắc chắn là tổ tiên
người Việt nổi lên hưởng ứng Hai Bà Trưng, lãnh tụ của mình là chuyện dĩ
nhiên rồi. Nhưng còn dân Nam Hải, Hợp Phố và 65 thành thuộc Lĩnh Nam
tức dân các tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, đảo Hải Nam, có thể một phần các
tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Giang Tây, Phúc Kiến, cả Triết Giang nữa thuộc
Trung Quốc ngày nay. Vậy họ là dân nào? Chả lẽ họ là dân Hán mà lại theo
lãnh tụ người Việt nổi lên đánh đuổi quan quân nhà Hán giành độc lập
cho người Việt sao ? Phải chăng người phương Bắc đó với người địa phương
nay thuộc Bắc phần và Bắc Trung phần Việt Nam chẳng qua cũng cùng một
đại tộc ? Và sự di cư từ miền Bắc về miền Nam do sự dồn ép của Hoa tộc
một phần, nhưng trước đó là do sự nước biển đã lui dần trả lại các đồng
bằng sông Hồng, sông Mã màu mỡ, là phần khác, phần chính, khiến luồng
người từ miền Bắc di về miền Nam cũng chỉ là sự qui cố hương của giống
người trước kia đã từ miền Nam bành trướng lên miền Bắc ?
-
Thuyết thứ hai dựa vào những xương sọ, đúng hơn, vào tỷ lệ tộc người
căn cứ vào các sọ này đã tìm được ở phần đất nay là Bắc và Bắc Trung
phần Việt Nam. Tổng số xương sọ được dùng làm đối tượng nghiên cứu còn
giữ lại được cho đến nay là 70 cái, chia làm hai bảng : Bảng thứ nhất
gồm 38 sọ được coi là thuộc thời đại Ðồ Ðá Mới, phần lớn do các học giả
người Pháp tìm ra (29/38) và cho rằng họ thuộc các chủng tộc Malanesian,
Indonesian, Australoid hay Nam Á. Bảng thứ hai gồm 32 sọ, phần lớn,
ngược lại, do các học giả Việt Nam tìm thấy (22/27) trong những năm gần
đây sau khi Cộng sản cho lập Viện Khảo Cổ (từ 1960). Những sọ này được
coi là thuộc thời đại Ðồng-Sắt nghĩa là vào khoảng 1000 năm trước Công
Nguyên đến vài ba trăm năm sau Công Nguyên, đa số thuộc chủng tộc
Mongoloid. Hai bảng xương sọ này đã là nguyên nhân sinh ra những giả
thuyết về nguồn gốc người Việt khác với những giả thuyết dựa vào văn bản
kể trên. Tuy nhiên kết luận của các tác giả này cũng có những khác biệt
đáng kể : có người cho nguồn gốc người Việt như vậy là quá trình
Mongoloid hóa các sắc dân Hắc chủng (Trần Quốc Vượng & Hà Văn Tấn -
Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy Việt Nam - Hà Nội 1963). Có người cho
đành là đã có sự Mongoloid hóa hình thành nguồn gốc người Việt nhưng sự
da vàng hóa này không nhất thiết được hiểu là Hán hóa mà là Mường hóa,
Tày Thái hóa (Phạm Huy Thông, KCH 1&2 - 1983). Có người đi xa hơn
cho nguồn gốc dân tộc Việt Nam là sự hòa đồng của các dân có nguồn gốc
bản địa (Nguyễn Ðình Khoa - Các dân tộc ở miền Bắc Việt Nam - Hà Nội
1976). Riêng Nguyễn Khắc Ngữ, tuy không khác các tác giả trên bao nhiêu,
nhưng ông hiểu Mongoloid là giống Mông Cổ (Mongol) ở phía Bắc nước
Trung Hoa, nên kết luận của ông đương nhiên phải cho nguồn gốc người
Việt trước hết là các giống Malanesian, Indonesian, Australoid từ các
hải đảo Thái Bình Dương vào. Dần dần những sắc dân này bị Mongoloid hóa
mà ông khẳng định là Hán hóa từ phương Bắc xuống, hình thành nên tổ tiên
người Việt (trang 88, sđd).
Trước
khi minh định cho thực rõ người Mongoloid từ đâu mà sinh ra ? (Ðiểm này
sẽ được trình bày trong phần sau), ta cần xác định lại từ Mongoloid
trong khảo cổ học không có nghĩa là người Mông Cổ của nước Mongol, cũng
như Malanesian không có nghĩa là người Mã Lai, Indonesian không hẳn phải
là người Nam Dương. Giản dị là khi có những tộc người này nhân loại
chưa có quy chế quốc gia, tất nhiên cũng chưa có các nước Mongol,
Indonesia, Malaysia ... Gia dĩ, khởi thủy nhân loại chỉ coi như gồm ba
đại tộc : Mongoloid là đại tộc da vàng ở Á Châu gồm hai loại : Bắc
Mongoloid ở từ Ngoại Mông về phía Bắc và Nam Mongoloid ở toàn cõi đại
lục Á Châu; Europoid, đại chủng da trắng ở Âu Châu; và Négro -
Australoid, đại chủng da đen ở Phi Châu và các đảo Nam Thái Bình Dương.
Việc
tìm thấy sọ loại Mongoloid thời Ðồ Ðồng có ít hơn thời Ðồ Ðá là do một
lý do khác sẽ được làm sáng tỏ trong phần dưới đây chứ không phải vì lý
do người Mongoloid đã từ phương Bắc di cư đến như trước kia đã hiểu. Hãy
lấy một thí dụ : chỉ có một địa điểm Hang Nậm Tum thuộc tỉnh Sơn La
vùng Tây Bắc, trong thời tiền sử người ta đã thấy có hai lớp người đến
cư trú để lại nhiều công cụ, nhiều ngôi mộ, nhiều di tích khiến người ta
biết được hai lớp người tại đây cách nhau khá xa : lớp đầu thuộc văn
hóa Sơn Vi (Hòa Bình I, khoảng hơn 20.000 năm trước Công Nguyên), lớp
sau thuộc hậu kỳ đá mới bắt đầu thời kỳ kim khí (khoảng từ 1000 năm
trước Công Nguyên trở lại). Giữa hai lớp này có một khoảng cách chứng tỏ
không có con người sinh sống tại đây đến mười mấy ngàn năm (Võ Quý, KCH
1&2 - 1990, trang 25).
Chỉ
tiếc những xương cốt để lại toàn là những mảnh sọ, những răng nanh,
xương cẳng tay, ngón tay không nguyên vẹn khiến người ta khó đoán biết
chủ nhân hang động này trước kia thuộc chủng tộc nào?
Việc
có hai lớp người cư ngụ tại Hang Nậm Tum thuộc hai thời kỳ khác nhau
cách quãng nhiều ngàn năm tương ứng với thời kỳ biển tiến (giả thiết có
sự di cư của đoàn người từ Nam lên Bắc), và biển lui (tương ứng với sự
bành trướng của Hán tộc ở phương Bắc đưa đến việc di cư ngược lại của
đoàn người từ Bắc xuống Nam) là giả thiết cần được suy nghĩ và nghiên
cứu. Người viết sẽ trở lại vấn đề này ở phần dưới đây.
Hai
giả thuyết kể trên, dù là thuyết dựa vào văn bản, hay thuyết dựa vào
các xương sọ đào được mà người ta gọi là thuyết nhân chủng đều dựa vào
một tiền đề căn bản. Ðó là : văn minh dân tộc Hoa Hán có trước tộc Việt;
đất nước và con người Trung Hoa cũng đã có trước và từ khởi thủy đã
không khác mấy với ngày nay (!).
Cái
tiền đề này không biết tự bao giờ đã coi như là một chân lý bất biến mà
hễ ai nói khác đi thì bị coi là dốt, là nói mò hay nói láo (!). Nay nếu
cái "tiền đề" này được chứng minh là không đủ, không đúng, là sai sự
thực, trái ngược cả sự thực thì tất cả những giả thuyết về nguồn gốc dân
tộc Việt Nam kể trên, dù xây dựng trên thuyết dựa vào văn bản hay trên
thuyết dựa vào sọ người cổ, đều là chuyện lâu đài xây trên bãi cát, đều
trở thành sai vậy!
Việc chứng minh cái tiền đề này là không đúng, trái với sự thực chính là mục đích của người viết tham luận này.
Căn
cứ vào kết quả của Hội nghị Berkeley 1978 nghiên cứu về nguồn gốc văn
minh Trung Hoa, căn cứ vào những phát minh khoa học mới nhất về khảo cổ
học, nhân chủng học, di truyền học (DNA), ngôn ngữ học, cả những sưu tầm
về phong tục tập quán ở phần đất nay thuộc hai quốc gia khác nhau,
người viết chứng minh được rằng : khảo cổ học, nhân chủng học, ngôn ngữ
học, huyết thống di truyền học, cả về phong tục tập quán, đều chứng tỏ
Ðại Tộc Bách Việt đã có trước, cũng đã cư ngụ tại phần đất nay là đất
nước Trung Hoa, ít nhất từ phía nam sông Hoàng, trước Hán tộc. Và văn
minh Bách Việt, căn bản là văn minh định cư trồng lúa nước, cũng đã có
trước văn minh Hoa Hán, thuộc văn minh săn bắn và trồng lúa tắc, lúa
khô. Tộc Hoa Hán khởi thủy lập quốc từ đời Thương, khoảng 1600 năm trước
Công Nguyên, chỉ là một tộc ít người chiếm một vị trí nhỏ tương ứng với
các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây và một phần Hoa Nam ngày nay, nhưng nhờ có
tài thiện chiến, tâm lý thực dụng và văn minh vật chất, học được do tiếp
xúc với văn minh Lưỡng Hà đã nhanh chóng bành trướng ra khắp đại lục và
đã đồng hóa được đa số tộc Bách Việt, thâu hóa được văn minh của họ,
hòa đồng với nhiều văn minh khác xây dựng nên một nước Trung Hoa vĩ đại
và đa tạp như ngày nay.
Sự
chứng minh này không phải để so bì hơn kém, càng không có ý chia rẽ
chủng tộc mà chỉ muốn nói lên cái gốc tích thực sự, cái dòng dõi chân
chính của dân tộc mình, đồng thời chuẩn bị tài liệu cho một hội nghị
quốc tế về nguồn gốc văn minh Việt Nam có thể được triệu tập trong tương
lai.
Ai
trong chúng ta cũng biết, muốn tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt Nam,
không thể không nói tới nguồn gốc con người. Phần viết dưới đây chủ yếu
căn cứ vào những khám phá mới nhất của di truyền học DNA để tìm hiểu về
nguồn gốc người Hoa và loài người nói chung, rồi từ đó suy ra nguồn gốc
người Việt chúng ta.
KHÁM PHÁ MỚI VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI Á ÐÔNG QUA DI TRUYỀN HỌC CỦA NHÀ BÁC HỌC J.Y. CHU
Chỉ
mới chưa đầy hai năm tính đến nay, một khám phá mới của nhà bác học
J.Y. Chu cùng 13 đồng nghiệp khác tại các trường đại học và viện nghiên
cứu lớn nhất ở Trung Hoa đã công bố một nghiên cứu thành công về Di
truyền học DNA mang tên Genetic Relationship of Population in China,
đăng trong Tạp chí Hàn Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia của Hoa Kỳ (The
Nation Academy of Sciences - USA - Vol.95, issue 20, 1763-1768, 29 tháng
7, 1998).
Báo
cáo này khẳng định nguồn gốc của người Trung Hoa, và nói chung, người
Ðông Á là do giống người ở Ðông Nam Á di lên. Những người này có gốc gác
từ Phi Châu đã di đến Ðông Nam Á qua ngả Nam Á từ nhiều năm trước.
Riêng ở phía Bắc Trung Hoa ngày nay, những người này vào khoảng cả chục
ngàn năm sau lại lai giống với người cũng từ Phi Châu di qua theo đợt
sau nhưng đi theo ngả Âu Châu và Trung Á mà người ta đồ chừng nhiều lắm
là khoảng 15.000 năm trở lại đây, sau đợt tan băng hà cuối cùng. Sự phát
minh này đã được những nhà sinh học và nhân chủng học hàng đầu của nhân
loại phụ họa và bổ túc (Cavalli - Sforza L. Alberto Piazza, 1998, Li
Yin 1999) khiến nguồn gốc nhân loại Ðông Phương, trong đó có Trung Hoa
và Việt Nam có thể coi như đã được khẳng định.
Xin
Quí vị độc giả đọc trong số này bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Ðức Hiệp
tường trình báo cáo khoa học của GS. Chu. Ở đây, chúng tôi chỉ xin Quí
vị cùng chúng tôi lược qua lý thuyết về sự thay đổi cấu trúc di truyền
DNA; rồi kiểm chứng lại phát minh của ông Chu bằng khảo cổ học và cổ
nhân chủng học đã từng được công bố; từ đó có thể chiếu rọi vào các
thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt Nam ngõ hầu có thể chấm dứt mọi
tranh cãi về vấn đề tối quan trọng có thể dùng làm căn bản cho mọi hoạt
động văn hóa của chúng ta sau này.
VÀI NÉT VỀ THUYẾT THAY ÐỔI CẤU TRÚC DI TRUYỀN DNA
Các
nhà khoa học đều đồng ý đây là thuyết quan trọng nhất có thể thay đổi
bộ mặt nhân loại kể từ đầu thiên niên kỷ thứ ba này. Người ta đã nói đến
thuyết này từ lâu nhưng việc chứng minh được về phương diện khoa học
của thuyết này mới được thực hiện trong những ngày rất gần đây.
Xin
hãy lấy ngày 22-2-2000, ngày mở đầu Hội nghị về Kỹ thuật Vi-Kính trong
Sinh học (Optics Within Life Sciences) tổ chức ngay tại bãi biển Coogee,
thành phố Sydney (Úc Ðại Lợi) làm khởi điểm thảo luận. Trong hội nghị
này, nhà nữ bác học S. Kornilova, Trưởng đoàn nước Ukraine, trước kia
thuộc Liên Bang Sô-viết, đã báo cáo về ảnh hưởng của phóng xạ nguyên tử
đối với sinh vật tại Chernobyl nơi trước kia là địa điểm một lò nguyên
tử của Nga đã bị dò làm phóng xạ thoát ra ngoài. Phóng xạ này khiến các
nhiễm sắc thể vỡ ra nhiều mảnh vụn nhẹ cỡ 5.105 Dalta. Những mảnh vụn
DNA này thường ở tình trạng thối rữa mang nhiều di tố 6-C gấp nhiều lần
hơn bình thường, đồng thời các khoáng chất (sắt, đồng, măng gan, kẽm,
chì ...) lại tăng lên rất nhiều. Cái đáng sợ nhất là tình trạng này đã
tăng lên theo tuổi tác các sinh vật (trong đó có người) đồng thời di
truyền cho thế hệ sau với mức tăng trưởng cao hơn gấp bội. Các sinh vật
nói chung và con người nói riêng mai hậu tại vùng này sẽ biến thể như
thế nào còn là điều người ta phải theo dõi thêm mới khẳng định được!
Phải chăng rồi sẽ có những loại người khổng lồ như khủng long hay dị
dạng như người hành tinh ? (Tất nhiên theo giả tưởng của khoa học).
Ðiều
quan trọng hơn nữa là người ta đã chứng minh được bằng khoa học chứ
không phải chỉ bằng lý luận và linh cảm như trước kia, rằng ngoài phóng
xạ nguyên tử, cấu trúc di truyền cũng có thể thay đổi theo luật tự nhiên
mà trước kia được hình dung qua cụm từ đột biến di truyền. Sự đột biến
di truyền này khoa học ngày nay gọi là SPONTANEOUS POINT OF MUTATION, có
thể xẩy ra vì nhiều nguyên do mà 4 nguyên do sau đây cần được lưu ý :
1.- Ðột biến di truyền do độc chất đưa đến ung thư (carcinogens) như chất formaldehyde gây ra.
2.- Ðột biến di truyền vì nhiễm khuẩn.
3.- Ðột biến di truyền do tia cực tím của mặt trời.
4.-
Ðột biến di truyền do sơ xuất của bộ máy tuần hoàn trong quá trình phân
sinh tự tạo thường xảy ra ở hai vùng có di tố purine và pyridine. (GS.
Võ Thanh Liêm, Ðại Học Monash, Báo Việt Luận, số 1460 ngày 11-3-2000).
Xin
nói ngay, những hiểu biết trên, nhân loại cũng chỉ mới khám phá ra
trong những năm gần đây. Muốn hiểu rõ hơn, đúng ra cần phải phân biệt
khái niệm về di truyền với kỹ thuật di truyền (genetic engineering hay
gene technology).
Về
khái niệm di truyền, từ năm 1665 Robert Hooke là người đầu tiên đã dùng
từ tế bào (cells) để diển tả cấu trúc của đối tượng ông quan sát dưới
kính hiển vi thô sơ của ông. Năm 1943 cụm từ DNA (DEOXYRIBO NUCLEIC
ACID) đã được dùng lần đầu để chứng minh có sự di truyền trong loài vi
khuẩn, nhưng đến năm 1951 Rosalind Frannklin mới cung cấp được dữ kiện
về sự cấu trúc của DNA. Khởi điểm của kỹ thuật di truyền có thể kể từ
năm 1953 khi James Weston và Francis Crick mới đặt thành định đề cấu
trúc di truyền DNA trong 23 cặp vòng xoắn nhiễm thể chromosomes - cấu
trúc của con người hiện đại. Phải bước vào thập niên 80, kỹ thuật di
truyền mới bắt đầu phát triển với kỹ nghệ sản xuất insulin (1980), với
giải thưởng Nobel Hòa Bình trao cho Barbara Mc Clintock về công trình
khảo cứu tính di động của genes, (1983) tiếp theo là nhiều thành tựu của
thay đổi cấu trúc di truyền từng bước đạt được do tiến bộ của kỹ thuật
di truyền thay DNA bằng cách chuyển đổi genes. Nhưng việc làm chủ được
kỹ thuật di truyền đủ để con người có thể đoạt quyền tạo hóa trong việc
tạo ra muôn loài, tăng khả năng phát hiện được nguồn gốc loài người,
thì, như trên đã nói, nhân loại mới đạt được trong những năm rất gần đây
mà thôi.
Một
câu hỏi cần làm cho rõ nghĩa là : vậy kỹ thuật di truyền (genetic
engineering) là gì ? Xin đọc định nghĩa sau đây của một cơ quan giáo dục
và di truyền Úc : "Những tế bào của mọi động vật cũng như thực vật đều
chứa yếu tố DNA, ví như một bảng thiết kế cho cuộc sống được lưu truyền
từ đời nọ qua đời kia. DNA tạo nên gene và chính các genes đã mang tín
hiệu làm cho muôn loài từ thực vật, động vật đến con người có được cái
sắc thái đặc biệt như mắt xanh, da nâu ... DNA có thể bị thay đổi bằng
cách chuyển đổi các genes giữa muôn loài khác biệt nhau. Thí dụ : ta có
thể cấy một gene từ loài cá sống ở biển Bắc Atlantic vào một cây dâu
khiến cây dâu này có thể sống trong băng lạnh.
Thay
đổi những genes đặc biệt với mục đích thay đổi một loại động vật hay
thực vật nào đó theo phương cách đặc biệt thì được gọi là kỹ thuật di
truyền vậy"
("The
cells of all plants and animals contain DNA; its like a blueprint for
life, which is passed from generation to generation DNA is made up of
genes, and its the genes that carry the information which make plants,
animals and humans have specific charcteristics such as green eyes or
brown skin ... DNA can be changes by transferring genes between and
within defferent living things - you might, for example, try putting a
gene from a fish that lives in the vary cold seas of the North Atlanitc
into a strawberry, so it can survive a frost.
Changing
specific genes in order to change a plant or animal in a particular way
is known as genetic engineering or genetic modification" - Choice
Magazine, Feb. 1997, published by Australian Consumers Association)
Trong
kỹ thuật di truyền niên đại đáng ghi nhớ là năm 1997 khi nhà bác học
IAN WILMUT tại Viện Roslin Institute ở Tô Cách Lan đã chế ra "con cừu
DOLLY" bằng phương pháp phân sinh tế bào (clone).
Rồi tháng 1 năm nay 2000, Ðại học Texas (USA) đã chế tạo thành công một cấu trúc DNA hoàn toàn nhân tạo.
Chính
những khám phá kể trên đã phá vỡ được điểm bế tắc mà kể từ Darwin (The
descent of Man - London 1874), ông tổ của thuyết TIẾN HÓA chỉ có thể lý
luận được bằng lý thuyết chứ chưa chứng minh được bằng khoa học về câu
hỏi : làm thế nào mà người vượn (Homo-Erectus) lại có thể biến thành
người hiện đại (Homo-Sapiens) như chúng ta ngày nay ? Ðiểm này sẽ được
trình bày trong những dòng sau khi ta bàn đến:
SƠ LƯỢC VỀ THUYẾT TIẾN HÓA VÀ NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI
Thuyết
này chủ trương con người cũng như muôn loài trên trái đất đều từ một
đơn bào phát sinh cách nay khoảng 1 tỷ rưỡi năm biến đổi sinh thành.
Riêng ông tổ trực tiếp của loài người đều được các nhà nhân chủng cho là
từ một giống người vượn đi thẳng bằng hai chân tên khoa học là
Homo-Erectus biến hóa dần mà ra. Như ta đã biết (Ts TƯ TƯỞNG số 4 - Văn
Hóa Ðông Sơn, trang 15) dấu vết người vượn hay còn gọi là Linh Trưởng
cho đến nay tìm được, xưa nhất là ở Ðông Phi Châu. Người ta chia làm ba
loại :
-
cổ nhất thường được gọi là người Viễn Cổ (Proteo-anthropus) từ 1 triệu
năm trở về trước (dấu chân người vượn homonid có thể cách đây đến 3
triệu rưỡi năm!).
- cổ thứ nhì thường được gọi là người Thái Cổ (Arche-anthropus) có từ 100.000 năm đến 1 triệu năm.
- cổ thứ ba được gọi là người Thượng Cổ (Paleo-anthropus) từ khoảng 40.000 năm đến hơn 100.000 năm trở về trước.
-
sau hết là người Hiện Ðại (Neo-anthropus) là mẫu hình nhân loại ngày
nay tên khoa học là Homo- Sapiens-Sapien xuất hiện cùng một loạt ở nhiều
nơi mà khảo cổ tìm thấy xương cốt cách đây trên dưới 40.000 năm. Hai
trung tâm tìm thấy người Hiện Ðại đầu tiên là Ðông Nam Á (Hang Nia) và
Tây Á.
Một
câu hỏi cần đặt ra là : có phải người Vượn Homo-Erectus từ hơn hai
triệu năm trước đã tuần tự tiến hóa để trở thành người hiện đại như ngày
nay không ?
Các nhà nhân chủng học hình như đã không có cùng một câu trả lời cho vấn đề này.
Người
đồng ý với thuyết chủ trương từ người Vượn Phi Châu (Autralopithecus)
đã chuyển thành người Hiện Ðại chỉ theo một tiến trình Sapiens hóa duy
nhất là nhà sinh học nổi tiếng Weidenreich F. [On the Earliest
representatives of modern mankind recovered on the soil of East Asia
(Peking, Not.Hist. Bul. XIII, 1939) - A skill of Sinanthropus pekinensi
(A comparative study on a primitive minid skill - Palacotologia Simica -
No. 10, 1943) - The Kellor Skull : Anr. jown. of Physic Anthropology 3,
1, 1945]
Nhưng
phần lớn những nhà nhân chủng khác đều cho rằng tiến trình này chỉ bắt
đầu từ người Thượng Cổ (Paleo-Anthropus) mà bỏ đi hai loại Thái Cổ và
Viễn Cổ, với lý do hai loại người Vượn quá xưa này có bộ óc quá nhỏ
(dung tích não dưới 1000 cm3) không thể cùng một chủng loại với loài
người được (não phải từ 1000 cm3 đến 2000 cm3) [Dobzhansky T. (Mankind
Evolution - New Haven - London, Yale Uni. Press. 1962); Coon C.S. (The
Origins of Races 1963)]. Nói một cách khác, ông tổ trực tiếp của người
Hiện Ðại là người Thượng Cổ rõ hơn chỉ từ người Thượng Cổ
(Paleo-anthropus) mà ra.
Ngay
cả với loại người vượn Homo Erectus thượng cổ này (Paleo-Anthropus)
không phải tất cả đều tiến hóa thành người Hiện Ðại. Có những loại như
người Neanderthal rất phổ thông ở Âu Châu (đến nay tìm thấy được hàng
trăm di tích có xương cốt loại người này) đã phát triển cách đây 150.000
năm rồi bỗng tự tiêu diệt cách đây khoảng 50.000 năm, như nhiều loài
động vật khác thời đó. Giống người này có bộ óc khá phát triển (1550 cm3
so với người hiện đại bộ não trung bình là 1400 cm3). (Boule M &
Vallois H. - Les hommes sossiles - Paris 1952) và như vậy người
Neanderthal không phải là tổ tiên của người Châu Âu ngày nay. Di truyền
học DNA xác nhận kết luận của khảo cổ học kể trên là đúng. (Krings M.
& al Neanderthal DNA Sequences and the Origins of modern humans -
Cell. Vol. 90. pp. 7719-7724, 1997).
Xem
chừng chỉ có một loài linh trưởng qua được cái cầu thay đổi cấu trúc di
truyền mà trước kia được gọi là đột biến di truyền và bước nhẩy biện
chứng. Muốn hiểu tại sao thì trước hết ta phải trả lời được hai câu hỏi
căn bản nữa là :
1 - cấu trúc di truyền của người vượn và người hiện đại khác nhau như thế nào ?
2
- Nếu loài người đã sinh ra từ một nguồn duy nhất mà nhân chủng học
ngày nay thường gọi là từ một "bà Mẹ Phi Châu", thì tại sao con người
lại kẻ da trắng tóc hoe như người Âu Châu ? Kẻ da vàng tóc đen như người
Á Châu ? Kẻ da đen tóc xoắn như đa số người Phi Châu và Hải đảo Thái
Bình Dương ?
Về câu hỏi thứ nhất:
Người
ta biết được rằng con người hiện đại như chúng ta ngày nay có 23 cặp
vòng xoắn nhiễm thể (chromosomes) trong khi người vượn có những 24 cặp,
trong đó chỉ có 5 cặp là giống người hiện đại. Do đó, trước kia, bằng lý
luận và bằng linh cảm các nhà nhân chủng học đã đoán biết được người
vượn đã tiến hóa để trở thành người hiện đại phải vượt được cái cầu thay
đổi cấu trúc di truyền. Nhưng thời đó khoa di truyền học chưa tiến bộ
nên người ta chỉ có thể lý luận có tính cách triết học là sự thay đổi
này phải có nhờ bước nhẩy biện chứng
: Các học giả thời ấy giả thiết khi những biến chuyển nhỏ về lượng tích
lũy đến một mức nào đó có thể gây những biến đổi về chất. Trả lời như
vậy là chưa thỏa đáng, không thể làm vừa ý những người đắm mình trong
tinh thần khoa học, thường được mệnh danh là khoa học chính xác trước
đây.
Ngày
nay nhờ tiến bộ của khoa di truyền như trên đã nói, người ta hiểu,
ngoài thay đổi vì phóng xạ, có thể có thay đổi cấu trúc di truyền DNA
theo luật tự nhiên vì những nguyên do khoa học, như trên đã trình bày.
Vậy
thì, trong các loại người vượn, đã có một loại, ở Phi Châu, hội đủ được
những yếu tố khoa học để thay đổi được cấu trúc di truyền của luật
Spontaneous Point of Mutation này, chuyển được DNA (translocation) của
loài Homo-Erectus thành DNA của loài Homo-Sapiens mà thành người hiện
đại. Việc này xẩy ra chỉ mới khoảng 100.000 năm cách ngày nay (tối đa là
200.000 năm). Vậy di truyền học DNA đã chứng minh thuyết các nhà nhân
chủng học chủ trương chỉ riêng người vượn Thượng Cổ (Paleo-Anthropus) đã
chuyển hóa thành người Hiện Ðại là đúng.
Về câu hỏi thứ hai:
Con
người Homo-Erectus từ Phi Châu dần dà đã phân bố đi các nơi theo nhiều
đợt qua nhiều giai đoạn khác nhau : đợt qua Á Châu trở thành người da
vàng tên khoa học là Mongoloid, đợt qua Âu Châu trở thành người da trắng
Europoid và đợt xuống Nam Phi Châu và qua hải đảo trở thành người
Negro-Australoid. Những người này có vóc dáng mầu da, ánh mắt, râu tóc
... khác nhau. Tại sao ?
Trước
kia, câu trả lời của các nhà nhân chủng học là : vì ảnh hưởng của môi
trường sinh sống (môi sinh). Ðiều này có thể hiểu theo hai nghĩa :
- nghĩa thứ nhất : môi sinh được coi là yếu tố ngoại tại,
- nghĩa thứ hai : môi sinh khi thâm nhập vào cơ thể con người dần dần đã biến thành yếu tố nội tại của con người đó.
Theo nghĩa thứ nhất
: con người được dinh dưỡng tốt, có khí hậu tốt thì có thể cao lên, to
ra; sống tại nới quá nóng hay quá nhiều ánh sáng mặt trời thì da có thể
đen hơn; sống ở nơi môi sinh khác hẳn như người Mongoloid qua eo Bering
sang Mỹ Châu, da đỏ hơn, to lớn hơn ... Nhưng sự thay đổi hình dáng vì
môi sinh như vậy cũng chỉ có thể đến một chừng mực nào đó. Không thể
cùng một nguồn gốc hay cùng một mẹ mà kẻ da trắng mũi lõ, người da vàng
mũi tẹt, người lại da đen tóc xoăn quắn. Dùng môi sinh theo nghĩa này để
giải thích hiện tượng con người cùng một gốc mà vì ảnh hưởng của môi
sinh đã biến thành người da trắng (Europoid) ở Âu Châu, da vàng
(Mongoloid) ở Á Châu hay da đen (Negro-Australoid) ở Hải Ðảo Thái Bình
Dương và các vùng khác ở Phi Châu thì có vẻ không ổn vì không đúng với
khoa học và thực tế.
Nhưng nếu hiểu theo nghĩa thứ hai,
vấn đề lại khác : môi trường đặc biệt có thể đưa vào cơ thể con người
những yếu tố đặc biệt (như các vi khuẩn, tia cực tím do ánh sáng mặt
trời, các chất độc, các khoáng sản đặc biệt ... ) khiến con người khi
hội đủ yếu tố có thể có sự đột biến di truyền tự nhiên mà khoa học ngày
nay gọi là spontaneous point of mutation. Trong trường hợp đó nhiễm sắc
thể DNA trong gene sẽ làm con người thay đổi đi về hình dáng, màu da,
râu tóc, sức khỏe, tật bệnh, cả về thông minh và có thể về tác phong
thiên hướng của con người như nghiện rượu, đa sát ... nữa. Cái nhiễm sắc
thể DNA này, một khi đã lập thành sẽ tồn tại vĩnh viễn trong con người
và di truyền mãi mãi cho các thế hệ về sau.
"Genes
contain the information necessary for our bodies to grow, develop and
formation. Genes are made of the chemical DNA (Deoxyribosenucleic acid)
which is the basic material of heridity. Genes provide the information
for the cells in the form of a chemically codes "message", knows as the
genetic code". (Fact Sheet No14 - NSW Genetic Educ. prog.)
và :
" - all yours DNA is in nearly every cell in your body.
-
it influences things that make up personal identify ; height, build,
shin colour, intelligence and possibly propensity for some behaviours
such as alcholism.
-
your genetic make up stays with you all your life it cannot be changed"
(Information paper No 5 - Sept 1996 - Privacy Commissioner Human Rights
Australia)
Chính
vì sự bất lực của khoa học trước kia không giải thích nổi các hiện
tượng như cách giải thích của di truyền học DNA vừa kể trên nên thuyết
tiến hóa từ một trung tâm duy nhất không đủ sức thuyết phục, nên nhiều
tác giả, kể cả người viết những dòng này trước kia, đã phải tạm quay ra
thuyết nhiều trung tâm, dựa vào thuyết Tiến hóa Ðộc lập Ða địa phương
(Multiregional Evolution) để giải thích về sự xuất hiện của người hiện
đại. Xin đừng vội dùng thuyết lai giống để giải thích hiện tượng này vì
khởi thủy đã có giống da trắng, da vàng, da đen khác nhau đâu mà lai.
Tóm
lại : tuy trước kia đã có rất nhiều lý thuyết có sức thuyết phục cao,
nhưng trước khi có sự khám phá về thay đổi cấu trúc di truyền DNA mà,
như trên đã nói, mới chỉ phát minh ít năm gần đây, mọi cuộc bàn cãi về
nguồn gốc con người nói chung, về nguồn gốc một chủng tộc nào đó như
chủng tộc Hoa, chủng tộc Việt nói riêng, chỉ có giá trị thuần lý thuyết.
Trong
những bài viết trước đây, chúng tôi đã chứng minh bằng những chứng tích
do khảo cổ học cung cấp, là con người đã từ phương Nam (Văn Hóa Hòa
Bình) di lên phương Bắc và là căn cốt thành lập nên nước Trung Hoa, kể
cả các nước Nhật Bản, Triều Tiên. Tuy nhiên, lúc đó chưa có được các
bằng chứng về di truyền học nên người viết còn bi lấn cấn về bảng xương
sọ có tính Hắc chủng mà các học giả Pháp gọi là người Malanesian,
Indonesian, Nam Á, Australoid, và được tất cả các tác giả người Việt gần
đây tuân theo như một chứng tích đầy quyền uy của khoa học. Tất cả
những lấn cấn này, nay nhờ di truyền học đã được sáng tỏ.
Và chúng ta thấy đã đến lúc cần phải duyệt xét lại tất cả các thuyết về
nguồn gốc dân tộc Việt Nam từ trước đến nay cho phù hợp với tiến triển
của khoa học ngày nay.
ÐÓNG GÓP CỦA GS. CHU & ÐỒNG NGHIỆP VÀO NGUỒN GỐC NGƯỜI ÐÔNG Á QUA THUYẾT DI TRUYỀN
Như
trên đã nói, xin Quý vị độc giả đọc chi tiết về báo cáo khoa học của
GS. Chu và các đồng nghiệp trong số này. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nhấn
mạnh vào ba điểm căn cốt như sau :
Ðiểm thứ nhất :
Công
trình khảo cứu của GS.Chu phủ nhận người Trung Hoa đã tự sinh ra và
phát triển độc lập trên đất Trung Hoa như nhiều nhà khảo cổ trước đây đã
chủ trương đồng thời khẳng định gốc gác của người Trung Hoa từ Ðông Nam
Á di lên.
[Trích Báo cáo GS. Chu :
"Nervetheless,
genetic evidence does not support an independence origin of
Homo-Sapiens in China. The phylogeny also suggested that it is more
likely that ancestor of the populations currently residing in East China
entered from Southeast Asia"].
Ðiểm thứ hai :
Người từ Ðông Nam Á di lên đó cũng không hẳn tự phát sinh ở Ðông Nam Á mà họ đã đến từ Phi Châu qua ngả Nam Á.
[Trích Báo cáo GS. Chu :
"In
both phylogenies with different loci and populations from East Asia
always derived from a single lineage, indicating the single origin of
those populations ... It is now propably safe to conclude that modern
humans originating in Africa constitute the majority of the current gene
pool in East Asia"].
Ðiểm thứ ba :
Và,
sau khi phối kiểm với kết quả của khảo cổ học như việc đo đạc xương cốt
sọ mặt ... GS. Chu kết luận riêng người phương Bắc Trung Hoa sau khi đã
từ Ðông Nam Á di lên sau lại lai giống với người từ Trung Á và Âu Châu
di cư đến. (Có lẽ đây là tổ tiên của người Hoa Hán lập nên nhà Thương -
Người viết ghi thêm).
[Trích Báo cáo GS. Chu :
"The
northern populations were under strong genetic influences from ALTAIC
populaitons from the North. But it is unclear how Altaic populations
migrated to Northeast Asia. It is possible that ancestral Altaic pop.
arrived there from middle Asia, or alternatively they may have
originated from East Asia".
và :
"Therefore,
it is likely that ancestors of Altaic speaking people originated from
an East Asia population that was originally derived from South Asia,
although the current Altaic-speaking populations undeniably admixed with
later arrivers from mid-Asia and Europe"].
Như thế là đủ rõ.
Trong
những bài viết trước, chúng tôi đã chứng minh người thuộc Văn hóa Hòa
Bình Từ Ðông Nam Á mà điểm chính có thể từ Bắc Việt Nam đã di cư lên góp
phần thành lập nước Trung Hoa. (TƯ TƯỞNG số 2 - Nguồn gốc dân tộc Việt
Nam; số 3 - Biển tiến và Sự thuần hóa cây lúa nước; số 4 - Văn hóa Ðông
Sơn). Nay thì di truyền học đã chứng minh không phải người Ðông Nam Á
chỉ góp phần mà thực ra đã đóng vai trò chính, đã là tuyệt đại bộ phận
của nhân chủng lập nên nước Trung Hoa. Ngay cả những người ở phía Bắc
Trung Hoa cũng chỉ là người lai giữa giống từ Ðông Nam Á di lên với
giống từ phương Tây (ngưới Âu?) di lại. Và việc đó cũng chỉ diễn ra
nhiều lắm từ 15.000 năm trở lại đây mà thôi.
Sự
khám phá của Gs. Chu và các đồng nghiệp đã được các học giả khắp nơi
hưởng ứng. Nhiều học giả đã bổ khuyết thuyết của Ông Chu bằng những tham
luận giá trị. Xin kể ra đây ba khuynh hướng đáng lưu ý nhất :
Khuynh hướng 1 :
Trước hết, phải kể đến nhà di truyền học rất nổi danh vì đã đóng góp
cho nhân loại nhiều công trình nghiên cứu giá trị là GS. Cavalli-Sforza.
Ông đã chứng minh từ năm 1997 trước khi có sự công bố công trình nghiên
cứu của GS. Chu là người từ Châu Phi đã đến Ðông Nam Á qua ngả Nam Á,
rồi từ Ðông Nam Á họ đã chia hai ngả : một ra các hải đảo thuộc Châu Ðại
Dương để trở thành những người mà sau này các nhà nhân chủng học gọi
bằng nhiều tên như Malanesian, Indonesian, Australoid; và một ngược phía
bắc lên Ðông Á rồi vượt eo Bering sang Mỹ Châu. (Cavalli-Sforza -
genes, people & languages - Proc. Natl. Acad. Sci. - USA, Vol. 194
pp. 7719-7724, 1997). Câu hỏi cần được đặt ra là : Tại sao cũng từ Ðông
Nam Á ra đi mà người ra hải dảo thì da sậm, tóc xoăn; trong khi người
ngược phía Bắc lại thuộc da vàng, tóc đen? Cần phải có sự nghiên cứu về
di truyền học và có thêm tài liệu khảo cổ để trả lời câu hỏi này cho xác
đáng. Trong hoàn cảnh tài liệu hiện có, chỉ có thể giả thiết, người từ
Phi Châu đến Ðông Nam Á rồi tiện đường (lúc này nước biển thấp nên có
nhiều cầu nổi nối liền Ðông Nam Á đến hải đảo) ra hải đảo Thái Bình
Dương trước. Trong khi trụ lại Ðông Nam Á, họ đã hội đủ các yếu tố khoa
học để có được một sự thay đổi cấu trúc di truyền lần hai, biến từ giống
da đen sang giống da vàng trước khi họ tiến lên phía Bắc. (Xin đọc lại
đoạn trên về sự thay đổi di truyền DNA là nguyên nhân thay đổi vóc dáng,
mầu da, mầu mắt, mầu tóc ...). Vậy phải chăng người Hắc chủng từ Phi
Châu đến Ðông Nam Á rồi nhờ hội đủ yếu tố khoa học, đủ cơ duyên, đã biến
đổi thành người da vàng mà sau này nhân chủng học gọi bằng tên
Mongoloid. Từ đó họ đã tỏa lên phía bắc vượt sang Châu Mỹ tạo thành
người Da Ðỏ. Một nhánh khác của Hắc chủng khi đến Âu Châu đợt sau đã nhờ
thay đổi cấu trúc di truyền DNA mà thành Bạch chủng, sau này gọi là
Europoid. Ðại chủng Vàng Mongoloid ở Á Châu, và Ðen Negro-Australoid ở
Phi Châu và các hải đảo Thái Bình Dương, và Trắng (Europoid) ở Âu Châu
nay lan sang nhiều nơi khác như Bắc Mỹ, Úc Châu ... là ba đại chủng
chính của nhân loại ngày nay.
Khuynh hướng 2 :
Ðến năm 1999, một học giả khác người Trung Hoa, GS. Li Yin, đứng đầu
một nhóm khoa học gia về di truyền học (Ðại học Stanford) đã nghiên cứu
cùng một vấn đề trên. Báo cáo của ông củng cố thuyết của ông
Cavalli-Sforza mà còn chi tiết thêm thuyết con người có gốc duy nhất từ
Phi Châu đã di cư đi các nơi khác qua ba đợt như sau :
Ðợt 1 : Từ Phi Châu đến Nam Á rồi xuống Châu Ðại Dương.
Ðợt 2 :
Từ Phi Châu đến Ðông Nam Á qua ngả Nam Á; rồi từ Ðông Nam Á chia hai
ngả, một đến các hải đảo Thái Bình Dương, một ngược lên phía bắc đến
Ðông Á và Bắc Mỹ.
Ðợt 3 : Từ
Phi Châu đến Tây và Trung Á rồi từ đó chia hai : một nhóm đi lên Âu
Châu rồi qua Bắc Mỹ; một nhóm đi qua Nam Á và vào Bán đảo Ấn Ðộ. Kết quả
về di truyền của GS. LiYin về sự di cư của người Phi Châu thực ra cũng
không khác nhiều với thuyết di cư do các nhà nhân chủng học mà tiêu biểu
là Charles Higham đã vẽ ra bản đồ từ năm 1996 (Li Yin & N. -
Distribution of halotypes from a chrosmosomes 21 Region-distinguishes
multiple prehistoric human migrations - Proc. of Natl. Acad. Sci. - USA,
Vol. 96 pp. 3796-3800, 1999).
Khuynh hướng 3 :
Một tác giả nổi tiếng khác ủng hộ và làm sáng tỏ thêm kết quả nghiên
cứu của GS. Chu là GS. Alberto Piazza ở Ðại học Torino, Ý Ðại Lợi, ông
nhắc lại ba mô hình được các học giả trước đây đưa ra về nguồn gốc người
Trung Hoa là :
Mô hình 1 : Chủ trương nguồn gốc người Trung Hoa ở Hoa Nam là từ Hoa Bắc di xuống rồi hợp chủng với những người Australoid đã có sẵn ở đó.
Mô hình 2 : Chủ
trương ngược lại cho người Hoa Nam đã di cư lên Bắc và người phía Bắc
Trung Hoa chỉ là hậu duệ của người Phương Nam di cư lên.
Mô hình 3 : Chủ
trương hai giống người ở Hoa Bắc và Hoa Nam tiến hóa và phát triển độc
lập với nhau qua ba trung tâm chính Yang-Shao, Ching Lien Khang và
Ta-Pen-Keng.
Ông
kết luận : mô hình thứ hai (Bắc là hậu duệ của Nam Trung Hoa), người
phương Bắc có sau và do từ người phương Nam di cư lên sinh ra, phù hợp
với các dự kiện về di truyền học theo khảo cứu của GS. Chu và đồng
nghiệp hơn. Những sự nghiên cứu khác dù về di truyền (Cavalli-Sforza),
hay về khảo cổ như nghiên cứu về răng (Turnen C. G.); về sọ ( Hanihara
T.) của người cổ ở Trung Hoa cũng hậu thuẫn cho mô hình hai này.
(Alberto-Piazza - Human Evolution : Towards a genetic history of China -
Proc. of Natl. Acad. Sci. - USA, Vol 395, No 6707, 1998).
Trước
khi kết luận bài viết này, chúng tôi có ý định lược duyệt các thuyết đã
có về Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam và trình bày những ưu khuyết điểm của
chúng trước khi đưa ra kết luận chung cuộc cho vấn đề. Nhưng viết đến
đây tôi thấy việc làm này cũng không cần thiết nữa. Chung qui thì những
thuyết về nguồn gốc dân tộc ta từ trước đến nay, dù do người ngoại quốc
viết, dù do người Việt Nam viết cũng chỉ qui về hai mô hình như đã trình
bày ở phần mở bài : mô hình 1 căn cứ vào văn bản chủ trương người Việt
là hậu duệ của những người từ phương Bắc di cư xuống; mô hình 2 căn cứ
vào bảng tỷ lệ xương sọ thời Ðồ Ðá Mới do người Pháp thành lập trước kia
và mới được bổ túc vào thập niên 60, chủ trương người Việt là hậu duệ
những người thuộc Hắc Chủng từ Hải đảo Thái Bình Dương di vào sau phối
hợp với những người Mongoloid từ phương Bắc di cư xuống mà thành. Tất cả
những khảo cứu về di truyền học DNA , như vừa trình bày ở trên, đều
khẳng định cả hai mô hình trên là sai, là ngược lại với sự thực. Người
viết, bằng vào những kết quả mới nhất của khảo cổ học về thời đại đồ đá,
thời đại đồ đồng, về sự thuần hóa lúa nước ... cũng đã chứng minh những
thuyết ấy là sai sự thực (Tập San TƯ TƯỞNG số 1, 2, 3 và 4). Những
chứng minh này hổ trợ cho các kết luận về di truyền học như vừa kể.
Chúng tôi sẽ trình bày các sưu khảo khác về đồ gốm, về ngôn ngữ, văn tự,
về các phong tục tập quán, nói chung về văn hóa, tất cả đều chứng minh
tộc Bách Việt đã có trước và di cư lên phía Bắc để lập ra nhiều nước
khác nhau trước khi thống nhất dưới bạo lực của nhà Tần thành nước Trung
Hoa như ngày nay. Văn hóa Việt cũng đã có trước rồi sau này tiến hóa
thành văn hóa Hoa ăn khớp nhịp nhàng với kết luận của các khảo cứu về di
truyền học vừa được công bố trong vài năm gần đây.
Thuyết
của GS. Nguyễn Khắc Ngữ cũng như các GS. Ðại Học Hà Nội về người Hắc
chủng ở hải đảo vào lai giống với người Mongoloid là tổ tiên của người
Việt ngày nay và thuyết của các học giả Pháp và các học giả người Việt
lớp cũ từ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư đến Ðào Duy Anh, Trần Trọng Kim ...
nói về nguồn gốc người Việt là hậu duệ của người từ phương Bắc xuống
phải được đảo ngược lại mới đúng với sự thực.
Người
viết xin kết luận bài này với lòng mong ước những nhà di truyền học
Việt Nam, trước hết xin bổ khuyết cho phần viết của chúng tôi liên quan
đến di truyền học DNA trong những dòng viết ở trên để những tài liệu này
được hoàn chỉnh hơn. Thứ nữa, nếu có thể được, xin sớm thực hiện một
cuộc khảo cứu về di truyền học DNA cho người Việt Nam, như trường hợp
GS. Chu và đồng nghiệp của ông vừa thực hiện đối với người Trung Hoa ngỏ
hầu có thể khẳng định và làm rõ rệt thêm rằng người Hòa Bình, đã di cư
từ Châu Phi đến, nhưng đã trụ ở Ðông Nam Á và nhờ đó đã có một sự chuyển
hóa di truyền lần thứ hai tại đây nhờ những thay đổi về DNA trong nhiễm
sắc thể khiến từ người da đen gốc Châu Phi dã chuyển hóa thành da vàng
Châu Á trước khi di cư lên phía Bắc. Nhờ vậy Ðông Nam Á (trong đó có
Việt Nam) trở thành cái nôi người da vàng cổ nhất của nhân loại tại phần
đất không những ở Ðông Nam Á mà ở cả toàn cõi Châu Á vậy.
(Viết tại Sydney, Nam Bán Cầu, nhân ngày Giỗ Tổ Hùng Vương
10 tháng Ba năm Canh Thìn, 14/4/2000)
Nguồn: Tập san Tư Tưởng (Australia), số 710 tháng Ba năm Canh Thìn, 14/4/2000)