Sức mạnh từ phép cộng
Cách đây hơn một thập kỷ, năm 2001,
Trưởng ban kinh tế của Hãng Goldman Sachs khi đó là Jim ONeil, trong
danh mục “Thị trường nhiều hứa hẹn trên thế giới”, ông đã coi bốn nước
Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc (Brazil, Russia, India, China, viết tắt
BRIC) là “Viên gạch vàng” (Golden BRIC). Jim ONeil khi đó không thể ngờ
rằng 4 nước có nền kinh tế đang trỗi dậy mạnh mẽ trong danh mục “Thị
trường nhiều hứa hẹn” nay đã trở thành Nhóm “BRICS” có tầm vóc quan
trọng đối với kinh tế thế giới hiện nay. Tháng 5/2008, Ngoại trưởng bốn
nước lần đầu tiên đã gặp nhau tại thành phố Yekaterinburg (Nga) và ra
Thông cáo báo chí nhấn mạnh bốn nước sẽ “tăng cường đối thoại trên cơ sở
tôn trọng và tin cậy lẫn nhau vì lợi ích chung, hơn nữa có quan điểm
gần gũi và giống nhau trong giải quyết vấn đề toàn cầu.” Tiếp đó, Bộ
trưởng tài chính 4 nước họp tại Horsham (Anh) vào tháng 3/2009 thống
nhất hành động và chủ trương tiến hành cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế
hiện nay và đòi quyền phát ngôn lớn hơn trên diễn đàn kinh tế thế giới.
Tháng 5/2009, Người phụ trách Cơ quan an ninh bốn nước lần đầu tiên đã
gặp nhau tại Matxcơva thảo luận hợp tác an ninh. Các điều kiện hình
thành một Nhóm nước mới đã chín muồi, nên ngày 16/6/2009 Hội nghị thượng
đỉnh BRIC đầu tiên đã họp tại Yekaterinburg. Đây là cái mốc đánh dấu
Nhóm BRIC chính thức hình thành, và hàng năm đều tiến hành gặp mặt. Năm
2010, Cộng hòa Nam Phi gia nhập, nên BRICS có 5 nước thành viên như hiện
nay.
Quả thật nếu trông vào những con số
thống kê, BRICS có những tiềm năng thật ấn tượng. Nhóm này sở hữu những
nguồn quan trọng nhất cho sự tăng trưởng, như chiếm hơn 1/4 diện tích
đất đai, 41% dân số, gần 25% GDP, 15% thương mại và gần 50% tổng dự trữ
ngoại tệ và vàng của thế giới. Dự trữ ngoại tệ của BRICS hiện tới trên
4.100 tỉ USD, trong đó của Trung Quốc trên 3.200 tỉ USD, của Brazil 200
tỉ USD, của Nga 404 tỉ USD, của Ấn Độ 254 tỉ USD.
Tiêu chí chủ yếu của các cường quốc
BRICS là sự nâng cao rõ rệt về thực lực cũng như kinh tế tăng trưởng
nhanh bền vững. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, đa số các nước đang
phát triển coi việc xây dựng kinh tế là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, dồn
sức vào thúc đẩy việc cải cách và chuyển đổi mô hình thể chế kinh tế,
trong đó các nước lớn đang phát triển đi đầu trong trào lưu phát triển
và cải cách trên thế giới. Các nước lớn đang phát triển đã giành được
những thành quả trên con đường tìm kiếm sự phát triển phù hợp với tình
hình của đất nước mình, cộng thêm vai trò thúc đẩy của toàn cầu hóa sâu
sắc, kinh tế đã thực hiện được tăng trưởng ổn định và nhanh chóng. Vào
đầu thế kỷ này, nhóm 4 nước BRIC (chưa tính Nam Phi, gia nhập năm 2010)
là những nước tỏa sáng nhất của nền kinh tế thế giới, trong đó mức tăng
trưởng kinh tế bình quân hàng năm của Trung Quốc từ năm 2002 đến năm
2008 đã vượt qua con số 10%, năm 2007 lên tới 11,9%, Ấn Độ đạt 9,3%.Cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 có mức ảnh hưởng khác nhau đối
với các nước. Nước lớn phương Tây như Mỹ là nước phải hứng chịu “thiệt
hại nặng nề” của cuộc khủng hoảng này, kinh tế tụt dốc nghiêm trọng, có
một số nước thậm chí xuất hiện nền kinh tế suy thoái. Năm 2009, kinh tế
Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản đều rơi vào sự tăng trưởng âm.
Trong khi đó, các nước BRICS kinh tế tăng trưởng tuy có phần chậm, nhưng
mức suy giảm không lớn, vẫn ở mức tăng trưởng tương đối cao, tăng
trưởng vẫn ở mức trên 5%, đặc biệt tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc
còn vượt xa mức này.
Điều đáng nói là trong bối cảnh nền
kinh tế toàn cầu phục hồi chậm chạp sau khủng hoảng năm 2008, BRICS đã
có bước tăng trưởng mạnh mẽ chưa từng có. Tổng GDP của nhóm BRICS (trước
khi Nam Phi gia nhập vào cuối năm 2010) đã tăng gấp bốn lần, với 12
nghìn tỷ USD năm 2010, 13.600 tỷ USD năm 2011, đóng góp 45% vào tăng
trưởng của kinh tế thế giới. Chỉ tính riêng năm 2001-2010, kim ngạch
thương mại giữa năm nước đã đạt 230 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng trung
bình hàng năm đạt 28%. Sự đóng góp của 4 nước BRICS đầu tiên vào kinh tế
của thế giới trong 5 năm qua cũng tăng mạnh, đạt gần 50%. Năm 2007, chỉ
tính riêng sự đóng góp của Trung Quốc đối với việc tăng trưởng kinh tế
của thế giới đã vượt qua 12%, cao hơn so với Mỹ. Báo cáo mới đây của tập
đoàn Goldman Sachs (Mỹ) dự báo, 4 nước BRIC đầu tiên sẽ “đi đầu thống
lĩnh nền kinh tế thế giới” trong thế kỷ này; trong năm 2040, Trung Quốc
sẽ vượt qua Mỹ trở thành nước lớn kinh tế hàng đầu thế giới; trong năm
2033, Ấn Độ có thể trở thành nước lớn kinh tế thứ ba trên thế giới.
Nhóm nước BRICS, hay còn gọi là “các
cường quốc hưng thịnh” đã trở thành đầu tàu thúc đẩy sự tăng trưởng kinh
tế thế giới, phát huy vai trò quan trọng chưa từng thấy trong hệ thống
kinh tế thế giới. Thậm chí, sự gia tăng ảnh hưởng của BRICS đã được lãnh
đạo các nước phương Tây như Thủ tướng Anh Gordon Brown và Tổng thống
Pháp Nicolas Sarkozy phải thừa nhận khi tuyên bố: “Nếu xa rời các cường
quốc hưng thịnh này, bất kể các vấn đề quốc tế quan trọng nào đều không
thể giải quyết tốt được”.
Chất kết dính: Tiếng nói đối kháng với phương Tây
Trong các diễn đàn chung, các cuộc gặp
thượng đỉnh của nhóm, các nhà lãnh đạo BRICS đều nhất trí đoàn kết
trong nhiều vấn đề quốc tế, thể hiện quyết tâm cùng phấn đấu chia sẻ
nhiều lợi ích quốc tế hơn nữa, tiếp tục củng cố khối liên minh năm nước,
đồng thời cũng thể hiện cuộc đọ sức mạnh mẽ giữa BRICS với các nước
phương Tây trong một số các vấn đề.
Thứ nhất là thúc đẩy đàm phán thương
mại toàn cầu Doha. Mặc dù các vòng đàm phán Doha đều là đàm phán đa
phương nhưng nhân vật chính thực sự của các cuộc đàm phán là các nước
trong nhóm G20 bao gồm Mỹ, EU và các nước đang phát triển như Brazil, Ấn
Độ, Trung Quốc…BRICS đồng lòng kiến nghị xây dựng một hệ thống mậu dịch
quốc tế tự do, công bằng và hợp lý, phản đối bảo hộ dưới mọi hình thức,
đồng thời tăng cường hệ thống thương mại đa phương.
Thứ hai là cải cách hệ thống tài chính
quốc tế, cùng chống lại sự bá quyền của đồng USD và thúc đẩy đa dạng
hóa các loại tiền tệ dự trữ quốc tế. Sự bá quyền của đồng USD và nỗi khổ
do nó đem lại cho các nước khác là rất lớn. Nhìn tình trạng lúng túng
xử lý vấn đề lạm phát ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế mới
nổi có thể thấy rõ điều này. BRICS luôn cảnh báo viễn cảnh dài hạn của
đồng USD do thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách của Mỹ, bày tỏ sự
bất mãn đối với đặc quyền dự trữ tiền tệ chủ yếu của toàn cầu mang lại
cho Mỹ. Các nhà lãnh đạo khối BRICS kêu gọi xây dựng một hệ thống dự trữ
tiền tệ quốc tế có thể "cung cấp ổn định và chắc chắn", đồng thời thiết
lập một hệ thống dự trữ ngoại hối toàn diện và thảo luận về quyền rút
vốn đặc biệt (SDR) của IMF.
Thứ ba là bình đẳng trách nhiệm giải
quyết vấn đề khí hậu và năng lượng. Trong khi các quốc gia phương Tây
không muốn chịu trách nhiệm cho lịch sử công nghiệp hóa của mình, lại ép
buộc các nước đang phát triển đi sau phải gánh vác nhiều trách nhiệm
quốc tế hơn. Các nước BRICS duy trì quan điểm các nước phát triển và các
nước đang phát triển cần kiên trì nguyên tắc cùng chịu trách nhiệm
nhưng có phân định, hợp tác ứng phó với thách thức biến đổi khí hậu mang
tính toàn cầu này.
Cuối cùng là xu thế 5 nước BRICS đối
thoại độc lập với khối G8 ngày càng rõ rệt. Năm 2008, trong thời gian
diễn ra Hội nghị đối thoại giữa lãnh đạo các nước này với khối G8 (8+5)
tại hồ Toya, Hokkaido Nhật Bản, lãnh đạo BRICS đã tổ chức cuộc gặp tập
thể và công bố tuyên bố chính trị chung, thúc đẩy hợp tác nam-nam, đối
thoại nam-bắc, thúc đẩy cùng nhau phát triển cũng như tiến hành thảo
luận sâu sắc về vấn đề mang tính toàn cầu mà các bên cùng quan tâm, đạt
được sự nhất trí quan trọng.
Có thể thấy, các nước BRIC mong muốn
hợp tác với nhau là do mưu cầu lợi ích chung thúc đẩy, nhưng vẫn có ý
kiến cho rằng cách thức hợp tác này không đủ sâu để loại bỏ những mâu
thuẫn đến từ việc cạnh tranh lẫn nhau.
Thiếu kế hoạch hành động chung
Theo một logic thường thấy, sức mạnh
của nhóm luôn tiềm ẩn nguy cơ bị giảm sút khi xuất hiện mâu thuẫn bên
trong. Mặc dù có những quan điểm chung về các vấn đề toàn cầu trong đối
thoại với phương Tây nhưng các nước BRICS lại đang tồn tại những khác
biệt đến mức các lợi ích chung của họ không thể biến thành một kế hoạch
hành động chung. Chính các khác biệt này đang khiến hợp tác giữa các
nước BRICS tiến triển tương đối chậm, ngược với sự phát triển khá nhanh
của từng thành viên.
Trước tiên là sự rạn nứt trong việc
tìm kiếm một bản sắc chung và sự hợp tác được thể chế hóa của nhóm 5 nền
kinh tế đang nổi này, trong đó đáng chú ý là thảo luận thành lập một
ngân hàng phát triển chung, có thể hỗ trợ việc huy động các khoản tiết
kiệm giữa các nước, ngân hàng phát triển chung theo mô hình của Ngân
hàng Thế giới (WB). Ngân hàng trên sẽ yêu cầu các thành viên BRICS đóng
góp vốn nhằm tài trợ cho các dự án cải thiện cơ sở hạ tầng cũng như cung
cấp các khoản vay dài hạn hơn để đối phó với các cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu giống như cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay ở châu Âu.
Tuy nhiên, Trung Quốc đang tìm cách chi phối nhóm nước này bằng những
việc như công khai tìm cách kiểm soát ngân hàng phát triển chung đang
được đề xuất thành lập, điều mà Ấn Độ và Nga sẽ rất khó chấp nhận.
Tiếp đến là việc các nước BRICS dù
không hài lòng về quy chế coi đồng USD như đồng tiền dự trữ của thế giới
nhưng lại không nhất trí được về cách thức phản ứng trong vấn đề này.
Cấu trúc BRICS giúp Trung Quốc có cơ sở để mở rộng vai trò quốc tế của
đồng NDT. Trong nỗ lực đưa đồng NDT trở thành một đồng tiền toàn cầu, có
thể cạnh tranh với đồng USD và đồng euro, Trung Quốc đang có kế hoạch
mở rộng các khoản vay bằng đồng NDT cho các thành viên BRICS khác. Việc
cho vay và buôn bán bằng đồng NDT dường như đang thúc đẩy hơn nữa vị thế
và ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc song nó lại đang ảnh hưởng tiêu cực
đến thị trường sản xuất tại các nước BRICS khác, nhất là Ấn Độ và
Brazil.
Trung Quốc cũng không có chung quan
điểm với các nước BRICS khác trong vấn đề cải cách thể chế toàn cầu.
Nước này muốn xem xét lại cấu trúc của hệ thống tài chính thế giới, tìm
cách cải cách hệ thống Bretton Woods vốn hầu như không thay đổi từ giữa
thế kỷ 20 và phục vụ lợi ích của các nước phương Tây nhưng lại phản đối
việc mở rộng số thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc
vì vẫn muốn là quốc gia châu Á duy nhất có chiếc ghế thường trực tại
Hội đồng bảo an, một lập trường mâu thuẫn với Ấn Độ.
Các nước BRIC cũng cạnh tranh quyết
liệt về thị trường xuất khẩu khi đều coi Mỹ, châu Âu và Nhật Bản là thị
trường xuất khẩu chủ chốt của mình. Ngay trong nội bộ BRIC cũng không có
sự thống nhất về lợi ích. Brazil và Nga hy vọng giá năng lượng và
nguyên liệu thô tăng lên để hưởng lợi, nhưng Trung Quốc và Ấn Độ - hai
nước lớn về sản xuất hàng hóa - lại muốn giá năng lượng và nguyên liệu
thô giảm xuống. Đây chính là mâu thuẫn căn bản về lợi ích giữa các nước
BRIC. Hay Brazil - nước nông nghiệp có sức cạnh tranh nhất thế giới
nhưng không thể tiếp cận thị trường nông sản Ấn Độ vì New Dehli rất quan
tâm bảo vệ 300 triệu dân trong khu vực nông nghiệp có sức cạnh tranh
rất thấp của họ. Trong khi đó, Trung Quốc vốn có quan hệ mạnh và đang
tăng lên với cả 3 nước BRIC khi là nước "khát" nguồn nguyên liệu thô của
Nga và Brazil, đồng thời cũng mong muốn bán sản phẩm vào thị trường
đang tăng trưởng mạnh mẽ của Ấn Độ.
Sau 4 năm kể từ khi khởi động, 3 năm
kể từ Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên, không thể phủ nhận nhịp độ hình
thành khá nhanh của BRICS trong nỗ lực trở thành một công cụ chính trong
việc định hình cấu trúc quản trị toàn cầu, cho thấy “hình hài” của một
trật tự thế giới với những sáng kiến toàn cầu đầu tiên thoát khỏi sự lệ
thuộc của phương Tây. Song BRICS mặc dù đã đưa ra không ít những đề xuất
nhiều triển vọng nhưng việc thực hiện những đề xuất đó bị hạn chế bởi
không có quyết tâm chính trị và cơ chế tổ chức tương ứng. Để trở thành
đối trọng và trở thành một cực trong cục diện kinh tế chính trị thế
giới, rõ ràng BRICS cần có quyết tâm lớn hơn nữa trong việc thực hiện
những mục tiêu chung. Và nếu BRICS đạt được mục tiêu của họ, điều đó sẽ
tốt cho cả thế giới.
Chu Khang
http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/BAICHU/2012/4/03E2B09C3D2832E7/
|