Thứ Năm, 9 tháng 6, 2011

GÓP PHẦN NHẬN DIỆN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

PHẠM VĂN GIANG (*)
 
Bài viết đề cập đến vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, đó là nhận diện giai cấp công nhân nước ta hiện nay. Theo tác giả, thành phần giai cấp công nhân nước ta trong bối cảnh, điều kiện mới không chỉ bao gồm những công nhân trực tiếp tham gia quá trình sản xuất, mà còn phải được mở rộng hơn. Trong đó, bộ phận công nhân thuộc khu vực kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt. Do vậy, trong việc phát triển giai cấp công nhân nước ta, cần quan tâm phát triển đội ngũ công nhân thuộc khu vực kinh tế nhà nước. Đó là một trong những điều kiện để kinh tế nhà nước thực sự nắm vững vai trò chủ đạo, để giai cấp công nhân thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
 
Giai cấp công nhân Việt Nam đã có gần một thế kỷ hình thành và phát triển với tư cách một giai cấp. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ khả năng lãnh đạo phong trào cách mạng. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, đặc biệt là từ khi đất nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân nước ta không ngừng phát triển về số lượng và đang trải qua những biến động sâu sắc về cơ cấu thành phần và ngành nghề. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa X của Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: “Công nhân nước ta đang tiếp tục tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu theo ngành nghề và thành phần kinh tế. Trong đó, số công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn”(1).
Sự biến động của giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn hiện nay trước hết là do sự tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Công nhân khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài xuất hiện và tăng lên nhanh chóng. Theo thống kê, hiện có 3,37 triệu công nhân trong các doanh nghiệp ngoài khu vực kinh tế nhà nước; 1,45 triệu công nhân trong các danh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khoảng 2,27 triệu công nhân trong các loại hình sản xuất, kinh doanh khác(2). Nhìn chung, đại đa số công nhân ở độ tuổi còn trẻ, có sức khỏe, có trình độ học vấn và chuyên môn khá cao. Bên cạnh đó, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong cơ cấu giai cấp công nhân nước ta còn có một bộ phận công nhân đang sống và làm việc ở nước ngoài. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến tháng 6/2008, tổng số lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài là trên 500 nghìn người. Bộ phận công nhân này được tiếp xúc và làm việc trong môi trường công nghiệp hiện đại. Vì vậy, trong quá trình lao động, họ có điều kiện để học tập, rèn luyện chuyên môn, tay nghề, nâng cao tác phong công nghiệp.
Trong khi số công nhân thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng nhanh, thì số công nhân thuộc khu vực kinh tế quốc doanh lại có xu hướng giảm đi. Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là vì nhiều xí nghiệp và cơ sở sản xuất quốc doanh trước đây quen “bám” vào cơ chế bao cấp, khi chuyển sang cơ chế mới đã không kịp thích ứng, dẫn đến làm ăn thua lỗ, sản xuất đình đốn, công nhân không có việc làm hoặc làm việc cầm chừng. Trước tình hình đó, một số công nhân có trình độ và tay nghề khá giỏi đã rời bỏ nhà máy, xí nghiệp chuyển sang làm việc ở những cơ sở kinh tế tư nhân, cơ sở kinh tế liên doanh hoặc có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, xu hướng liên kết, liên doanh giữa các đơn vị, cơ sở sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển cả trong và ngoài nước. Trong mỗi nhà máy, xí nghiệp, công ty, có những dây chuyền sản xuất và bộ phận liên kết với các đơn vị sản xuất thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Những đơn vị sản xuất ấy vừa có mặt ở thành phần kinh tế này, vừa nằm trong thành phần kinh tế khác, khó có sự phân biệt một cách rạch ròi giữa các thành phần kinh tế. Bởi thế, người công nhân trong các đơn vị sản xuất này cũng không thuần khiết thuộc một thành phần kinh tế nhất định. Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, khi sản xuất công nghiệp vẫn đang trong quá trình sắp xếp lại, việc làm và đời sống của công nhân không ổn định, thì vấn đề nêu trên càng rõ nét. Người công nhân không chỉ có mặt trong một thành phần kinh tế nhất định, mà họ có thể hiện diện ở hai hoặc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Họ có thể vừa là công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước, vừa là công nhân ở khu vực kinh tế tư nhân hoặc cá thể, hộ gia đình.v.v..(2)
Nhằm phát huy mọi nguồn lực cho quá trình sản xuất, trong thời gian qua Đảng ta chủ trương “đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng công ty, nhằm tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, để vốn nhà nước được sử dụng hiệu quả và ngày càng tăng lên, đồng thời thu hút mạnh các nguồn lực trong, ngoài nước cho sự phát triển”(3). Theo đó, trong cơ cấu giai cấp công nhân nước ta có một bộ phận công nhân mới xuất hiện, đó là công nhân có sở hữu cổ phần trong các doanh nghiệp, nhà máy, công ty, xí nghiệp cổ phần.
Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta tuy còn chậm so với mục tiêu, yêu cầu đề ra, nhưng những kết quả đạt được bước đầu là đáng khích lệ. Điều đó cho thấy, chủ trương cổ phần hóa là một bước đi đúng hướng, góp phần thúc đẩy sản xuất và điều quan trọng nhất là phát huy tinh thần làm chủ của người công nhân. Tuy nhiên, hiện nay lại có ý kiến cho rằng, nếu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thì liệu kinh tế nhà nước có còn giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân nữa hay không; rằng, những công nhân có nhiều cổ phần sẽ trở thành “ông chủ” và không còn là công nhân nữa,v.v.. Về vấn đề này, khi đề cập đến nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác cho rằng, các công ty cổ phần “là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất,... với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp thành sở hữu xã hội trực tiếp”(4). Do đó, công nhân có sở hữu cổ phần không có nghĩa là họ đánh mất bản chất của mình; trái lại, sở hữu của người công nhân làm cho họ phát huy được vai trò trong quá trình làm chủ sản xuất, làm chủ xã hội, vừa làm giàu cho bản thân và gia đình, vừa làm giàu cho xã hội. Hơn nữa, như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã khẳng định, “đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản”(5). Theo đó, về mặt kỹ thuật, sở hữu của công nhân trong chủ nghĩa xã hội là một cách thức tổ chức lao động sản xuất nhằm huy động mọi nguồn lực, đem lại hiệu quả tối ưu nhất cho sản xuất, mà điều này thì bất cứ một chế độ xã hội nào cũng cần phải tính đến. Về mặt xã hội, sở hữu vô sản khác với sở hữu tư sản, vì “chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái quyền chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”(6). Cho nên, khi nói về sở hữu của công nhân có cổ phần không nên lầm lẫn giữa mục tiêu với công cụ. Người công nhân có cổ phần chứng tỏ nó đang khẳng định mình để đi tới chỗ thủ tiêu mình với tư cách giai cấp vô sản. Vì vậy, “giai cấp công nhân hiện nay có thể bao gồm cả những người có sở hữu thuộc các hình thức khác nhau mà pháp luật thừa nhận. Không vì họ có sở hữu mà đưa họ ra ngoài giai cấp công nhân”(7). Qua đó có thể thấy, chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hiện nay là đúng đắn cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy mọi nguồn lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự đa dạng trong cơ cấu giai cấp công nhân nước ta hiện nay, ngoài việc do sự tác động của chính sách kinh tế nhiều thành phần, còn do sự tác động của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nghề. Nền kinh tế nước ta hiện đang vận động theo xu hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Với cơ cấu kinh tế như vậy, sẽ xuất hiện ngày càng đông bộ phận công nhân làm việc trong các ngành nghề mới, như dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn, tin học, kỹ thuật. Vì vậy, bên cạnh đội ngũ công nhân truyền thống, đã xuất hiện bộ phận công nhân trong các ngành nghề mới, trong đó có những “công nhân trí thức”. Số công nhân mới này đa phần là công nhân trẻ, có sức khỏe, có trình độ học vấn, có khả năng tiếp thu công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến và áp dụng vào quá trình sản xuất. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bản thân giai cấp công nhân không phải là “bất biến”, mà trong quá trình phát triển nó luôn vận động và biến đổi theo hoàn cảnh của lịch sử. Chính C.Mác đã xem xét giai cấp công nhân với tư cách sản phẩm và chủ thể của quá trình phát triển nền sản cuất tư bản chủ nghĩa qua các giai đoạn: công trường thủ công, công nghiệp cơ khí, công nghiệp trong điều kiện khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Năm 1893, Ph.Ăngghen cũng đã đề cập đến thuật ngữ “vô sản trí thức”, khi ông viết: “các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được rằng, giai cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai cấp ấy có sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ với những người anh em của họ, những người công nhân lao động chân tay, đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây”(8). Và, “sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sĩ, kỹ sư, nhà hóa học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm lấy việc quản lý không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa, và ở đây cần những kiến thức vững chắc chứ không phải những câu xuông xáo oang oang”(9). Vì vậy, hiện nay, ở nước ta cùng với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, thì trình độ học vấn và chuyên môn nghề nghiệp của công nhân ngày một nâng cao và sự xuất hiện đội ngũ “công nhân trí thức” là một tất yếu. Điều này mang tính quy luật đối với tất cả các nước, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện nay.
Một vấn đề nữa đang đặt ra là, trong tình hình nước ta phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, có ý kiến cho rằng, vai trò của giai cấp công nhân ngày càng “thu hẹp” lại; rằng, khi thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản phát triển, những công nhân trong khu vực đó trở thành những người làm thuê, còn đâu là người làm chủ, và như vậy thì giai cấp công nhân có còn giữ được địa vị lãnh đạo nữa không. Về vấn đề này, chúng ta phải thừa nhận rằng, hiện nay nếu xét riêng từng cá nhân, trong từng công ty, nhà máy, xí nghiệp... thì hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của công nhân vẫn thường xuyên xảy ra. Đây cũng là một đặc điểm của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng nếu xét giai cấp công nhân trong tính tổng thể với tư cách giai cấp đã giành được chính quyền, làm chủ đất nước, thì địa vị và vai trò lãnh đạo của nó vẫn không hề thay đổi. Bởi vì, ở chủ nghĩa xã hội, khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, thì nó trở thành những người làm chủ ở các mức độ khác nhau đối với quá trình sản xuất nói riêng và xã hội nói chung. Vì vậy, không thể nhìn bộ phận để đánh giá cái toàn thể. Hơn nữa, ngày nay, khi chủ nghĩa tư bản đã “toàn cầu hóa” nền kinh tế, thì khái niệm làm thuê cũng có tính tương đối. Nhiều người có tư liệu sản xuất nhưng vẫn là làm thuê khi xét nó trong những mối quan hệ khác nhau, họ là ông chủ trong mối quan hệ với người lao động làm thuê cho mình, cũng có thể là người làm thuê cho những doanh nghiệp, ông chủ khác.
Khi luận chứng về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin không những quan tâm đến chất lượng của giai cấp công nhân với tư cách giai cấp tự giác, mà còn rất chú trọng đến số lượng của nó với tư cách một lực lượng to lớn, đông đảo của xã hội. Mặc dù không ngừng phát triển, nhưng về số lượng giai cấp công nhân nước ta hiện nay chỉ chiếm tỷ lệ khá thấp trong dân cư, theo thống kê mới có trên 9,5 triệu người, chiếm 11% dân số và 20% lực lượng lao động xã hội(10). Phải chăng đây mới chỉ là số lượng công nhân đang trực tiếp đứng máy? Để nói về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, ngoài tiêu chí về nghề nghiệp, theo chúng tôi, cần phải căn cứ vào địa vị kinh tế - xã hội và sứ mệnh lịch sử của nó. Vì lẽ đó, ngoài những công nhân đang trực tiếp đứng máy, thì trong thành phần giai cấp công nhân Việt Nam còn có những bộ phận khác - những người đã nhận thức được tính tất yếu của sự vận động lịch sử và tự giác đứng vào hàng ngũ giai cấp công nhân, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phấn đấu vì mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Về vấn đề này, C.Mác đã từng cho rằng, “trong chừng mực hàng triệu gia đình sống trong điều kiện kinh tế làm cho lối sống của họ, lợi ích và trình độ giáo dục của họ tách riêng và đối lập với lối sống, lợi   ích và trình độ giáo dục của giai cấp khác, thì các gia đình ấy hợp thành một giai cấp. Trong chừng mực giữa những người tiểu nông chỉ có một mối liên hệ địa phương thôi, trong chừng mực sự giống nhau về lợi ích của họ không tạo nên giữa họ một tính chất cộng đồng nào, một mối liên hệ toàn quốc nào, hay một tổ chức chính trị nào - thì họ không hình thành một giai cấp. Bởi vì họ không có khả năng nhân danh mình đứng ra bảo vệ lợi ích của giai cấp mình”(11). Do đó, những ai gia nhập Đảng Cộng sản - tổ chức chính trị của giai cấp công nhân, thì tất yếu phải thuộc về giai cấp công nhân; bởi, theo Điều lệ của Đảng ta, “đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng...”(12). Vì vậy, tất cả công dân Việt Nam dù trước đó xuất thân từ thành phần xã hội nào, giai cấp nào, nếu đủ điều kiện theo quy định và tự nguyện gia nhập Đảng Cộng sản, thì cũng có nghĩa là họ gia nhập vào giai cấp công nhân, thừa nhận quan điểm, lập trường giai cấp công nhân, giác ngộ về lợi ích giai cấp công nhân và hoạt động để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.(11)
Tuy nhiên, hiện nay tùy theo điều kiện môi trường xã hội, lĩnh vực nghề nghiệp mà trình độ phát triển của các bộ phận thuộc giai cấp công nhân nước ta cũng không giống nhau. Sự khác nhau giữa các bộ phận công nhân ở các mặt cũng đồng thời là sự khác nhau về vai trò và ảnh hưởng của các bộ phận đó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong số đó, công nhân lao động trong khu vực nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, là đội ngũ nòng cốt của giai cấp công nhân Việt Nam. Bộ phận công nhân này được tổ chức chặt chẽ, giáo dục rèn luyện và trưởng thành trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nên nó có ý thức chính trị, ý thức giai cấp, ý thức tổ chức kỷ luật cao hơn so với các bộ phận công nhân còn lại. Vì vậy, xu hướng gia tăng số công nhân khu vực kinh tế ngoài nhà nước và sự giảm tương đối số công nhân khu vực nhà nước thời gian qua là sự phản ánh khách quan quy luật kinh tế thị trường trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ. Đây là sự biến đổi hợp quy luật, song nếu cứ để xu hướng đó tiếp tục kéo dài một cách tự phát thì đến một lúc nào đó, đội ngũ công nhân khu vực nhà nước sẽ chỉ là một bộ phận nhỏ trong giai cấp công nhân Việt Nam. Điều đó tất yếu sẽ ảnh hưởng đến vai trò nòng cốt của bộ phận công nhân khu vực nhà nước và tính chất của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến lúc đó, sự chủ đạo của kinh tế nhà nước cũng như vai trò then chốt của bộ phận công nhân khu vực nhà nước sẽ khó có thể giữ được. Do vậy, cần phải xây dựng giai cấp công nhân nước ta phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, trong đó cần chú ý đầu tư xây dựng đội ngũ công nhân khu vực nhà nước như một lực lượng nòng cốt. Cần phải tiếp tục củng cố và phát triển công nhân khu vực nhà nước, phát huy thế mạnh hiện có của nó để làm cơ sở, nòng cốt cho việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam. Có như vậy, chúng ta mới có thể phát huy vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã lựa chọn.
Trong việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam, cần chú ý phát triển cho đội ngũ công nhân trong các ngành nghề hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu khiến dội ngũ công nhân có trình độ học vấn, tay nghề cao và trẻ hóa đội sẽ ngày một tăng lên. Sự xuất hiện những ngành nghề mới, những phương tiện kỹ thuật, máy móc, công nghệ hiện đại đòi hỏi phải có đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp cao, đủ năng lực sử dụng, vận hành các thiết bị, công nghệ hiện đại. Do đó, việc tăng nhanh về số lượng với một cơ cấu tổ chức hợp lý và cơ chế hoạt động khoa học là điều kiện để giai cấp công nhân nước ta phát huy cao nhất sức mạnh và vị thế của mình. Giai cấp công nhân càng phát triển, thì phạm vi hoạt động càng mở rộng chứ không phải “thu hẹp” lại. Với bản chất của mình, dù ở thành phần kinh tế nào thì giai cấp công nhân cũng luôn đi tiên phong trong việc lãnh đạo, đẩy mạnh sản xuất, tham gia quản lý, đấu tranh chống các hiện tượng trái với lợi ích của giai cấp, của dân tộc, góp phần quyết định bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, cùng với quá trình đổi mới đất nước, cơ cấu giai cấp công nhân nước ta cũng có nhiều biến động to lớn. Sự biến động đó của giai cấp công nhân liên quan đến đường lối phát triển kinh tế với chính sách sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế trong mỗi giai đoạn của Đảng và Nhà nước, với chủ trương “mở cửa” và thiết lập quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học - kỹ thuật và lao động với các nước. Đồng thời, nó cũng phản ánh rất rõ diễn biến của nền công nghiệp non trẻ của nước ta trong những năm qua. Sự biến động về lượng của giai cấp công nhân nói chung và của từng bộ phận công nhân nói riêng phụ thuộc vào những nguyên nhân chủ quan và khách quan của từng giai đoạn. Xét đến cùng, sự biến động đó là do nguyên nhân kinh tế, do sự phát triển của nền kinh tế nước ta quy định.
 
*******************
(*) Thạc sĩ.  Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.29.
(2) Xem: Đặng Ngọc Tùng. Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước. Tạp chí Cộng sản, số 784, tháng 02 năm 2008, tr.24.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.232.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.25. phần 1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.668.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuyển tập, t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.558.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuyển tập, t.1. Sđd., tr.562.
(7) Văn Tạo. Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức và công nhân tri thức. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.55.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.22, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.613.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.22, tr.613-614.
(10) Xem: Đặng Ngọc Tùng. Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước. Tạp chí Cộng sản, số 784, tháng 02 năm 2008, tr.24.
(11) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.8. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.265.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.7.
http://vientriethoc.com.vn/?vientriet=articles_deltails&id=1390&cat=57&pcat=