GS.TS. Hoàng Chí Bảo*
LTS: Vừa qua, Đề tài KX.02.06/06-10 “Những vấn đề lý
luận cơ bản về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội hiện nay –
Vận dụng cho Việt Nam” thuộc Chương trình khoa học trọng điểm cấp Nhà
nước KX.02/06-10, do GS.TS Hoàng Chí Bảo làm Chủ nhiệm đã được Hội đồng
nghiệm thu cấp Nhà nước đánh giá cao và xếp loại xuất sắc. Chúng tôi xin
giới thiệu Bản kiến nghị khoa học của Ban Chủ nhiệm Đề tài.Từ kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước “Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội hiện nay - vận dụng cho Việt Nam” (Mã số KX.02.06/06-10), được tiến hành trong 30 tháng - Từ tháng 12/2007 đến tháng 5/2010, trong khuôn khổ của chương trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước KX.02/06-10 “Quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam”, Ban Chủ nhiệm đề tài xin kiến nghị với các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước những vấn đề chủ yếu sau đây:
1. Vấn đề thứ nhất
Nhận thức về xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Trong 25 năm đổi mới vừa qua, đổi mới tư duy ở nước ta đã đạt được một bước tiến rõ rệt và khá căn bản, từ các nhà lãnh đạo, quản lý các cấp, các cơ quan hoạch định chiến lược và chính sách đến giới trí thức sáng tạo và đông đảo dân chúng trong xã hội.
Đổi mới tư duy là thay đổi sự suy nghĩ, cách nghĩ, tầm nhìn về cuộc sống, về đời sống xã hội, về các mối quan hệ chi phối và quy định sự tồn tại và phát triển của cá nhân cũng như của cộng đồng.
Đó là sự thay đổi nhận thức, vượt qua những nhận thức cũ, hoặc sai lầm, hoặc hạn hẹp, phiến diện đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, từng bước vươn tới những nhận thức mới đúng đắn, hợp lý hơn, thích ứng với phát triển và tiến bộ mà thực tiễn đặt ra, thực tiễn đòi hỏi. Đó cũng là “làm mới” những tri thức, những hiểu biết vốn có. Đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức là tiền đề dẫn tới những hành động tự giác, tích cực và sáng tạo. Thay đổi cách nghĩ để mở rộng tầm nhìn và thay đổi cách làm, thay đổi cả cách sống, lối sống, thay đổi cách ứng xử, tổ chức cuộc sống và quản lý xã hội theo hướng mới, tốt hơn, tiến bộ hơn. Nhờ đó, trong đời sống xã hội diễn ra những đổi mới, vừa là hành động, vừa là phong trào, tạo thành lực lượng, định hình những nhân tố mới thúc đẩy phát triển. Đổi mới trở thành phương thức và động lực phát triển. Thực tiễn đổi mới chẳng những hối thúc mà còn tạo ra môi trường, điều kiện và hoàn cảnh để đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức và phát triển năng lực trí tuệ con người, “làm mới” lý luận cũng như hình thành lý luận mới. Điều này đặc biệt hữu ích và quan trọng đối với các chủ thể lãnh đạo, quản lý.
Giải phóng lực lượng sản xuất và giải phóng ý thức xã hội để phát triển mạnh mẽ và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng của xã hội vì mục đích phục vụ cuộc sống con người, phát triển đất nước, chấn hưng dân tộc là tư tưởng chủ đạo, thể hiện tầm vóc và ý nghĩa của đổi mới, là thành tựu nổi bật, có tầm khái quát rộng lớn nhất của đổi mới tư duy, nhận thức ở Việt Nam. Nó mở đường đi tới kinh tế thị trường, dân chủ hóa, mở cửa và hội nhập quốc tế như những quyết sách chiến lược của phát triển. Những nhận thức mới về xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội được hình thành dưới tác động của những nhân tố đó.
Trên lĩnh vực rộng lớn và phức tạp này, tư duy lý luận Việt Nam thời đổi mới đã dần dần định hình chín điểm mới sau đây:
Một, nhận ra phương diện xã hội trong xã hội tổng thể, đó là các vấn đề xã hội, các quan hệ xã hội và cơ cấu xã hội trong chỉnh thể cấu thành xã hội, liên quan trực tiếp đến đời sống con người.
Hai, phát triển xã hội tổng thể sẽ không thể thực hiện được nếu không quan tâm đúng mức, giải quyết kịp thời và hữu hiệu chiều cạnh xã hội bao gồm một tập hợp lớn các vấn đề xã hội bức xúc, thường nhật cũng như cơ bản, lâu dài của tồn tại người và phát triển người, đặt trong mối liên hệ không tách rời với các chiều cạnh (lĩnh vực) khác: kinh tế, chính trị, văn hóa.
Ba, phát triển xã hội phải định hướng mục tiêu và động lực vào phát triển con người ở mọi cấp độ: cá nhân - cá thể, tập thể - cộng đồng (các nhóm nhỏ và nhóm lớn) và xã hội (dân tộc, quốc gia - dân tộc, cộng đồng dân tộc trong nước và ngoài nước).
Bốn, phát triển xã hội đòi hỏi phải thống nhất kinh tế với xã hội, kinh tế với chính trị, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, với hệ thống các chính sách và mạng lưới an sinh xã hội; đầu tư cho xã hội, cho việc giải quyết các vấn đề xã hội là đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cho phát triển mà sâu xa là phát triển con người, thành phần quan trọng và quyết định nhất của vốn xã hội trong phát triển.
Năm, quản lý phát triển xã hội đòi hỏi chủ thể lãnh đạo (Đảng) và quản lý (Nhà nước) phải có tầm nhìn chiến lược và chương trình hành động chủ động, tích cực, sáng tạo, kết hợp đồng bộ các công cụ quản lý từ thể chế đến chính sách, cơ chế và chế tài, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đảm bảo các điều kiện của ổn định, phát triển và phát triển bền vững.
Sáu, cấu trúc lại mô hình tăng trưởng kinh tế, phát triển chính trị và phát triển văn hóa với vai trò tạo động lực cho phát triển xã hội, gồm: chuyển từ mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn tài chính sang tăng trưởng dựa vào vốn phi tài chính, đặc biệt là vốn con người; từ xem đầu tư phát triển xã hội với tư cách đầu tư cho phúc lợi xã hội sang đầu tư cho phát triển xã hội với tư cách đầu tư cho phát triển vốn xã hội, vốn con người; từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu; cải cách thể chế bầu cử nhằm buộc ứng viên cam kết khi ứng cử và chịu trách nhiệm xã hội khi ứng cử.
Bảy, hoàn thiện chức năng xã hội của Nhà nước bằng việc xây dựng mô hình nhà nước dịch vụ công thông qua đổi mới chính sách phát triển dịch vụ, cơ chế chi trả phí dịch vụ và tổ chức cung ứng dịch vụ; tháo gỡ các rào cản tâm lý cản trở đổi mới quản lý phát triển xã hội.
Tám, vận dụng hợp lý các quy luật của thị trường vào quản lý phát triển xã hội, đặc biệt là tăng sự cạnh tranh trong khu vực công và giữa khu vực công với khu vực tư trong cung ứng dịch vụ phát triển xã hội.
Chín, mở rộng vai trò của các loại hình tổ chức vô vị lợi (gồm cả pháp nhân và thể nhân dân sự) trong phát triển xã hội bằng cơ chế, chính sách đặc biệt nhằm khắc phục các giới hạn của Nhà nước và thị trường đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
Từ chín điểm đó về đổi mới lý luận phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội có thể rút ra mấy nhận xét cốt yếu sau:
- Tính hiện thực và hiệu quả của quản lý phát triển xã hội phải dựa trên những đảm bảo nguồn lực vật chất do tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo ra và quy định.
- Tính nhân văn và hiệu ứng tích cực của quản lý phát triển xã hội đòi hỏi phải thực hiện nhất quán nguyên tắc công bằng, bình đẳng xã hội đối với con người, với các cộng đồng người trong cơ cấu xã hội, thể hiện qua các chính sách, các giải pháp phát triển, lấy con người làm trung tâm, lấy chất lượng cuộc sống và triển vọng phát triển con người làm mục đích và mục tiêu.
- Tính dân chủ và pháp quyền của quản lý phát triển xã hội đòi hỏi phải đề cao vai trò của pháp luật và chính sách trong quản lý, thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước, không chỉ là chức năng cai quản mà ngày càng phải hướng nhiều hơn, mở rộng hơn tới chức năng phục vụ, dịch vụ xã hội. Nhân dân là chủ thể quyền lực xã hội, ủy quyền cho Nhà nước để Nhà nước thực hiện quyền lực nhân dân, bảo vệ dân và phục vụ dân, trong sự kiểm tra, giám sát của dân. Nhà nước pháp quyền của dân cho nên Nhà nước đó phải là Nhà nước pháp quyền dân chủ và nhân văn, do dân lập ra và vì dân mà tồn tại. Quản lý phát triển xã hội của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường càng phải đặc biệt chú trọng đề cao luật pháp và đạo đức để công chức nhà nước thi hành công vụ vì dân, cũng như thông qua các tổ chức dân sự trong xã hội dân sự mà chủ động tổ chức các hoạt động phục vụ phát triển cộng đồng, giảm thiểu những gánh nặng không cần thiết cho Nhà nước của mình. Kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và Xã hội dân sự là một hệ thống chỉnh thể đem lại hiệu quả tốt nhất cho việc phục vụ cuộc sống của các công dân, phát huy được tiềm năng, phát triển các tiềm lực của dân để phục vụ dân và phát triển dân, từ dân sinh đến dân trí, dân quyền và dân chủ.
- Tính bền vững và triển vọng của quản lý phát triển xã hội trong xã hội đang đổi mới và hiện đại hóa đòi hỏi phải có một nhà nước mạnh, không chỉ mạnh về luật pháp, các thể chế và thiết chế mà còn phải mạnh bởi trình độ thành thạo trong quản lý, điều hành, bởi tính trong sạch đạo đức của bộ máy và đội ngũ công chức cùng với khả năng thực tế trong hoạt động tham chính của người dân, đề cao tinh thần hợp tác và cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội.
- Độ an toàn của phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội đòi hỏi Nhà nước, xã hội và mọi người dân phải thường trực chăm lo cho sự an toàn của môi trường, trước hết là môi trường tự nhiên, “cái thân thể vô cơ” của con người và sự sống. Môi trường xã hội - nhân văn, đặc biệt là đạo đức phải lành mạnh, phát triển ngày càng nhiều những nhân tính để tránh cho con người và xã hội khỏi những tổn thương do chính mình gây ra.
Tổng hợp những cái đó, tạo thành tầm nhìn, nhãn quan văn hóa trong quản lý phát triển xã hội. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh không chỉ là mục tiêu của đổi mới, của phát triển mà còn là tiêu chí đánh giá, thước đo xem xét hiệu quả quản lý phát triển xã hội.
Với nhận thức đó, lấy đó làm hệ quy chiếu, có thể nhận rõ những yếu kém, hạn chế, bất cập trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay với thất nghiệp và thiếu việc làm, mức sống thấp của một bộ phận dân cư, phân hóa giàu - nghèo làm gia tăng bất công xã hội, tệ nạn và tiêu cực, môi trường ô nhiễm, giáo dục suy giảm chất lượng, đạo đức xã hội xuống cấp, các dịch vụ y tế và chăm lo sức khỏe cộng đồng còn nhiều khiếm khuyết, tham nhũng và lãng phí còn rất nặng nề, gây tổn hại tới lợi ích của người dân và tiềm ẩn những mất ổn định và xung đột xã hội đang ngày một gia tăng.
Do đó, từ góc độ giáo dục nhận thức và nâng cao vai trò, trách nhiệm quản lý phát triển xã hội của Nhà nước, Ban Chủ nhiệm đề tài kiến nghị:
(1)- Đánh giá nghiêm túc, khách quan trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật về tình trạng bất tương thích giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội trong 25 năm đổi mới vừa qua. Làm rõ những hệ quả và hệ lụy của kinh tế thị trường, những yếu kém và cả những sai lầm trong quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, của các cấp, các ngành gắn với trách nhiệm của các chủ thể có trọng trách và thẩm quyền trong việc giải quyết để từ đó, có nhận thức đúng tầm hơn về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội trong thời kỳ tới (5 năm, 10 năm của nhiệm kỳ Đại hội XI và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội).
(2) - Giáo dục sâu rộng trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và công chức các cấp về các vấn đề xã hội, chính sách xã hội, an sinh xã hội và quản lý phat triển xã hội. Đó không chỉ là giáo dục nhận thức mà còn phải giáo dục và thực hành về trách nhiệm và chế độ trách nhiệm đối với người dân, từ việc làm, đời sống, học tập, sức khỏe, nhu cầu văn hóa tinh thần, đảm bảo an toàn cuộc sống của người dân, nhất là ở cơ sở, ở nông thôn, ở những vùng xung yếu đặc biệt khó khăn. Tận dụng các phương tiện thông tin đại chúng và hướng dẫn dư luận xã hội để nâng cao nhận thức từ phía người dân, làm cho người dân coi trọng hơn phương diện xã hội trong phát triển.
(3) - Phải đặc biệt chú trọng thường xuyên yêu cầu giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức và lối sống trong cán bộ đảng viên, công chức, trong các đối tượng dân cư, nhất là thế hệ trẻ về các vấn đề xã hội, chú trọng giáo dục và thực hành trách nhiệm trong lao động, bảo vệ môi trường, quan tâm tới các đối tượng yếu thế, thiệt thòi và rủi ro.
(4) - Tăng cường kiểm soát Nhà nước trong việc thực hiện các chính sách điều tiết để đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo sự thụ hưởng chính đáng của người dân những phúc lợi xã hội mà Nhà nước và cộng đồng đầu tư và hỗ trợ phát triển.
2. Vấn đề thứ hai
Việc làm và đời sống của dân cư, đảm bảo việc làm ổn định, hữu dụng; đảm bảo toàn dụng lao động; tiền lương, tiền công, tiền thưởng phải đảm bảo công bằng, hợp lý, có ý nghĩa và tác dụng thúc đẩy tính tích cực của người lao động thực sự là động lực phát triển kinh tế và góp phần lành mạnh hóa các quan hệ xã hội.
Đây là những vấn đề bức xúc, là mối quan tâm trực tiếp nhất của người dân, do đó cũng phải trở thành mối quan tâm thường trực của Đảng và Nhà nước trong quản lý phát triển xã hội. Để đảm bảo bình ổn xã hội và giữ vững được niềm tin của dân chúng đối với chế độ, mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phải làm thỏa mãn nhu cầu, lợi ích thiết thân, hàng ngày của người dân, làm cho dân có việc làm ổn định, đời sống ngày một cải thiện, được yên ổn và an toàn trong làm ăn, sinh sống, được công bằng trong hưởng thụ lợi ích, trong các cơ hội phát triển, được phát huy mọi khả năng, nhờ đó người dân cảm nhận được tính triển vọng của cuộc sống. Lẽ dĩ nhiên, đây là cả một quá trình phấn đấu lâu dài. Kết hợp từ hai phía - Nhà nước và nhân dân, Nhà nước và xã hội. Những nỗ lực và cộng đồng trách nhiệm đó phải tạo ra những chuyển biến tích cực trong mỗi lĩnh vực hoạt động, mỗi công việc quản lý, ở mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi vùng, miền, địa phương và cơ sở. Nhìn từ phía người dân, sức thuyết phục xã hội phải bằng việc làm và kết quả hành động chứ không phải dừng lại ở ban hành nghị quyết, chính sách, những lời tuyên bố và hứa hẹn. Cần làm sống động trong thực tiễn những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh: chúng ta phải làm ngay, làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có nhà ở, được học hành, được chữa bệnh, được tự do đi lại, được hưởng quyền dân chủ mà họ xứng đáng được hưởng… Dân chỉ biết đến giá trị của độc lập tự do khi dân được ăn no, mặc ấm. Dân đói rét, Đảng và Chính phủ có lỗi, dân đau ốm, bệnh tật, nghèo nàn, lam lũ, thất học, Đảng, Chính phủ có lỗi… Dân có quyền làm chủ thì dân cũng phải có nghĩa vụ của người chủ. Đó là những tư tưởng cô đọng, thiết thực mà sâu sắc của Hồ Chí Minh về quản lý phát triển xã hội rất đáng phải thực hành trong cuộc sống hôm nay. Do đó, Ban chủ nhiệm đề tài xin kiến nghị:
(5) - Thực hiện nhất quán chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế, đóng góp lớn cho tổng thu nhập của xã hội và tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Có chính sách và luật pháp, tạo môi trường pháp lý và xã hội thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, cho dân doanh có một vị trí xứng đáng trong khi vẫn củng cố, phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để thực sự là chủ đạo và làm nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
(6) - Đầu tư mạnh, quản lý nguồn vốn đầu tư vào việc thực hiện chiến lược và chương trình quốc gia về dạy nghề, đào tạo nghề cho người lao động, đặc biệt là nông dân, nhất là nông dân không có đất sản xuất, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Không phát triển lĩnh vực dạy nghề, đào tạo nghề thì không thể thực hiện được đột phá về chất lượng nguồn nhân lực, cũng không thể giảm thiểu thất nghiệp tới ngưỡng an toàn, không thể xóa đói giảm nghèo bền vững. Do đó phải đa dạng hóa các hình thức, phương thức tạo việc làm bằng phát triển kinh tế, sản xuất và dịch vụ.
(7) - Trên cơ sở chú trọng đào tạo nghề mà làm tăng quy mô, chất lượng và hiệu quả xuất khẩu lao động, vì lợi ích của người lao động và gia đình họ mà cũng vì lợi ích của quốc gia. Quản lý tốt việc đưa người lao động ra nước ngoài làm ăn, sinh sống, bảo đảm lợi ích, quyền lợi hợp pháp và an toàn cuộc sống của người đi xuất khẩu lao động bằng sự minh bạch hóa trong quản lý, bằng thể chế và chính sách cùng với những thỏa thuận trách nhiệm đối với các đối tác sử dụng lao động người Việt Nam tại các nước có quan hệ hợp tác lao động với Việt Nam.
(8) - Xây dựng và thực hiện phương án cải cách triệt để về tiền lương, chế độ tiền lương, tạo một chuyển biến có tính cách mạng về lương, khắc phục tính hình thức và những tàn dư bình quân chủ nghĩa trong những cải cách về lương từ bấy lâu nay. Chính sách tiền lương là một chính sách tổng hợp cả kinh tế - xã hội, đảm bảo cho lương là nguồn thu nhập chính yếu vừa kích thích lao động tận tâm, vừa phát triển được năng lực và tài năng, vừa nâng cao được đời sống của cán bộ, công nhân viên chức, vừa chống được tham nhũng và các tiêu cực khác.
3. Vấn đề thứ ba
Chấn hưng giáo dục, đảm bảo cho mọi người dân và con em họ có cơ hội tiếp cận, thụ hưởng quyền và lợi ích trong học tập, trong một xã hội học tập và tiến tới kinh tế tri thức. Phát triển y tế và chăm lo sức khỏe cộng đồng, nhất là đối với phụ nữ, trẻ em nghèo, các đối tượng yếu thế, thua thiệt trong phát triển.
Đây là những vấn đề xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định chất lượng nguồn nhân lực, nuôi dưỡng và bảo vệ tiềm năng phát triển của xã hội. Giải quyết những vấn đề rất bức xúc này sẽ góp phần tạo ra lực đẩy cho phát triển nhanh và bền vững, mặt khác là tăng sức thuyết phục về bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, về định hướng nhân văn của phát triển xã hội ở nước ta.
Tình trạng thương mại hóa giáo dục và y tế, sự yếu kém, bất cập, thậm chí có lúc buông lỏng trong quản lý nhà nước ở những lĩnh vực quan trọng này đã gây ra những hậu quả nặng nề, làm tổn hại tới lợi ích của người dân và làm tổn thương xã hội không chỉ về mặt đạo lý mà còn làm thiệt hại tới sản xuất, kinh tế. Giáo dục và y tế mà rơi vào suy thoái, biến dạng lệch lạc kéo dài thì sẽ làm yếu đi nhanh chóng nhân tố quan trọng nhất của vốn xã hội, đó là vốn người. Nó để lại những di chứng và hậu quả khôn lường cho phát triển xã hội.
Trên tinh thần đó, Ban chủ nhiệm đề tài kiến nghị:
(9) - Cụ thể hóa tư tưởng chiến lược coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu bằng một hệ chính sách, giải pháp để tổ chức lại hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông là tiền đề và điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục dạy nghề, giáo dục đại học. Đặt lên hàng đầu giáo dục đạo đức, nhất là đạo đức nhà giáo. Hiện đại hóa nội dung và phương pháp dạy và học để thúc đẩy phát triển năng lực trí tuệ sáng tạo, coi trọng giáo dục truyền thống, đề cao giáo dục dạy nghề và phân luồng học sinh theo yêu cầu mở rộng hệ thống trường nghề, đào tạo thợ lành nghề. Kiên trì giáo dục tuyên truyền để thay đổi tâm lý xã hội về định hướng giá trị, không phù phiếm hư danh khi các bậc cha mẹ và con em họ đổ xô vào đại học, cán bộ công chức chạy đua theo bằng cấp.
(10) - Có giải pháp, biện pháp mạnh để chấm dứt hội chứng đại học, lập lại trật tự trong quản lý giáo dục đại học, nhất là các trường ngoài công lập, tăng hiệu lực quản lý nhà nước trong khi thực hiện trao quyền tự chủ cho các trường đại học theo tinh thần luật giáo dục.
(11) - Bảo đảm giữ vững định hướng chính trị, định hướng xã hội trong giáo dục các cấp học, các ngành học, đặc biệt là giáo dục đại học. Tạo ra sự khởi sắc mới trong giáo dục sau đại học và trên đại học sao cho thực sự là đào tạo chuyên gia, đào tạo tinh hoa, làm chuyển biến đồng bộ trong xã hội về nhận thức: thực học để có thực lực và thực tài vì sự phát triển cá nhân và xã hội.
(12) - Ưu đãi đối với con em nhà nghèo mà học giỏi, có tài năng, cả về vật chất và tôn vinh tinh thần. Tính toán hợp lý về mức thu học phí và các khoản đóng góp sao cho không gây ra tình trạng bỏ học, thất học vì học phí, không gạt người nghèo ra khỏi cơ hội tiếp cận giáo dục.
(13)- Đảm bảo chăm sóc sức khỏe cộng đồng, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, nhất là chăm sóc bà mẹ và trẻ em. Đảm bảo yêu cầu về số lượng, chất lượng thầy thuốc (bác sỹ), bệnh xá, phòng khám trong hệ thống y tế cơ sở, đặc biệt là nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi đặc biệt khó khăn.
Điều chỉnh mức thu viện phí sao cho không gây ra áp lực không thể vượt qua đối với người dân nghèo.
(14) - Quản lý nghiêm ngặt giá thuốc, giá sữa và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, nguồn nước, phòng dịch bệnh cho người và gia súc.
(15) - Giáo dục và thực hành y đức trong ngành y tế. Đây không chỉ là vấn đề đạo đức, lương tâm nghề nghiệp mà còn là trọng trách xã hội, trách nhiệm xã hội của đội ngũ thầy thuốc và cán bộ y tế đối với con người và xã hội.
4. Vấn đề thứ tư
Tình trạng bạo lực và bạo hành trong đời sống gia đình và xã hội, đối với phụ nữ và trẻ em; Tình trạng tai nạn lao động và tai nạn giao thông cùng với môi trường sống bị ô nhiễm làm cho độ an toàn cuộc sống bị suy giảm, bị đe dọa, cần phải được xử lý theo luật định của Nhà nước và sức mạnh phê phán của toàn xã hội, sự cộng đồng trách nhiệm trong giáo dục, phòng ngừa từ gia đình, nhà trường, cơ quan, công sở và cộng đồng dân cư đến sự phối hợp hành động của cả hệ thống chính trị.
Đây là vấn đề nhức nhối rất đáng lo ngại cần phải được xử lý bằng nhiều giải pháp, biện pháp để đảm bảo sự bình yên cuộc sống cho người dân, trong mỗi gia đình và toàn xã hội.
Tổng hợp đồng bộ các giải pháp, biện pháp này là kinh tế - chính trị - luật pháp - đạo đức. Ban Chủ nhiệm đề tài kiến nghị:
(16) - Xây dựng chiến lược về gia đình mà cốt lõi là quan hệ đạo đức trong gia đình, coi trọng ở hàng đầu chức năng giáo dục, chú trọng phát huy các giá trị đạo đức truyền thống mà bấy lâu nay, từ khi đi vào kinh tế thị trường ta đã xem nhẹ. Tạo ra sức mạnh của luồng dư luận xã hội tích cực để phê phán, lên án những hành vi trái đạo đức, phi nhân tính trong đối xử, ngược đãi, hành hạ phụ nữ và trẻ em. Xử lý nghiêm khắc theo luật pháp đối với những kẻ gây ra những hậu quả đau lòng đó.
(17) - Quy định cụ thể về nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của các chủ lao động thuê mướn lao động trẻ em, đảm bảo cho trẻ vị thành niên được chăm sóc, bảo vệ, được nuôi dưỡng và học hành để phát triển nhân cách lành mạnh.
(18) - Quy định trách nhiệm, nghĩa vụ đối với các tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở cơ sở - nơi thường xảy ra những vụ, việc hành hạ, bạo lực, bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em. Xử lý theo trách nhiệm của tổ chức và người đứng đầu về việc để xảy ra những tình trạng đó, do thiếu trách nhiệm và có thái độ vô cảm trước cuộc sống và những bất hạnh của những người bị hại.
(19) - Đầu tư của nhà nước và huy động các nguồn lực của xã hội, của các tổ chức kinh tế để cải thiện đáng kể tình trạng giao thông như hiện nay, xây dựng kết cấu hạ tầng, tăng cường các phương tiện giao thông công cộng, cải thiện điều kiện lao động tại các khu công nghiệp, các doanh nghiệp, công ty, tập đoàn, đảm bảo an toàn lao động nơi làm việc. Quy định chế độ trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp trong việc bồi thường thiệt hại cho công nhân và lao động bị tai nạn.
(20) - Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền về pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật, về kỷ luật an toàn lao động trong nhân dân, trong các tập thể lao động.
(21) - Giáo dục về ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường và xử lý theo luật pháp những hành vi phá hoại môi trường, gây thiệt hại cho sản xuất và làm ô nhiễm môi trường sống của dân cư.
5. Vấn đề thứ năm
Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta trong tiến trình Đổi mới; Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đào tạo chuyên gia có trình độ cao và có chuyên môn sâu về quản lý phát triển xã hội, tạo điều kiện để phát triển mạnh mẽ khoa học quản lý xã hội trong một, hai thập kỷ tới, phục vụ có hiệu quả các chiến lược và chương trình quốc gia theo mục tiêu phát triển bền vững.
Thực tiễn và kinh nghiệm phát triển ở các nước tiên tiến cho thấy, khoa học quản lý phát triển xã họi ngày càng có tầm quan trọng to lớn, có vị trí nổi bật trong đời sống xã hội, trong sự phát triển các tri thức khoa học xã hội - nhân văn. Nhà nước là giường cột của hệ thống chính trị, xu hướng mở rộng chức năng xã hội của nhà nước, tăng cường dịch vụ công để nhà nước làm tốt hơn chức năng phục vụ xã hội càng đòi hỏi phải nhanh chóng phát triển tiềm lực khoa học quản lý các quá trình phát triển xã hội. Đây lại là lĩnh vực khoa học còn rất non trẻ ở nước ta. Trải qua hơn 20 năm, kể từ khi có các chương trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước nghiên cứu về khoa học xã hội - nhân văn và lý luận, đây là lần đầu tiên, ở nước ta có một chương trình khoa học - công nghệ trọng điểm nghiên cứu về quản lý phát triển xã hội (KX.02/06-10).
Những kết quả và thành tựu nghiên cứu mới là bước đầu, còn rất khiêm tốn Hàng loạt vấn đề lý thuyết và phương pháp nghiên cứu, các tình huống thực tiễn đang đặt ra đòi hỏi phải được nghiên cứu cơ bản, hệ thống và định hướng vào ứng dụng. Nhiều nghịch lý, mâu thuẫn, xung đột xã hội trong phát triển phải được hình dung, dự báo, phải từ kết quả nghiên cứu mà cung cấp các luận cứ khoa học giúp cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách phát triển, đào tạo đội ngũ chuyên gia về khoa học quản lý.
Đáp ứng yêu cầu đó, Ban Chủ nhiệm đề tài kiến nghị:
(22) - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của chương trình KX.02/06-10, nhà nước (Bộ Khoa học & Công nghệ) nên tiếp tục đầu tư trọng điểm cho chương trình nghiên cứu cấp quốc gia về Quản lý phát triển xã hội trong 5 năm tới (2011 - 2015) để tiếp tục mở rộng, hoàn thiện lý thuyết và phương pháp nghiên cứu phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Chủ động đề xuất với Trung ương đề án tổng kết thực tiễn 30 năm Đổi mới ở nước ta từ góc độ phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội.
(23) - Lựa chọn tổ chức và cá nhân, nhất là tập hợp được nhóm chuyên gia nòng cốt để đi sâu nghiên cứu về quản lý phát triển xã hội trong những tình huống bất thường, xác lập mô hình, phương thức, giải pháp phát triển xã hội thích hợp với Việt Nam, nhất là trong bước chuyển từ xã họi truyền thống sang xã hội hiện đại, từ phát triển tuyến tính, đơn trị trước Đổi mới sang phát triển hội nhập trong Đổi mới.
(24) - Đào tạo chuyên gia về quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội nông thôn, về công tác xã hội và tổ chức đời sống cộng đồng vốn rất cần thiết nhưng đang rất thiếu và yếu ở nước ta.
(25) - Xây dựng triết lý phát triển xã hội của Việt Nam mà nền tảng lý luận là Triết học - Triết lý - Minh triết Hồ Chí Minh, có sự kế thừa tinh hoa tư tưởng của dân tộc và nhân loại.
(26) - Xây dựng đề án, luận chứng khoa học và tờ trình gửi tới các cơ quan Trung Ương của Đảng và Nhà nước để sớm thành lập một Viện Nghiên cứu quốc gia về Quản lý và phát triển xã hội (trực thuộc Chính phủ) nhằm triển khai các nghiên cứu cơ bản và ứng dụng về phát triển xã hội, tạo chuyển biến về chất lượng hoạch định chính sách và hiệu quả thực hiện chính sách, giải quyết thấu đáo các mối quan hệ giữa chính sách kinh tế, chính sách chính trị với chính sách xã hội, giữa chính sách xã hội với chính sách an sinh xã hội.
Nghiên cứu cơ bản và hệ thống về vai trò của nhân tố văn hóa trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, tạo dựng cơ sở để hình thành văn hóa quản lý ở Việt Nam. Mở rộng quan hệ hợp tác nghiên cứu với các nước, thu hút các chuyên gia, học giả nổi tiếng từ nước ngoài vào các chương trình nghiên cứu và ứng dụng ở Việt Nam, đồng thời đưa các chuyên gia, học giả của nước ta đi nghiên cứu, khảo sát tại nước ngoài, sớm đạt được trình độ khoa học của quốc tế trong tiến trình hội nhập.
Trên đây là kiến nghị của Ban chủ nhiệm đề tài về 5 nhóm vấn đề với 26 kiến nghị cụ thể thuộc 5 nhóm vấn đề đặt ra.
Bản kiến nghị này chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản và bức xúc nhất, không bao quát toàn bộ các vấn đề xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của chương trình nghiên cứu tổng thể. Rất mong các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước đánh giá, thẩm định.
---------------
Chú thích:
* Chuyên gia cao cấp, Uỷ viên Hội đồng Lý luận
Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Tư vấn Viện Khoa học nghiên cứu
nhân tài - nhân lực.
http://nhantainhanluc.com/vn/661/4086/contents.aspx