ThS. Nguyễn Cẩm Ngọc*
Chính
sách thân dân có từ thời Lý - Trần (1009 - 1400). Đó là tư tưởng truyền thống
của những nhà lãnh đạo nhà nước và quân đội thời bấy giờ, khi chính quyền còn
có vai trò lịch sử tích cực trong việc tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ đất nước. Mặc dù tư tưởng thân dân thời kỳ này còn bị hạn chế bởi nhận
thức của cá nhân người cầm quyền, của điều kiện lịch sử và ý thức hệ phong
kiến, song nó đã góp phần tạo nên mô hình nhà nước quân chủ thân dân thời Lý –
Trần - một trong ba mô hình nhà nước quân chủ tiêu biểu trong lịch sử trung đại
Việt Nam.
Vậy căn
cứ vào những luận điểm nào để khẳng định nhà nước Lý – Trần là nhà nước quân
chủ thân dân? Đó là nội dung chủ yếu mà chúng tôi muốn làm sáng tỏ trong khuôn
khổ bài viết nhỏ này.
Thứ nhất
, trên bình diện tư tưởng, triết lý thân dân là một dòng chảy liên tục và
có hệ thống trong tư tưởng chính trị thời Lý – Trần. Chúng ta biết rằng, ở
Đại Việt thời Lý, tư tưởng dân bản, thân dân được thể hiện khá đâm nét trong
đời sống xã hội. Trong hoàn cảnh mà sự phân tầng xã hội còn khá mờ nhạt, các
vua Lý đều nói tới người dân qua những cách diễn đạt khác nhau như “thuận lòng
dân” (Lý Thái Tổ), “yêu dân như con” (Lý Thánh Tông). Quan hệ vua quan – thần
dân còn khá gần gũi. Sử sách ghi lại rằng năm 1012, vua Lý Thái Tổ cho xây cung
Long Đức ở ngoài thành cho Hoàng thái tử Khai Thiên Vương Phật Mã ở, “ý cho
thái tử hiểu hết mọi việc của dân”. Nhà vua cũng thi hành chính sách thân dân:
năm 1013 định lại các lệ thuế, từ thuế ruộng đất ao hồ đến thuế bãi dâu, các
thuế sản vật …và nhiều năm xá thuế cho nhân dân, được chính sử đánh giá là
“khoan thứ nhân từ, tử tế, hòa nhã, có lượng đế vương”. Năm 1040, vua Lý Thái
Tông dạy cung nữ dệt gấm vóc, cho công chúa cùng cung nữ trồng dâu, nuôi tằm,
dệt lụa. Dân chúng kinh thành Thăng Long trong những ngày hội (như hội đền
Quảng Chiếu) đã được vào tận Đoan Môn của Cấm Thành tham dự; họ cũng được phép
tới thềm điện Long Trì đánh chuông kêu cầu oan ức. Vào dịp đầu năm, vua Lý Anh
Tông đã ra tận ruộng để cày ruộng tịch điền cùng với nhân dân. Trong bài Lộ bố văn khi chinh phạt Tống, Lý Thường
Kiệt đã trịnh trọng tuyên bố một nguyên tắc dân bản: “Trời sinh ra dân chúng,
vua hiền ắt hòa mục, đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân”. Còn thiền tăng Viên Thông
thì nêu lên nội dung cụ thể của quan điểm thân dân là: “Muốn yên dân thì phải
tôn trọng những người dưới”. Như vậy, ngay từ thời Lý, việc chăm lo đời sống
nhân dân, quan tâm đến nguyện vọng của nhân dân đã được xem là công việc hệ
trọng nhất của việc trị nước.
Trong
thời Trần, dòng tư tưởng thân dân, trọng dân vẫn được tiếp tục. Các vua đều tự
coi mình cha mẹ của dân, thi hành một chính sách thân dân kiểu gia trưởng. Vua
Trần Thái Tông khi đang đêm bỏ kinh thành lên núi Yên Tử xuất gia tu hành đã
khẳng định: “Trẫm muốn ra ngoài chơi để được nghe tiếng nói của dân, xem xét
lòng dân, cho biết tình trạng khó khăn của dân”. Điều này nói lên rằng, các vua
thời Trần đã có những quan hệ khá gần gũi với dân chúng, chứ không chỉ ngồi yên
vị ở ngai vàng như những triều đại sau này. Sử cũ chép rằng, các vua thường
xuyên đi xuống các làng mạc địa phương thăm hỏi việc đắp đê, gặt lúa, đánh cá,
dự các lễ hội đấu vật, đua thuyền hoặc du hành đi chơi phố. Một sự kiện để lại
dấu ấn đậm nét của tinh thần thân dân là việc Thượng hoàng Trần Thánh Tông mời
các bô lão trong nước đến dự Hội nghị Diên Hồng, hỏi ý kiến về việc đánh giặc
Nguyên Mông. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hoài Vănthì
đây thực sự là một “quốc dân đại hội”1 của Đại Việt thời trung đại.
Mặt
khác, trong thời kỳ này, nhân dân được xem như là cơ sở để tiến hành những cuộc
chiến tranh bảo vệ độc lập. Bởi vậy, Trần Hưng Đạo cho rằng phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ,
coi đó là thượng sách để giữ nước. Điều này có ý nghĩa biểu thị sự quan tâm
của nhà nước đối với sản xuất và đời sống của nhân dân để xây dựng một nền thái
bình thịnh trị lâu dài.
Sự hiện
diện một cách rõ rệt và có hệ thống của triết lý thân dân trong lĩnh vực tư
tưởng của giai cấp cầm quyền chính là cơ sở để nhà nước Lý - Trần tiến hành
hàng loạt các chính sách nhằm hiện thực hóa triết lý đó trong đời sống xã hội,
mang lại sức mạnh to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thứ
hai,
Phật giáo là một cơ sở quan trọng cấu thành mô hình nhà
nước quân chủ thân dân nói chung, thời Lý - Trần nói riêng.
Nhà nước quân chủ
Việt Nam
lúc mới ra đời là một nhà nước cai trị bằng bạo lực. Nhưng nếu chỉ có quân sự
và bạo lực thì sẽ không thu phục được lòng dân, bị nhân dân oán thán. Bởi vậy,
các vị vua Lý, Trần đã tìm đến Phật giáo để thiết lập một thế cân bằng mới có
lợi cho việc cai trị của mình. Chúng ta biết rằng lịch sử tư tưởng Việt Nam đã ghi nhận
sự tồn tại lâu dài của hiện tượng “tam giáo đồng nguyên”. Trong thời Lý - Trần,
“tam giáo đồng nguyên” là sự cùng tồn tại hòa bình và ảnh hưởng lẫn nhau (bổ
sung cho nhau và đấu tranh với nhau) của ba tôn giáo Phật, Đạo, Nho. Mặc dù
cuối thời Trần, Nho giáo đã thắng thế nhưng trong suốt 4 thế kỷ trị vì của hai
triều đại này, Phật giáo luôn là tôn giáo chiếm vị trí độc tôn. Với tư cách là
“quốc giáo”, Phật giáo đã có vai trò quan trọng và có ảnh hưởng chi phối đến tư
tưởng chính trị của các vua thời Lý và nửa đầu thời Trần. Đặc biệt, vua Lý Thái
Tổ - vị vua sáng lập ra vương triều Lý - vốn xuất thân từ Phật giáo và nhờ thế
lực của Phật giáo mà lên ngôi vua nên rất tôn sùng đạo Phật và lấy tôn giáo này
làm chỗ dựa tinh thần cho vương triều. Vai trò của Phật giáo trong nhà nước
quân chủ thân dân thể hiện ở các khía cạnh sau:
* Tạo ra sự cân bằng tư tưởng trong xã hội:
Xét một
cách khái quát, cả ba tôn giáo Phật, Đạo, Nho đều mang tính chất nhân văn, lấy
việc giải thoát con người, đem lại hạnh phúc cho con người là mục đích cuối
cùng. Phật giáo còn nhấn mạnh tư tưởng nhân từ bác ái và tinh thần “hiếu sinh”
(tôn trọng cuộc sống). Trong thời đại mà Phật giáo phát triển thịnh đạt nhất
trong xã hội, các triều đại Lý - Trần đều thấm nhuần dòng tư tưởng chủ đạo trên
và áp dụng vào thực tiễn trị nước mà cụ thể là chính sách thân dân và tư tưởng
nhân văn khai phóng. Theo đó, chủ trương của nhà nước không nên can thiệp, hoặc
can thiệp càng ít càng tốt vào cuộc sống tự tại của người dân, để họ tự lo liệu
giải quyết. Bởi vậy, đã tạo nên dòng gắn
kết, sự cân bằng giữa thói ứng xử bạo lực của nhà nước quân chủ với tư tưởng
dân chủ của làng xã. Có thể khẳng định rằng Phật giáo chính là nhịp cầu tâm
linh tin cậy nối nhà nước với làng xã, với dân chúng, giúp an dân, xây dựng cục
diện thái bình trong xã hội.
* Tạo ra một trung tâm về giáo dục ngay tại
các nhà chùa Phật giáo:
Kể từ
khi bước vào kỷ nguyên độc lập, những người trí thức đầu tiên chính là tầng lớp
sư sãi. Họ không dừng lại ở cương vị là người tu hành thoát tục, mà còn tham
gia cả vào những hoạt động nội trị và ngoại giao, trong đó có hoạt động giáo
dục. Mặc dù đến thời Lý, nền giáo dục Nho học đã xuất hiện trên đất nước ta
nhưng các trường học Nho giáo chưa đóng vai trò quan trọng mà nhà chùa mới là
nơi dạy học, truyền bá văn hóa và đào tạo tầng lớp trí thức. Cùng với việc các
vua Lý, Trần và những quý tộc, quan chức cao cấp khác bỏ tiền của xây dựng chùa
chiền ở khắp nơi, nhà chùa đã “trở thành một thế lực kinh tế, chính trị, văn
hóa lớn trong xã hội”. Bởi vậy, tư tưởng Phật giáo lại càng có điều kiện lan
tỏa và thấm sâu vào đời sống, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa với hình tượng Bồ
Tát - một hình tượng của từ bi, hỉ xả để cho quần chúng cầu được ước thấy và
thỏa nguyện những khát vọng về mặt tinh thần. Phật giáo thời Lý - Trần đã phát
triển mạnh mẽ trong sự gắn bó với lợi ích của người dân và có khi là với vận
mạng của dân tộc.
* Tạo ra truyền thống tôn giáo tham gia vào
chính sự:
Trong
mô hình nhà nước quân chủ thân dân Lý - Trần, việc cai trị không thực sự chuyên
nghiệp như mô hình nhà nước quân chủ quan liêu sau này. Điều này thể hiện ở
việc dùng sư sãi, tôn thất nắm chính quyền, đào tạo quan lại cai trị không bài
bản. Đặc biệt là ở việc dùng sư sãi trong bộ máy cai trị. Ở thời Lý – Trần,
tầng lớp trí thức là sư sãi giữ vị trí quan trọng trong công cuộc dựng nước và
giữ nước với vai trò là cố vấn chính trị cao cấp của nhà vua, là chính trị gia
bên cạnh các tướng lĩnh của triều đình. Sư Vạn Hạnh có vai trò to lớn trong
việc thành lập vương triều Lý; sư Đà Bảo được Lý Thái Tổ mời đến kinh đô tham
gia chính sự. Những nhà sư có tài năng và uy tín lớn như sư Viên Thông, sư
Thông Biện còn được phong làm quốc sư, có đóng góp lớn cho sự phát triển của
đất nước.
Như
vậy, thời kỳ quân chủ Việt Nam
lúc mới bắt đầu tuy rất bạo lực nhưng đã có cơ sở để thân dân do sự xuất hiện
của yếu tố Phật giáo (chủ yếu là Phật giáo Đại thừa). Phật giáo đã có vai trò
quan trọng đối với nền chính trị quân chủ Lý - Trần, góp phần tạo nên một cục
diện thái bình thịnh trị trong mấy trăm năm tồn tại của hai triều đại này.
Tuy
nhiên, Phật giáo không bao giờ có thể dùng để điều hành một quốc gia cũng như
hoạch định các đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại, sắp đặt cấp bậc tôn ti
trật tự trong xã hội nên đến cuối đời Trần, Nho giáo đã thắng thế và trở thành
một ý thức hệ thống trị xã hội. Sự thắng thế của Nho giáo là một trong những
cột mốc đánh dấu sự ra đời của mô hình nhà nước quân chủ quan liêu, thay thế
cho mô hình nhà nước quân chủ thân dân lúc này đã chấm dứt sứ mệnh lịch sử của
mình trên vũ đài chính trị.
Thứ ba,
về
mặt tổ chức cai trị, tính chất thân dân của nhà nước Lý – Trần thể hiện ở chỗ
đã tìm ra một thế thỏa thuận giữa cộng đồng làng xã với nhà nước quân chủ.
Chúng
ta biết rằng trong lịch sử, làng Việt Nam luôn có xu hướng biến thành
cộng đồng tự trị, tự quản; còn nhà nước luôn có xu hướng can thiệp sâu vào làng.
Tuy nhiên, nhà nước Lý – Trần vẫn duy trì một thiết chế chính quyền tự trị, tự
quản trong các làng xã, ít có sự can thiệp của nhà nước (quyền lực của nhà nước
đến cổng làng, sau cổng làng là làng xã tự trị). Mối quan hệ làng - nước nhờ đó
được dung hòa.
Quan
điểm tự do chủ nghĩa chủ trương nhà nước can thiệp càng ít càng tốt vào đời
sống của dân chúng cũng được nhà nước Lý – Trần áp dụng vào lĩnh vực kinh tế.
Nhà Lý
tôn trọng quyền sở hữu ruộng đất của cộng đồng làng xã. Theo đó, nhà nước không
thu thuế theo từng hộ dân mà coi mỗi cộng đồng làng xã là một tập thể lớn (hoặc
nhỏ) để thu thuế lúa gạo theo hộ dân. Người được ban thái ấp sẽ thu thuế các
làng, rồi nộp một phần cho nhà nước nên họ thực sự là chủ của dân chứ không
phải là chủ ruộng đất. Dân chúng chủ yếu cày ruộng theo quy mô làng xã.
Nhà
Trần có chế độ thái ấp, điền trang là một hình thức sở hữu đặc biệt của tầng
lớp quý tộc quan liêu, có đặc quyền đặc lợi. Theo sử sách ghi lại thì thái ấp là ruộng do nhà vua ban cấp cho
các quý tộc và triều thần có công. Trên danh nghĩa, ruộng đất thái ấp thuộc
quyền sở hữu của nhà nước, triều đình có quyền lấy của người này ban cấp cho
người khác. Quý tộc có quyền sử dụng và hưởng hoa lợi về đất đai và một phần về
cư dân trên đó, như thu tô thuế, xây dựng phủ đệ, lập các đội quân vương hầu
gia đồng. Thời trần, có những thái ấp của Trần Liễu (Đông Triều, Quảng Ninh),
Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Bình Lục, Hà Nam), Trần Khát Chân ở Kẻ Mơ (Hà
Nội)… Do tính chất hạn chế về quyền chiếm dụng ruộng đất nên thái ấp không có
khả năng làm phát triển các yếu tố cát cứ chống lại chính quyền trung ương.
Điền
trang
là những trang trại lớn của các quý tộc đời Trần, do quý tộc trực tiếp quản
lý, sử dụng sức lao động của gia nô, nô tì; có quyền thừa kế. Đó là bộ phận
ruộng đất thuộc sở hữu phong kiến lớn, tư nhân. Các điền trang được nhắc đến
trong lịch sử là của Trần Khánh Dư (Chí Linh, Hải Dương), Trần Quốc Khang (Diễn
Châu, Nghệ An)…Chế độ điền trang phát triển mạnh mẽ, hàm chứa nhiều yếu tố và
xu thế cát cứ.
Tuy
nhiên, trong suốt hàng trăm năm tồn tại của mình, chế độ thái ấp, điền trang đã
có những tác động lớn về mặt chính trị. Nó góp phần xây dựng một triều đình
thống nhất, đoàn kết nội bộ, đoàn kết toàn dân, giữ vững nền độc lập dân tộc.
Thực tế đã chứng minh rằng những chủ nhân của các thái ấp đã hoàn thành tốt vai
trò của mình là những trụ cột trợ giúp triều đình và không bao giờ trở thành
lãnh chúa địa phương như ở châu Âu cùng thời. Quan trọng hơn, đất phân phong cho các vương hầu quý tộc vẫn
gắn với ruộng đất công làng xã, với nông dân. Các quý tộc vẫn nằm trong làng,
không tách khỏi làng xã. Nhờ đó, nhà nước luôn duy trì được mối quan hệ mật
thiết với nhân dân. Thế cân bằng ổn định về kinh tế cũng được xác lập và duy
trì giữa công hữu và tư hữu; giữa quyền lực, lợi ích của nhà nước với các đẳng
cấp quý tộc quan liêu và khối bình dân làng xã. Tính chất thân dân của nhà nước
quân chủ Lý – Trần có cơ sở từ chế độ này.
Cuối
thời Trần, nền kinh tế của quý tộc Trần trên đà suy yếu. Chế độ sở hữu điền
trang, thái ấp và hình thức kinh doanh của quý tộc Trần bóc lột nông nô, nô tì
ngày càng nặng nề làm cho nền kinh tế bị suy yếu và ruộng đất công của làng xã
bị lấn chiếm nghiêm trọng. Mâu thuẫn xã hội gia tăng làm bùng nổ các cuộc khởi
nghĩa của nông dân, nông nô, nô tì để trở thành nông dân tự do. Đây có thể coi
là nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của mô hình nhà nước quân chủ thân
dân Lý – Trần. Năm 1397, Hồ Quý Ly đã thi hành phép hạn điền, hạn nô, đánh mạnh
vào thế lực kinh tế của tầng lớp quý tộc Trần. Chế độ thái ấp, điền trang dần
tan rã từ đó.
Thứ tư
, tính chất thân dân của nhà nước Lý – Trần còn thể hiện ở chính sách
“ngụ binh ư nông”.
Chính
sách “ngụ binh ư nông” (gửi binh ở nông) có từ thời nhà Lý, sau đó được tiếp
tục duy trì và phát triển ở thời Trần. Chính sách này quy định cụ thể về chế độ
binh dịch đối với tất cả đinh tráng và chế độ quân lính chia phiên về sản xuất2.
Theo đó, tất cả hoàng nam đến tuổi trưởng thành (16 tuổi) đều phải đi lính. Để
tập trung được đông đảo nhân lực trong nước cho sản xuất mà vẫn không ảnh hưởng
đến việc xây dựng quân đội thường trực, các triều Lý, Trần đều thực hiện chia
phiên cho quân lính về làm ruộng. Theo các nàh nghiên cứu, thời Lý – Trần chỉ
có cấm quân là thường xuyên tại ngũ bảo vệ nhà vua và kinh thành, còn lại đều
chia phiên về nà cày cấy hoặc làm các công việc khác. Cứ thế cắt lượt thay
nhau, khiến ai nấy hàng năm đều luân phiên tại ngũ canh phòng và luyện tập một
thời gian, còn lại về sản xuất. Chính sách tiến bộ này vừa đáp ứng quyền lợi
của giai cấp nông dân, tăng thêm của cải cho xã hội, vừa góp phần giảm bớt chi
phí nuôi quân, làm cho một nước nhỏ như Đại Việt luôn có đủ quân đội thường
trực để đương đầu với kẻ thù trong cuộc đấu tranh giữ nước. Về chính trị, chính
sách “ngụ binh ư nông” còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra một tâm thức
tuân lệnh bề trên, tạo ra sợi dây gắn kết liên tục giữa thiết chế quyền lực nhà
nước với nông dân làng xã. Nhà sử học Phan Huy Chú đánh giá “đây cũng là phép
hay của đời cận cổ”3.
Từ
những luận điểm trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: Mô hình nhà nước Lý –
Trần là mô hình nhà nước quân chủ thân dân có lịch sử tồn tại gần 4 thế kỷ trên
đất nước ta. Mặc dù thực chất quan điểm và chính sách thân dân thời Lý – Trần
có mục đích chính là điều chỉnh mối quan hệ nhà nước phong kiến với nhân dân,
điều hoà mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến với nhân dân lao động bị áp
bức bóc lột nhưng nó vẫn góp phần đem lại một cục diện thái bình, no ấm, góp
phần củng cố khối đoàn kết toàn dân, giữ vững nền độc lập dân tộc, phát triển
kinh tế, văn hóa và xã hội. Như vậy, trước khi bị mô hình nhà nước quân chủ
quan liêu thời Lê sơ thay thế, mô hình nhà nước quân chủ thân dân thời Lý –
Trần đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, tạo nên một giai đoạn hoàng kim
với nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử dân tộc.
------------
Chú thích:
*
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
1. TS
Nguyễn Hoài Văn: Sự phát triển của tư
tưởng chính trị Việt Nam thế kỷ X - XV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
65.
2.
Nguyễn Thế Vị: Nhân tố văn hoá trong
truyền thống quân sự Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 40.
3. Phan
Huy Chú: Lịch triều Hiến chương loại chí,
Nxb Khoa học xã hội, tr. 3,31.
http://nhantainhanluc.com/vn/661/4065/contents.aspx