Thứ Tư, 1 tháng 6, 2011

NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ KHẲNG ĐỊNH NHÀ NƯỚC LÝ – TRẦN LÀ NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ THÂN DÂN

ThS. Nguyễn Cẩm Ngọc*
Chính sách thân dân có từ thời Lý - Trần (1009 - 1400). Đó là tư tưởng truyền thống của những nhà lãnh đạo nhà nước và quân đội thời bấy giờ, khi chính quyền còn có vai trò lịch sử tích cực trong việc tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước. Mặc dù tư tưởng thân dân thời kỳ này còn bị hạn chế bởi nhận thức của cá nhân người cầm quyền, của điều kiện lịch sử và ý thức hệ phong kiến, song nó đã góp phần tạo nên mô hình nhà nước quân chủ thân dân thời Lý – Trần - một trong ba mô hình nhà nước quân chủ tiêu biểu trong lịch sử trung đại Việt Nam.
Vậy căn cứ vào những luận điểm nào để khẳng định nhà nước Lý – Trần là nhà nước quân chủ thân dân? Đó là nội dung chủ yếu mà chúng tôi muốn làm sáng tỏ trong khuôn khổ bài viết nhỏ này.
Thứ nhất , trên bình diện tư tưởng, triết lý thân dân là một dòng chảy liên tục và có hệ thống trong tư tưởng chính trị thời Lý – Trần. Chúng ta biết rằng, ở Đại Việt thời Lý, tư tưởng dân bản, thân dân được thể hiện khá đâm nét trong đời sống xã hội. Trong hoàn cảnh mà sự phân tầng xã hội còn khá mờ nhạt, các vua Lý đều nói tới người dân qua những cách diễn đạt khác nhau như “thuận lòng dân” (Lý Thái Tổ), “yêu dân như con” (Lý Thánh Tông). Quan hệ vua quan – thần dân còn khá gần gũi. Sử sách ghi lại rằng năm 1012, vua Lý Thái Tổ cho xây cung Long Đức ở ngoài thành cho Hoàng thái tử Khai Thiên Vương Phật Mã ở, “ý cho thái tử hiểu hết mọi việc của dân”. Nhà vua cũng thi hành chính sách thân dân: năm 1013 định lại các lệ thuế, từ thuế ruộng đất ao hồ đến thuế bãi dâu, các thuế sản vật …và nhiều năm xá thuế cho nhân dân, được chính sử đánh giá là “khoan thứ nhân từ, tử tế, hòa nhã, có lượng đế vương”. Năm 1040, vua Lý Thái Tông dạy cung nữ dệt gấm vóc, cho công chúa cùng cung nữ trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Dân chúng kinh thành Thăng Long trong những ngày hội (như hội đền Quảng Chiếu) đã được vào tận Đoan Môn của Cấm Thành tham dự; họ cũng được phép tới thềm điện Long Trì đánh chuông kêu cầu oan ức. Vào dịp đầu năm, vua Lý Anh Tông đã ra tận ruộng để cày ruộng tịch điền cùng với nhân dân. Trong bài Lộ bố văn khi chinh phạt Tống, Lý Thường Kiệt đã trịnh trọng tuyên bố một nguyên tắc dân bản: “Trời sinh ra dân chúng, vua hiền ắt hòa mục, đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân”. Còn thiền tăng Viên Thông thì nêu lên nội dung cụ thể của quan điểm thân dân là: “Muốn yên dân thì phải tôn trọng những người dưới”. Như vậy, ngay từ thời Lý, việc chăm lo đời sống nhân dân, quan tâm đến nguyện vọng của nhân dân đã được xem là công việc hệ trọng nhất của việc trị nước.
Trong thời Trần, dòng tư tưởng thân dân, trọng dân vẫn được tiếp tục. Các vua đều tự coi mình cha mẹ của dân, thi hành một chính sách thân dân kiểu gia trưởng. Vua Trần Thái Tông khi đang đêm bỏ kinh thành lên núi Yên Tử xuất gia tu hành đã khẳng định: “Trẫm muốn ra ngoài chơi để được nghe tiếng nói của dân, xem xét lòng dân, cho biết tình trạng khó khăn của dân”. Điều này nói lên rằng, các vua thời Trần đã có những quan hệ khá gần gũi với dân chúng, chứ không chỉ ngồi yên vị ở ngai vàng như những triều đại sau này. Sử cũ chép rằng, các vua thường xuyên đi xuống các làng mạc địa phương thăm hỏi việc đắp đê, gặt lúa, đánh cá, dự các lễ hội đấu vật, đua thuyền hoặc du hành đi chơi phố. Một sự kiện để lại dấu ấn đậm nét của tinh thần thân dân là việc Thượng hoàng Trần Thánh Tông mời các bô lão trong nước đến dự Hội nghị Diên Hồng, hỏi ý kiến về việc đánh giặc Nguyên Mông. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hoài Vănthì đây thực sự là một “quốc dân đại hội”1 của Đại Việt thời trung đại.
Mặt khác, trong thời kỳ này, nhân dân được xem như là cơ sở để tiến hành những cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập. Bởi vậy, Trần Hưng Đạo cho rằng phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ, coi đó là thượng sách để giữ nước. Điều này có ý nghĩa biểu thị sự quan tâm của nhà nước đối với sản xuất và đời sống của nhân dân để xây dựng một nền thái bình thịnh trị lâu dài.
Sự hiện diện một cách rõ rệt và có hệ thống của triết lý thân dân trong lĩnh vực tư tưởng của giai cấp cầm quyền chính là cơ sở để nhà nước Lý - Trần tiến hành hàng loạt các chính sách nhằm hiện thực hóa triết lý đó trong đời sống xã hội, mang lại sức mạnh to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thứ hai, Phật giáo là một cơ sở quan trọng cấu thành mô hình nhà nước quân chủ thân dân nói chung, thời Lý - Trần nói riêng. Nhà nước quân chủ Việt Nam lúc mới ra đời là một nhà nước cai trị bằng bạo lực. Nhưng nếu chỉ có quân sự và bạo lực thì sẽ không thu phục được lòng dân, bị nhân dân oán thán. Bởi vậy, các vị vua Lý, Trần đã tìm đến Phật giáo để thiết lập một thế cân bằng mới có lợi cho việc cai trị của mình. Chúng ta biết rằng lịch sử tư tưởng Việt Nam đã ghi nhận sự tồn tại lâu dài của hiện tượng “tam giáo đồng nguyên”. Trong thời Lý - Trần, “tam giáo đồng nguyên” là sự cùng tồn tại hòa bình và ảnh hưởng lẫn nhau (bổ sung cho nhau và đấu tranh với nhau) của ba tôn giáo Phật, Đạo, Nho. Mặc dù cuối thời Trần, Nho giáo đã thắng thế nhưng trong suốt 4 thế kỷ trị vì của hai triều đại này, Phật giáo luôn là tôn giáo chiếm vị trí độc tôn. Với tư cách là “quốc giáo”, Phật giáo đã có vai trò quan trọng và có ảnh hưởng chi phối đến tư tưởng chính trị của các vua thời Lý và nửa đầu thời Trần. Đặc biệt, vua Lý Thái Tổ - vị vua sáng lập ra vương triều Lý - vốn xuất thân từ Phật giáo và nhờ thế lực của Phật giáo mà lên ngôi vua nên rất tôn sùng đạo Phật và lấy tôn giáo này làm chỗ dựa tinh thần cho vương triều. Vai trò của Phật giáo trong nhà nước quân chủ thân dân thể hiện ở các khía cạnh sau:
* Tạo ra sự cân bằng tư tưởng trong xã hội:
Xét một cách khái quát, cả ba tôn giáo Phật, Đạo, Nho đều mang tính chất nhân văn, lấy việc giải thoát con người, đem lại hạnh phúc cho con người là mục đích cuối cùng. Phật giáo còn nhấn mạnh tư tưởng nhân từ bác ái và tinh thần “hiếu sinh” (tôn trọng cuộc sống). Trong thời đại mà Phật giáo phát triển thịnh đạt nhất trong xã hội, các triều đại Lý - Trần đều thấm nhuần dòng tư tưởng chủ đạo trên và áp dụng vào thực tiễn trị nước mà cụ thể là chính sách thân dân và tư tưởng nhân văn khai phóng. Theo đó, chủ trương của nhà nước không nên can thiệp, hoặc can thiệp càng ít càng tốt vào cuộc sống tự tại của người dân, để họ tự lo liệu giải quyết. Bởi vậy, đã tạo nên dòng gắn kết, sự cân bằng giữa thói ứng xử bạo lực của nhà nước quân chủ với tư tưởng dân chủ của làng xã. Có thể khẳng định rằng Phật giáo chính là nhịp cầu tâm linh tin cậy nối nhà nước với làng xã, với dân chúng, giúp an dân, xây dựng cục diện thái bình trong xã hội.
* Tạo ra một trung tâm về giáo dục ngay tại các nhà chùa Phật giáo:
Kể từ khi bước vào kỷ nguyên độc lập, những người trí thức đầu tiên chính là tầng lớp sư sãi. Họ không dừng lại ở cương vị là người tu hành thoát tục, mà còn tham gia cả vào những hoạt động nội trị và ngoại giao, trong đó có hoạt động giáo dục. Mặc dù đến thời Lý, nền giáo dục Nho học đã xuất hiện trên đất nước ta nhưng các trường học Nho giáo chưa đóng vai trò quan trọng mà nhà chùa mới là nơi dạy học, truyền bá văn hóa và đào tạo tầng lớp trí thức. Cùng với việc các vua Lý, Trần và những quý tộc, quan chức cao cấp khác bỏ tiền của xây dựng chùa chiền ở khắp nơi, nhà chùa đã “trở thành một thế lực kinh tế, chính trị, văn hóa lớn trong xã hội”. Bởi vậy, tư tưởng Phật giáo lại càng có điều kiện lan tỏa và thấm sâu vào đời sống, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa với hình tượng Bồ Tát - một hình tượng của từ bi, hỉ xả để cho quần chúng cầu được ước thấy và thỏa nguyện những khát vọng về mặt tinh thần. Phật giáo thời Lý - Trần đã phát triển mạnh mẽ trong sự gắn bó với lợi ích của người dân và có khi là với vận mạng của dân tộc.
* Tạo ra truyền thống tôn giáo tham gia vào chính sự:
Trong mô hình nhà nước quân chủ thân dân Lý - Trần, việc cai trị không thực sự chuyên nghiệp như mô hình nhà nước quân chủ quan liêu sau này. Điều này thể hiện ở việc dùng sư sãi, tôn thất nắm chính quyền, đào tạo quan lại cai trị không bài bản. Đặc biệt là ở việc dùng sư sãi trong bộ máy cai trị. Ở thời Lý – Trần, tầng lớp trí thức là sư sãi giữ vị trí quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước với vai trò là cố vấn chính trị cao cấp của nhà vua, là chính trị gia bên cạnh các tướng lĩnh của triều đình. Sư Vạn Hạnh có vai trò to lớn trong việc thành lập vương triều Lý; sư Đà Bảo được Lý Thái Tổ mời đến kinh đô tham gia chính sự. Những nhà sư có tài năng và uy tín lớn như sư Viên Thông, sư Thông Biện còn được phong làm quốc sư, có đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước.
Như vậy, thời kỳ quân chủ Việt Nam lúc mới bắt đầu tuy rất bạo lực nhưng đã có cơ sở để thân dân do sự xuất hiện của yếu tố Phật giáo (chủ yếu là Phật giáo Đại thừa). Phật giáo đã có vai trò quan trọng đối với nền chính trị quân chủ Lý - Trần, góp phần tạo nên một cục diện thái bình thịnh trị trong mấy trăm năm tồn tại của hai triều đại này.
Tuy nhiên, Phật giáo không bao giờ có thể dùng để điều hành một quốc gia cũng như hoạch định các đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại, sắp đặt cấp bậc tôn ti trật tự trong xã hội nên đến cuối đời Trần, Nho giáo đã thắng thế và trở thành một ý thức hệ thống trị xã hội. Sự thắng thế của Nho giáo là một trong những cột mốc đánh dấu sự ra đời của mô hình nhà nước quân chủ quan liêu, thay thế cho mô hình nhà nước quân chủ thân dân lúc này đã chấm dứt sứ mệnh lịch sử của mình trên vũ đài chính trị.
Thứ ba, về mặt tổ chức cai trị, tính chất thân dân của nhà nước Lý – Trần thể hiện ở chỗ đã tìm ra một thế thỏa thuận giữa cộng đồng làng xã với nhà nước quân chủ.
Chúng ta biết rằng trong lịch sử, làng Việt Nam luôn có xu hướng biến thành cộng đồng tự trị, tự quản; còn nhà nước luôn có xu hướng can thiệp sâu vào làng. Tuy nhiên, nhà nước Lý – Trần vẫn duy trì một thiết chế chính quyền tự trị, tự quản trong các làng xã, ít có sự can thiệp của nhà nước (quyền lực của nhà nước đến cổng làng, sau cổng làng là làng xã tự trị). Mối quan hệ làng - nước nhờ đó được dung hòa.
Quan điểm tự do chủ nghĩa chủ trương nhà nước can thiệp càng ít càng tốt vào đời sống của dân chúng cũng được nhà nước Lý – Trần áp dụng vào lĩnh vực kinh tế.
Nhà Lý tôn trọng quyền sở hữu ruộng đất của cộng đồng làng xã. Theo đó, nhà nước không thu thuế theo từng hộ dân mà coi mỗi cộng đồng làng xã là một tập thể lớn (hoặc nhỏ) để thu thuế lúa gạo theo hộ dân. Người được ban thái ấp sẽ thu thuế các làng, rồi nộp một phần cho nhà nước nên họ thực sự là chủ của dân chứ không phải là chủ ruộng đất. Dân chúng chủ yếu cày ruộng theo quy mô làng xã.
Nhà Trần có chế độ thái ấp, điền trang là một hình thức sở hữu đặc biệt của tầng lớp quý tộc quan liêu, có đặc quyền đặc lợi. Theo sử sách ghi lại thì thái ấp là ruộng do nhà vua ban cấp cho các quý tộc và triều thần có công. Trên danh nghĩa, ruộng đất thái ấp thuộc quyền sở hữu của nhà nước, triều đình có quyền lấy của người này ban cấp cho người khác. Quý tộc có quyền sử dụng và hưởng hoa lợi về đất đai và một phần về cư dân trên đó, như thu tô thuế, xây dựng phủ đệ, lập các đội quân vương hầu gia đồng. Thời trần, có những thái ấp của Trần Liễu (Đông Triều, Quảng Ninh), Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Bình Lục, Hà Nam), Trần Khát Chân ở Kẻ Mơ (Hà Nội)… Do tính chất hạn chế về quyền chiếm dụng ruộng đất nên thái ấp không có khả năng làm phát triển các yếu tố cát cứ chống lại chính quyền trung ương.
Điền trang là những trang trại lớn của các quý tộc đời Trần, do quý tộc trực tiếp quản lý, sử dụng sức lao động của gia nô, nô tì; có quyền thừa kế. Đó là bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu phong kiến lớn, tư nhân. Các điền trang được nhắc đến trong lịch sử là của Trần Khánh Dư (Chí Linh, Hải Dương), Trần Quốc Khang (Diễn Châu, Nghệ An)…Chế độ điền trang phát triển mạnh mẽ, hàm chứa nhiều yếu tố và xu thế cát cứ.
Tuy nhiên, trong suốt hàng trăm năm tồn tại của mình, chế độ thái ấp, điền trang đã có những tác động lớn về mặt chính trị. Nó góp phần xây dựng một triều đình thống nhất, đoàn kết nội bộ, đoàn kết toàn dân, giữ vững nền độc lập dân tộc. Thực tế đã chứng minh rằng những chủ nhân của các thái ấp đã hoàn thành tốt vai trò của mình là những trụ cột trợ giúp triều đình và không bao giờ trở thành lãnh chúa địa phương như ở châu Âu cùng thời. Quan trọng hơn, đất phân phong cho các vương hầu quý tộc vẫn gắn với ruộng đất công làng xã, với nông dân. Các quý tộc vẫn nằm trong làng, không tách khỏi làng xã. Nhờ đó, nhà nước luôn duy trì được mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Thế cân bằng ổn định về kinh tế cũng được xác lập và duy trì giữa công hữu và tư hữu; giữa quyền lực, lợi ích của nhà nước với các đẳng cấp quý tộc quan liêu và khối bình dân làng xã. Tính chất thân dân của nhà nước quân chủ Lý – Trần có cơ sở từ chế độ này.
Cuối thời Trần, nền kinh tế của quý tộc Trần trên đà suy yếu. Chế độ sở hữu điền trang, thái ấp và hình thức kinh doanh của quý tộc Trần bóc lột nông nô, nô tì ngày càng nặng nề làm cho nền kinh tế bị suy yếu và ruộng đất công của làng xã bị lấn chiếm nghiêm trọng. Mâu thuẫn xã hội gia tăng làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của nông dân, nông nô, nô tì để trở thành nông dân tự do. Đây có thể coi là nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của mô hình nhà nước quân chủ thân dân Lý – Trần. Năm 1397, Hồ Quý Ly đã thi hành phép hạn điền, hạn nô, đánh mạnh vào thế lực kinh tế của tầng lớp quý tộc Trần. Chế độ thái ấp, điền trang dần tan rã từ đó.
Thứ tư , tính chất thân dân của nhà nước Lý – Trần còn thể hiện ở chính sách “ngụ binh ư nông”.
Chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi binh ở nông) có từ thời nhà Lý, sau đó được tiếp tục duy trì và phát triển ở thời Trần. Chính sách này quy định cụ thể về chế độ binh dịch đối với tất cả đinh tráng và chế độ quân lính chia phiên về sản xuất2. Theo đó, tất cả hoàng nam đến tuổi trưởng thành (16 tuổi) đều phải đi lính. Để tập trung được đông đảo nhân lực trong nước cho sản xuất mà vẫn không ảnh hưởng đến việc xây dựng quân đội thường trực, các triều Lý, Trần đều thực hiện chia phiên cho quân lính về làm ruộng. Theo các nàh nghiên cứu, thời Lý – Trần chỉ có cấm quân là thường xuyên tại ngũ bảo vệ nhà vua và kinh thành, còn lại đều chia phiên về nà cày cấy hoặc làm các công việc khác. Cứ thế cắt lượt thay nhau, khiến ai nấy hàng năm đều luân phiên tại ngũ canh phòng và luyện tập một thời gian, còn lại về sản xuất. Chính sách tiến bộ này vừa đáp ứng quyền lợi của giai cấp nông dân, tăng thêm của cải cho xã hội, vừa góp phần giảm bớt chi phí nuôi quân, làm cho một nước nhỏ như Đại Việt luôn có đủ quân đội thường trực để đương đầu với kẻ thù trong cuộc đấu tranh giữ nước. Về chính trị, chính sách “ngụ binh ư nông” còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra một tâm thức tuân lệnh bề trên, tạo ra sợi dây gắn kết liên tục giữa thiết chế quyền lực nhà nước với nông dân làng xã. Nhà sử học Phan Huy Chú đánh giá “đây cũng là phép hay của đời cận cổ”3.
Từ những luận điểm trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: Mô hình nhà nước Lý – Trần là mô hình nhà nước quân chủ thân dân có lịch sử tồn tại gần 4 thế kỷ trên đất nước ta. Mặc dù thực chất quan điểm và chính sách thân dân thời Lý – Trần có mục đích chính là điều chỉnh mối quan hệ nhà nước phong kiến với nhân dân, điều hoà mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến với nhân dân lao động bị áp bức bóc lột nhưng nó vẫn góp phần đem lại một cục diện thái bình, no ấm, góp phần củng cố khối đoàn kết toàn dân, giữ vững nền độc lập dân tộc, phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Như vậy, trước khi bị mô hình nhà nước quân chủ quan liêu thời Lê sơ thay thế, mô hình nhà nước quân chủ thân dân thời Lý – Trần đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, tạo nên một giai đoạn hoàng kim với nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử dân tộc.
------------
Chú thích:
* Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
1. TS Nguyễn Hoài Văn: Sự phát triển của tư tưởng chính trị Việt Nam thế kỷ X - XV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 65.
2. Nguyễn Thế Vị: Nhân tố văn hoá trong truyền thống quân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 40.
3. Phan Huy Chú: Lịch triều Hiến chương loại chí, Nxb Khoa học xã hội, tr. 3,31.
http://nhantainhanluc.com/vn/661/4065/contents.aspx