Thứ Năm, 9 tháng 6, 2011

Đổi mới cơ chế quản lý đối với nhân lực hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội

TCCS - Thời gian qua, Nhà nước đã có những đổi mới về cơ chế quản lý nhân lực hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội (KHXH) theo hướng tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Những đổi mới về chính sách, cơ chế đã đem lại nhiều tiến bộ trong việc đào tạo và duy trì nguồn nhân lực, tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý nguồn nhân lực là một nhu cầu thiết yếu hiện nay.


Những cải tiến nổi bật trong cơ chế quản lý nhà nước về nhân lực KHXH
Điểm nổi bật trong đổi mới chính sách là sự mở rộng cơ chế tuyển dụng theo hợp đồng, tạo điều kiện cho tổ chức KHXH có điều kiện tuyển chọn được đội ngũ trẻ mà không phụ thuộc vào biên chế. Đi kèm với tuyển dụng theo hợp đồng là một số chính sách khuyến khích, như: bình đẳng về cơ hội đào tạo cho người làm việc theo chế độ hợp đồng và người làm trong biên chế; bảo đảm bảo hiểm xã hội cho người làm việc theo chế độ hợp đồng; áp dụng thỏa thuận lương theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm...
Điểm tích cực thứ hai là sự mở rộng đào tạo sau đại học cả trong và ngoài nước. Quy mô đào tạo sau đại học đã tăng lên rất đáng kể từ những năm đầu của thế kỷ XXI. Các chương trình đào tạo ngoài nước mở rộng thêm nhiều cơ hội đào tạo như Đề án 322 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các chương trình hợp tác song phương (giữa các tổ chức và giữa hai nhà nước). Bên cạnh đó, nhiều chương trình đào tạo ngoại ngữ đã tạo điều kiện hỗ trợ nhân lực trẻ tìm kiếm học bổng ở nước ngoài.
Một điểm tích cực nữa là cơ chế tuyển chọn đề tài và cá nhân chủ trì nhiệm vụ ở cấp nhà nước, ở Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và ở một số bộ, ngành, địa phương đã mở ra các cơ hội bình đẳng, tạo nguồn lực hỗ trợ cho các cá nhân nghiên cứu khoa học, không phụ thuộc vào sự phân công hay nguồn lực của tổ chức nơi cán bộ nghiên cứu làm việc. Đây cũng là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự sáng tạo của các nhà nghiên cứu.
Những cải tiến trên đã góp phần tạo ra một đội ngũ nghiên cứu KHXH khá đông đảo, được trang bị kiến thức mới, đem lại nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội thông qua những đề xuất, tư vấn cho các cấp lãnh đạo, quản lý về đường lối, định hướng phát triển, giải pháp thực tiễn...
Những hạn chế trong cơ chế, chính sách nhân lực KHXH
Bên cạnh những điểm cải tiến nổi bật nêu trên, vẫn còn một số hạn chế đang tác động tiêu cực đến sức sáng tạo và đóng góp của đội ngũ nhân lực KHXH.
Về chính sách đãi ngộ
 Trước hết, hạn chế về chính sách đãi ngộ thể hiện ở mức lương thấp, chưa đủ tái sản xuất sức lao động giản đơn, càng không đủ đối với sức lao động mở rộng. Hiện nay, sinh viên mới ra trường, đi làm trong tổ chức KHXH với lương khởi điểm thấp hơn khoản chi phí trung bình hằng tháng. Hơn nữa, cùng được coi là lĩnh vực quốc sách hàng đầu, nhưng nhân lực nghiên cứu KHXH lại không có phụ cấp như đối với lực lượng giảng dạy.
Chế độ đãi ngộ về cơ cở vật chất, tạo môi trường làm việc thuận lợi cũng còn hạn chế. ở nước ngoài, các giáo sư hàng đầu có phòng làm việc và trợ lí riêng, có mức lương khiến họ yên tâm nghiên cứu khoa học và cống hiến. Trong khi đó, các giáo sư ở Việt Nam hưởng mức lương thấp, không có phòng làm việc riêng, không có trợ cấp đi lại, không có hỗ trợ nghiên cứu khoa học. Trong tình hình hội nhập quốc tế và cơ chế kinh tế thị trường hiện nay, sự bất bình đẳng trong thu nhập của các ngành nghề đang tác động mạnh đến tâm tư của cán bộ nghiên cứu khoa học. Theo một cuộc điều tra của VnExpress năm 2008, chỉ có khoảng 10% số người được hỏi có nguyện vọng làm việc trong các cơ quan nghiên cứu, bằng một nửa số người muốn làm trong các công ty và bằng 1/5 số người muốn mở công ty riêng(1) 
Cơ chế quản lý nhân lực KHXH còn nặng về tính chất hành chính, hình thức và bình quân chủ nghĩa
Tính chất hành chính thể hiện rõ trong công tác tuyển dụng, đánh giá nhân lực;  bình quân chủ nghĩa trong xếp và nâng lương; hình thức trong phong hàm, bổ nhiệm chức danh và tôn vinh khen thưởng. Việc thi tuyển, chuyển ngạch viên chức khoa học - công nghệ hiện nay về cơ bản không khác với  công chức hành chính nhà nước, không phù hợp với đặc điểm, tính chất hoạt động khoa học và công nghệ. Lực lượng cán bộ khoa học trẻ, được Nhà nước đào tạo chưa được bố trí và sử dụng hiệu quả, nhiều người có nguyện vọng và khả năng nghiên cứu khoa học không được các cơ sở khoa học và công nghệ tuyển dụng vì chỉ tiêu định biên hạn chế, đôi khi còn vì nhiều lý do “tế nhị” khác. Việc thi tuyển, thi nâng ngạch còn mang tính chất hình thức, không căn cứ vào kết quả lao động, cống hiến khoa học của cán bô(2). Việc đánh giá cán bộ cũng mang nặng tính chất hành chính, cá nhân tự làm bản kiểm điểm, cho điểm, tập thể góp ý và thủ trưởng đưa ra nhận xét, đánh giá cuối cùng. Các tiêu chí mang tính trừu tượng, không phản ánh được thực chất vì không có chế tài quy trách nhiệm người đánh giá cấp dưới, dễ cả nể hoặc “chụp mũ” theo chủ quan.
Tính bình quân chủ nghĩa, “cào bằng” đối với nhân lực khoa học thể hiện trong hệ thống thang, bảng lương đối với đội ngũ cán bộ, viên chức khoa học, công nghệ, chủ yếu căn cứ vào thâm niên công tác, chưa chú trọng đến yếu tố hiệu quả công việc và không phản ánh đúng mức chênh lệch về trình độ chuyên môn cũng như đòi hỏi của công việc đang đảm nhiệm. Tính hình thức còn thể hiện rõ trong giải thưởng khoa học. Hiện nay, đối với lĩnh vực KHXH, giải thưởng lớn nhất trong nước là Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước, với mức thưởng Giải thưởng Hồ Chí Minh (xét 5 năm một lần) năm 2005 là 100 triệu đồng, Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ là 60 triệu đồng. Trong khi đó, Giải thưởng Trần Văn Giàu (do cố Giáo sư sáng lập), hoạt động từ tháng 7 năm 2002 được trao hằng năm cho hai lĩnh vực lịch sử và lịch sử tư tưởng trị giá 200 triệu đồng. Vấn đề phong hàm, bổ nhiệm chức danh đã có tác dụng khuyến khích nhất định, song vì cách nhìn nhận chưa đúng, thực hiện xét bổ nhiệm chưa khoa học và thực chất đã tác động tiêu cực đến động lực của đội ngũ trí thức nói chung và nghiên cứu KHXH nói riêng, như hiện tượng “háo danh”, hay “tệ nạn khệnh khạng bằng cấp” như Giáo sư Hoàng Tụy đã đề cập trong một số bài viết của mình.
Chưa tạo được môi trường thuận lợi để thu hút và phát huy trí tuệ sáng tạo của đội ngũ KHXH
Môi trường làm việc đối với cán bộ nghiên cứu KHXH không chỉ là cơ sở vật chất (như phòng làm việc, điều hòa, máy tính, tư liệu, sách và các thiết bị khác) mà còn là môi trường cộng tác, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và nền nếp, kỷ cương làm việc, sắp xếp bố trí công việc và đặc biệt là dân chủ trong nghiên cứu khoa học. Theo ý kiến của nhiều nhà khoa học, môi trường làm việc chưa tốt, điều kiện làm việc thiếu thốn, nền nếp kỷ cương bị buông lỏng... khiến cho ở một số nơi, hàng loạt cán bộ có bằng cấp, năng lực xin nghỉ việc để ra làm ngoài. Sinh viên giỏi tốt nghiệp không muốn ở lại trường giảng dạy bởi sự đãi ngộ của các công ty nước ngoài thu hút họ.
Cơ chế đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển KHXH
Vấn đề đầu ra của đào tạo cung cấp nguồn nhân lực cho KHXH cũng còn nhiều bất cập, chưa chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên sâu về nghiên cứu, được trang bị tốt về phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Chưa có những quy định chặt chẽ về cơ chế đào tạo và tự đào tạo qua công việc, như: giao cho  cán bộ trình độ cao đào tạo cán bộ mới hoặc trình độ thấp hơn, hoặc nếu có giao cũng chưa có cơ chế đánh giá kết quả thực hiện đào tạo như thế nào. Mặc dù, số cán bộ nghiên cứu tham gia chương trình đào tạo sau đại học ngày càng tăng lên, nhưng chưa có đào tạo thành nghiên cứu chuyên nghiệp, do vậy, tính chuyên nghiệp của đội ngũ nghiên cứu trong KHXH chưa cao.
Nguyên nhân của những hạn chế
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên. Tuy nhiên, ba nhóm dưới đây có thể được coi là các nguyên nhân chủ yếu.
Thứ nhất, chưa có nhận thức, quan điểm đúng đắn về vai trò của nhân lực khoa học, chưa hiểu hết những đặc điểm của lao động khoa học
Lao động khoa học là lao động phức tạp, mà lao động phức tạp như C.Mác đã định nghĩa “là bội số của lao động giản đơn”. Điều này không đơn thuần chỉ là bội số về thời gian mà cả về trí tuệ, về sự phức tạp trong phương pháp tiến hành. Hơn nữa, lao động KHXH mà kết quả thường là ý tưởng khoa học về các mối quan hệ xã hội, đòi hỏi phải có phương pháp tiến hành đa dạng, cách nhìn biện chứng, kinh nghiệm và độ độc lập nhất định. Kết quả của lao động này có khi đưa ra những ý tưởng khoa học chưa được xã hội chấp nhận ngay mà phải có thời gian kiểm nghiệm trong thực tế. Ngoài ra, lao động nghiên cứu KHXH nhiều khi mang tính chất “nghệ sĩ”, nghĩa là ý tưởng khoa học được sinh ra không phải lúc nào cũng trong “8 giờ vàng ngọc” mà có thể từ những suy tư, những trao đổi với cộng đồng, quan sát xã hội..., điều này cũng có nghĩa là cách lao động, cách tạo ra sản phẩm cũng có tính “nghệ sĩ”, không thể đo đếm theo giờ làm việc hành chính. Nhà quản lý không nắm được hết những đặc điểm này sẽ khó có thể đưa ra được quyết định đúng về thù lao, về đánh giá sản phẩm và cá tính của người nghiên cứu khoa học.
Thứ hai, ảnh hưởng của cơ chế tập trung, mệnh lệnh, bao cấp, cào bằng trong quản lý nhân lực KHXH
 Khác với cơ chế bao cấp, khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, các lĩnh vực của nền kinh tế cũng phải được phản ánh theo các quy luật kinh tế thị trường, mà trước hết, đối với lao động KHXH đó là cơ chế tiền lương. Nếu không phản ánh hao phí lao động phức tạp theo giá thị trường thì sẽ tạo ra một “thù lao ảo”, và đương nhiên sẽ có những biến báo, những xoay sở để tồn tại theo điều tiết của thị trường. Và những xoay sở này nếu lớn hơn khuôn khổ của tiền lương sẽ làm méo mó yếu tố đòn bẩy của tiền lương. Sự cào bằng trong tư duy quản lý cũng chính là nguyên nhân dẫn đến không mạnh dạn tạo ra sự cách biệt hợp lý về lương giữa các chức danh khác nhau trong khoa học. Một khi lương đã mang tính chất cào bằng, thì hệ quả là việc xem xét, bổ nhiệm các chức danh khác nhau cũng không phải là khắt khe như nó phải tuân theo.
Thứ ba, ảnh hưởng của tư duy tiểu nông trong quản lý nhân lực KHXH
Biểu hiện rõ nét của tư duy tiểu nông trong việc quản lý nhân lực KHXH là sự thiếu tính chuyên nghiệp, không dễ dàng chấp nhận cái độc lập, cái cá tính và ý kiến của người bị quản lý. Hầu như các chính sách liên quan đến con người trong hoạt động KHXH không được chính họ phản biện lại trước khi đưa vào áp dụng. Chính sách, cơ chế liên quan đến con người nhưng thường chỉ biểu hiện ý kiến của nhóm quản lý cách biệt với đối tượng bị quản lý. Trong thực tế, cũng có công đoạn lấy ý kiến, nhưng hết sức hình thức và không đúng đối tượng. Chẳng hạn, việc đưa ra quy định về mức chi trong nghiên cứu KHXH, chưa có tham vấn ý kiến cộng đồng những người làm nghiên cứu KHXH một cách bài bản, có chăng chỉ là đưa ra hội thảo, mỗi người một ý và tiếp thu đến đâu lại là quyền của người soạn thảo và ban hành chính sách.
 Đề xuất một số hướng đổi mới cơ chế quản lý nhân lực KHXH
Thay đổi nhận thức về vai trò và đặc điểm của lao động KHXH
Không thể đem ra bán trên thị trường như công nghệ hay giải pháp kỹ thuật, nhưng ý tưởng của khoa học xã hội có thể làm thay đổi cả xã hội thông qua những đề xuất về cách thức, bước đi của xã hội, của nền kinh tế. Sản phẩm này khó đo bằng giá trị và thường có độ trễ từ khi đề xuất cho đến khi áp dụng vào thực tế tùy thuộc nhận thức và ý muốn của người thụ hưởng ý kiến đề xuất. Đối với công nghệ, sản phẩm của nghiên cứu khoa học công nghệ, người sử dụng là nhà sản xuất, động cơ chính để nhà sản xuất sử dụng công nghệ trước hết là lợi nhuận, trong đó người tiêu dùng chấp nhận sản phẩm là yếu tố quan trọng để nhà sản xuất quyết định sử dụng công nghệ. Còn người sử dụng các ý tưởng đề xuất xã hội lại phụ thuộc vào chính khách mà động cơ sử dụng do nhiều yếu tố quyết định: có thể là tạo sự đồng thuận trong xã hội; sự an toàn cho vị trí của chính khách; sự thỏa thuận, thỏa hiệp của các cộng đồng trong xã hội... Điều này cho thấy, giả định là chất lượng, sản phẩm nghiên cứu KHXH có tốt, thì việc ứng dụng kết quả của nghiên cứu KHXH mang tính chủ quan tương đối rõ. Vì thế phải chấp nhận rủi ro và độ trễ về ứng dụng trong nghiên cứu KHXH trong khi đưa ra chính sách đối với nhân lực KHXH. Trong đánh giá, tôn vinh, tuyển dụng và sử dụng nhân lực nghiên cứu KHXH cũng phải có những quy định phù hợp.
Thứ hai, đổi mới cơ chế tự chủ, chế độ biên chế và thù lao trong tổ chức KHXH nhà nước

 Theo cách làm hiện đại và công nghiệp ở nhiều nước, các nội dung của cơ chế chính sách phải được gửi trực tiếp đến các cộng đồng có liên quan hoặc một nhóm chuyên gia đại diện cho cộng đồng, trong một thời gian nhất định để đưa ra ý kiến phản biện. Nếu có ý kiến khác biệt giữa bên soạn thảo và bên phản biện, thì cần có đối thoại để làm rõ và có quy định rõ ràng trách nhiệm của người ra quyết định cuối cùng về cơ chế chính sách. Chính sách đi vào cuộc sống, tác động tốt thì người ra quyết định được đánh giá cao và ngược lại, nếu chính sách không đi vào cuộc sống, có nhiều bất hợp lý thì người ra quyết định cũng phải chịu trách nhiệm, thậm chí là phải từ chức.

Đổi mới hợp lý theo hướng cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho tổ chức theo đề tài và nhiệm vụ nghiên cứu trong kế hoạch dài hạn (từ 5 năm trở lên) và trao quyền cho tổ chức tự xác định số nhân lực để thực hiện kế hoạch. Lương và thu nhập được tính trong kinh phí đề tài và nhiệm vụ. Đồng thời nghiên cứu mức tỷ lệ lương (chi phí lao động sống) trong thực hiện nhiệm vụ cho hợp lý, để bảo đảm người nghiên cứu toàn tâm vào công việc chuyên môn. Cùng với cơ chế này, cần áp dụng đánh giá độc lập đối với các tổ chức KHXH nhà nước đang được cấp kinh phí hoạt động thường xuyên trước khi kết thúc kế hoạch dài hạn để có quyết định việc cấp kinh phí hoạt động thường xuyên trong kỳ kế hoạch tiếp theo. Trong bối cảnh mới, cần tăng cường vai trò của hội đồng khoa học của tổ chức trong tư vấn cho lãnh đạo và công đoàn của tổ chức KHXH về việc xác định số lượng, trình độ, tỷ lệ nhân lực của các lĩnh vực chuyên môn.
Thứ ba, đổi mới khâu tuyển dụng nhân lực KHXH
Cơ quan tuyển dụng đặt ra các tiêu chí tuyển dụng dựa vào ý tưởng khoa học, khả năng tiềm tàng trong nghiên cứu khoa học hoặc mức độ tiến bộ trong nghiên cứu khoa học sau thời gian thử việc. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu được đánh giá cao trong tuyển dụng. Sử dụng đội ngũ, tổ chức tuyển dụng chuyên nghiệp. Hiện nay, nhiều công ty tư vấn chuyên nghiệp về tuyển dụng nhân sự được nhiều tổ chức kinh tế, xã hội, doanh
nghiệp thuê làm tư vấn tuyển dụng (KPMG, Pricewaterhouse...). Chính tổ chức này là người chịu trách nhiệm về chất lượng tuyển dụng của mình đối với khách hàng là các tổ chức cần
tuyển dụng.
Thứ tư, xây dựng các quy định cụ thể, đồng bộ và hợp lý về thông tin, công bố, phát hành kết quả nghiên cứu KHXH
Các quy định phải bảo đảm tinh thần dân chủ và phát huy tốt vai trò phản biện của KHXH để các nhà nghiên cứu có cơ hội cống hiến ý tưởng khoa học một cách chủ động và hiệu quả hơn. Hiện nay, các nhà KHXH còn phân vân về quy định những gì được công bố, được phát ngôn bởi nhiều khái niệm, phạm trù liên quan đến công bố, phản biện xã hội chưa được xác định rõ ràng hoặc chưa phù hợp với KHXH, như lĩnh vực được phép phản biện, hình thức, quy trình, giới hạn phản biện,... cần tiếp tục được làm rõ và lấy ý kiến của cộng đồng KHXH. 
Thứ năm, khuyến khích xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh theo lĩnh vực chuyên môn hay hướng nghiên cứu thông qua tài trợ, trong đó thể hiện sự cam kết thu hút và cộng tác của các nhóm nghiên cứu mạnh.
Nếu trong quá trình hoạt động, phát hiện vi phạm, thì dừng tài trợ và chuyển sang cho nhóm khác. Có như vậy mới tránh sự hợp tác hay tạo dựng nhóm một cách hình thức, đối phó trong thực tế. Không ít nhà khoa học than phiền về việc tên tuổi của họ được ghi vào hồ sơ tuyển chọn nhưng sự tham gia của họ chỉ là hình thức. Đây là một vấn đề nghiêm trọng trong đạo đức nghề nghiệp. Nếu duy trì như vậy, sẽ không có sản phẩm chất lượng. Tuy nhiên, hỗ trợ hình thành nhóm nghiên cứu mạnh cũng phải xây dựng theo những tiêu chí khoa học.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KHXH thông qua việc coi trọng đào tạo tại chỗ, đào tạo qua nơi làm việc, coi trọng chất lượng đầu ra.
Cần có những chương trình đào tạo chuyên sâu, trong đó coi trọng phương pháp luận nghiên cứu khoa học và thực hành nghiên cứu trong quá trình đào tạo. Đối với các nước, sinh viên có điều kiện nghiên cứu bởi ưu thế về đội ngũ người hướng dẫn và nguồn lực tài chính, các trường  đại học đều có khả năng tạo ra nhân lực nghiên cứu. Nước ta hiện nay cũng đã mở rộng và khuyến khích sinh viên nghiên cứu, tuy nhiên, trong lúc nguồn lực (tài chính và người hướng dẫn) còn hạn chế, nên tập trung vào một số đối tượng hẹp để đào tạo cho nghiên cứu và giảng dạy trình độ cao (đại học trở lên)./.
---------------------------------------------
(1) Thuận An: Lương thấp, khó trung thành với nghiên cứu khoa học, website www.tin247.com, ngày 20-5-2008
(2) Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Tổ chức nhà nước, Chuyên đề phục vụ xây dựng Chiến lược Phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020: Thực trạng đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ và cơ chế chính sách, bộ máy quản lý nhà nước về khoa học - công nghệ,  Chủ nhiệm TS Hoàng Anh Tuấn, năm 2010, tr 17
Nguyễn Thị Anh Thư
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2011/424/Doi-moi-co-che-quan-ly-doi-voi-nhan-luc-hoat-dong.aspx