Những năm gần đây ở khu vực Đông Á đã và đang diễn ra
mạnh mẽ các hoạt động liên kết, hợp tác cùng phát triển giữa các quốc
gia với nhau. Sự Quá trình liên kết, hợp tác này có hai đặc điểm khác
biệt so với các thời kỳ trước thập niên 90. Thứ nhất, đó là sự
liên kết, hợp tác không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà ngày càng mở
rộngra trên nhiều lĩnh vực khác của đời sống văn hoá, an ninh, chính
trị-xã hội, văn hoá, an ninh và quốc phòng. Thứ hai, sự liên kết,
hợp tác này, như đã thấy, không chỉ diễn ra trong quan hệ song phương
giữa từng cặp quốc gia, mà đã nâng lên tầm cao mới, trở thành nhữngcác
mối quan hệ đa phương giữa nhiều quốc gia với nhau, giữa nhóm các quốc
gia với một hay một số quốc gia khác. Trong đó nổi bật lên các mối quan
hệ cơ bản sau:
- Quan hệ song phương và đa phương giữa các nước ASEAN.
- Quan hệ song phương giữa các nước ASEAN với một
trong các những quốc gia Đông Bắc Á là Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc
hay còn gọi là quan hệ ASEAN+1.
- Quan hệ đa phương giữa các nước ASEAN với cả ba nước Đông Bắc Á hay còn gọi là quan hệ ASEAN+3..
Như vậy quan hệ đa phương giữa các nước ASEAN với
Nhật Bản và Trung Quốc cũng có thể được coi là quan hệ ASEAN+2. Bài viết
này sẽ góp phần nghiên cứu về mối quan hệ đó ởnày trên một số khía
cạnh: (1) Những nhân tố nào nào của bối cảnh quốc tế và khu vực Đông Á
đã tác động đến quan hệ ASEAN-Nhật Bản-Trung Quốc;. (2) Mmột số động
thái chủ yếu của mối quan hệ đó trong thời gian gần đây;. (3) tTriển
vọng của quan hệ ASEAN-Nhật Bản-Trung Quốc.
1. Bối cảnh quốc tế và khu vực Đông Á của sự hình thành, phát triển quan hệ ASEAN-Nhật Bản-Trung Quốc
I. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC ĐÔNG Á CỦA SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN QUAN HỆ ASEAN – NHẬT BẢN – TRUNG QUỐC.
Kể từ sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh vào đầu thập
niên 90 đến nay, thế giới và khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói chung,
và khu vực Đông Á nói riêng đã có nhiều biến đổi sâu sắc về trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội,… khiến cho hầu hết các quốc
gia, lãnh thổ trong cùng một khu vực, thậm chí giữa các khu vực khác
nhau trên thế giới đều phải đibị cuốn theo một dòng chảy hội nhập vào xu
thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, và do đósự liên kết, hợp tác cùng phát
triển giữa các quốc gia, lãnh thổ ngày càng gia tăng mạnh mẽ hơn. Có thể
kể thấy rõ một số biến đổi cơ bản mà thực chất cũng chính là những nhân
tố quốc tế và khu vực đã tác động đến quá trìnhsự hình thành, phát
triển quan hệ liên kết, hợp tác ASEAN-Nhật Bản-Trung Quốc trong suốt hơn
một thập niên gần đây.
a.1. Từ thếgiới hai cực trong thời kỳ
Chiến tranh lạnh, thế giới ngày nay đã trở thành thế giới của nhất siêu
(Mỹ) và đa cường (ngoài các cường quốc cũ: Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức,
ÝI-ta-li-a, Ca-na-đa, Nga,… đã nổi lên một cường quốc mới đầy triển vọng
là Trung Quốc). khiến các cường quốc cũ, kể cả Mỹ cũng phải lo ngại -
đó là Trung Quốc ).
Riêng về Mỹ, cường quốc số một thế giới từ trước đến
nay đã trở thành siêu cường duy nhất với sức mạnh vượt trội cả về kinh
tế, khoa học-công nghệ và quốc phòng. Với vị thế áp đảođó đối với thế
giới, những năm gần đây Mỹ đã lộ rõ quyết tâm sử dụng sức mạnh vượt trội
của mình để giải quyết các công việc quốc tế. Thực tế là Mỹ đã phớt lờ
vai trò điều phối, can thiệp, và gìn giữ hoà bình thế giới của Liên Hợp
Quốc, cũng như sự phản đối của nhiều cường quốc khác và bất chấp cả dư
luận tiến bộ của thế giới để tiến hành cuộc xâm lược ở I-rắc (2003).
Không những thế, Mỹ đã lợi dụng danh nghĩa phát động
cuộc chiến chống khủng bố kể từ sau ssự ự kiện 11/9/2001 để đơn phương
đánh đòn phủ đầu, "gây sự" với những quốc gia giàu tài nguyên dầu lửa ở
Trung Đông, trong đó có I-rắc,, và đã tác động trực tiếp đến mối quan hệ
Mỹ-Israelxraen, do đó tác động đến trật tự của cả thế giới Ả-rập Hồi
giáo. Hệ quả liên quanlụy là nhiều khu vực trên thế giới, trong đó đặc
biệt có Đông Nam Á lại là khu vực có số dân theo đạo Hồi đông nhất thế
giới, cũng đã trở thành đối tượng"gây sự" của Mỹ.
Tình hình đó này làm cho tất cả các quốc gia, lãnh
thổ, kể cả một số trường hợp thân thiện với Mỹ ở khu vực Đông Á như Nhật
Bản, Hàn Quốc và một số nước thành viên ASEAN cũng phải lo ngại về sức
mạnh vượt trội với tham vọng "bá chủ thế giới" của " nhất siêu" này. Và
doTừ Do đó đã dẫn đến một tình xu thế chung hiện nay là hầu hết các quốc
gia, lãnh thổ đó nói trên đều phải chấp nhận sự tạm hoà dịu những mâu
thuẫn, bất đồng riêng để cùng liên kết, hợp tác tạo ra sức mạnh chung ở
khu vực nhằmđể ngăn chặn lại sức mạnh của Mỹ.
2b. Trong lĩnh vực an ninh-chính trị và
quốc phòng ở khu vực Đông Á, hiện vẫn đang tiềm ẩn một số mâu thuẫn về
tranh chấp lãnh thổ bao gồm cả vùng biển, hải đảo và không phận, trong
đó đáng ngại nhất là vấn đề Đài Loan, luôn gây căng thẳng quan hệ giữa
Trung Quốc với Mỹ và kể cả với Nhật Bản. Ngoài ra, còn có các mâu thuẫn
về tranh chấp lãnh thổ giữa Nhật Bản với Nga, giữa Trung Quốc với Nhật
Bản, giữa Trung Quốc với Việt Nam, giữa Trung Quốc với Bru-nây, giữa
Trung Quốc với Phi-líp-pin, giữa Trung Quốc với Ma-lai-xi-a; mâu thuẫn
về một số vấn đề do lịch sử để lại từ hậu quả chiến tranh xâm lược của
Nhật Bản hồi Thế chiến thứ hai đối với Trung Quốc, Hàn Quốc và một số
nước khác ở Đông Nam Á. Vấn đề thống nhất bán đảo Triều Tiên tuy đã hé
mở khả năng giải quyết song vẫn còn đầy chông gai, thách thức, chưa thể
giải quyết nhanh được, vì trước mắt cần phải giải quyết ổn thỏa cuộc
khủng hoảng hạt nhân ở Bắc Triều Tiên-- -vấn nạn nan giải lớn đang đe
doạ an ninh Đông Bắc Á và cả khu vực châu Á-Thái Bình Dương hiện nay.
Thực tế cho thấy, giải quyết những mâu thuẫn, bất
đồng nổi cộm trên đây hiện đã không còn chỉ là vấn đề của trực tiếp giữa
các chủ thể có liên quan mà đã trở thành vấn đề chung của khu vực Đông
Á, thậm chí của cả thế giới, đòi hỏi phải có sự thiện chí và quyết tâm
cao trong sự phối hợp đa phương các biện pháp giải quyết của giữa nhiều
quốc gia, lãnh thổ với nhau.
c3. Liên quan đến một số vấn đề chung khác
của thế giới, trong đó có khu vực Đông Á, hiện đang đòi hỏi tất cả các
quốc gia, lãnh thổ khác nhauphải có sự cùng quan tâm giải quyếtcủa tất
cả các quốc gia, lãnh thổ khác nhau, đó là các vấn đề an ninh môi
trường, sinh thái với các những hiểm hoạ thiên tai, dịch bệnh lan tràn
gần đây như hạn hán, lũ lụt, các bệnh dịch như HIV/AIDS, SARS, v.v…
Ngoài ra, một vấn đề chung khác và cũng là nguyên nhân khiến cho nhiều
quốc gia, lãnh thổ phải xích lại gần nhau hơn nữa (như trên đã phần nào
đề cập đến), đó là chủ nghĩa khủng bố đã trở thành hiểm hoạ lớn nhất của
thời đại ngày nay đối với hoà bình, an ninh chính trị, kinh tế, xã hội
của cả toàn thế giới. Ở khu vực Đông Á, đặc biệt là Đông Nam Á, vấn đề
này cũng đang rất nan giải trước nguy cơ tiềm ẩn của những mâu thuẫn tôn
giáo, sắc tộc, trong đó có một số điểm nóng như In-đô-nê-xi-a,
Phi-líp-pin và kể cả Thái Lan… Thực tế đó đã cho thấy việc chống lại chủ
nghĩa khủng bố không còn là vấn đề quan tâm riêng của riêng một quốc
gia, lãnh thổ nào đó mà đã trở thành vấn đề quan tâm chung của cả khu
vực và toàn thế giới.
4d. Cuối cùng, không thể không kể đến một
biến đổi lớn và cũng là một nhân tố lớn, rất sôi động đã tác động đến sự
hình thành, phát triển quan hệ liên kết, hợp tác ASEAN- Nhật Bản-Trung
Quốc, đó là những động thái mới trong lĩnh vực phát triển kinh tế khu
vực Đông Á kể từ đầu thập niên 90 cho đến nay. Trong lĩnh vực kinh tế,
suốt cả thập niên 90 cho đến nay, ở nhiều khu vực trên thế giới, đặc
biệt là ở Đông Á, vẫn tiếp tục diễn ra cuộc chạy đua phát triển kinh tế
giữaở hầu hết các quốc gia, lãnh thổ. Đặc điểm nổi bật của cuộc chạy đua
này là vừa liên kết, hợp tác vừa cạnh tranh cùng phát triển một nền
kinh tế tri thức, hội nhập nhanh vào các quá trình toàn cầu hoá, khu vực
hoá. Thực tế cho thấy do có nhiều nguyên nhân khác nhau chi phối khiến
cho động thái tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia, lãnh thổ đã rất không
đồng đều trong suốt hơn một thập niên qua. Nhật Bản mặc dù vẫn là nền
kinh tế lớn thứ hai thế giới, song đã bị chìm đắm trong khủng hoảng suy
thoái, một hoặc hai năm gần đây mới có dấu hiệu phục hồi trở lại. Trung
Quốc và một số quốc gia ASEAN (Việt Nam, Thái Lan, Xin-ga-po,
Ma-lai-xi-a…), và kể cả Hàn Quốc, Đài Loan vẫn giữ được đà tăng trưởng
khá ổn định, trong đó đáng chú ý Trung Quốc đã thể hiện là đầu tầu thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế ở khu vực Đông Á và thế giới trong hơn một thập
niên qua.Song
tThực tế cũng đã cho thấy cuộc chạy đua phát triển
kinh tế giữa các quốc gia, lãnh thổ mặc dùtuy là cuộc chạy đua cạnh
tranh không cân sức nhưng về cơ bản đã không thể theo kiểucạnh tranh
theo kiểu "sống còn", "cá lớn nuốt cá bé" như trước đây mà đòi hỏi phải
có sự liên kết, hợp tác cùng phát triển một nền kinh tế tri thức trong
thế cạnh tranh gay gắt trên tất cả các lĩnh vực: thương mại, đầu tư, tài
chính, khoa học-công nghệ… Minh chứng rõ nhất từ là cCuộc khủng hoảng
tài chính-tiền tệ khu vực Đông Á 1997-1998 , nó đã đã cho thấy, trong
thời đại toàn cầu hoá, khu vực hoá ngày nay, phát triển kinh tế bền vững
không chỉ là yêu cầu riêng của mỗi quốc gia, lãnh thổ mà đã trở thành
vấn đề quan tâm chung, yêu cầu chung của nhiềuđa quốc gia, lãnh thổ, của
cả khu vực Đông Á và rộng hơn là cả thế giới. Và thực tế cũng đã cho
thấy, để có được phát triển kinh tế bền vững phải có sự đồng tâm phối
hợp hành động của đa nhiều quốc gia, lãnh thổ với nhau, trong đó có vai
trò rất quan trọng của các tổ chức quốc tế và các nước lớn đóng vai trò
rất quan trọng. Hãycứ giả định, nếu như không có sự trợ giúp tài chính
của IMF, WB, ADB, của Mỹ, của Nhật Bản, v.v … và thiếu sự đoàn kết, nỗ
lực của các quốc gia, lãnh thổ Đông Á trong các giải pháp phối hợp khắc
phục thì chắc chắn rằng cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997-1998
không thể chỉ diễn ra chỉ trong thời gian ngắn như vậy, và nếu kéo dài
hơn thì nó sẽ còn để lại hậu quả tai hại lớn hơn như thếđến mức nào?
Từ một số biến đổi, và đồng thời cũng đã là những
nhân tố tác động cơ bản trên đây của tình hình thế giới và khu vực Đông Á
trong hơn một thập niên vừaqua, cho thấy cho có thể thấy dù muốn hay
không muốn, các quốc gia, lãnh thổ đều cần phải vượt qua những mâu
thuẫn, bất đồng riêng để cùng liên kết, hợp tác phát triển. Trong xu thế
đó, quan hệ đa phương giữa các nước ASEAN với Nhật Bản và Trung Quốc đã
được tiếp tục hình thành từtrên cơ sở các mối quan hệ song phương và đa
phương đã có từ trước ngày càng có điều kiện thuận lợi để phát triển
hơn trong một sốnhững năm gần đây. Dưới đây ta sẽ xem xét một số động
thái chủ yếu của mối quan hệ này.
2. Một số nét chủ yếu của quan hệ ASEAN-Nhật Bản-Trung Quốc trong thời gian gần đây
II. MỘT SỐ NÉT CHỦ YẾU CỦA QUAN HỆ ASEAN-NHẬT BẢN-TRUNG QUỐC TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
Như chúng ta đã biết quan hệ giữa ASEAN vớià Nhật Bản
và Trung Quốc là quan hệ của một tổ chức khu vực (thực thể đa quốc gia)
với một quốc gia có vị trí, vai trò ở khu vực và thế giới, và đang ngày
càng có nhiều đóng vai trògóp to lớn trong vào tiến trình sự phát triển
chung của khu vực Đông Á và cả thế giới.
Sau gần 40 năm phát triển ASEAN,sau gần 32 năm phát
triển, đã mở rộng thành phầnbao gồm toàn bộ 10 nước trong khu vực Đông
Nam Á. Trong năm 1994, Diễn đàn An ninh khu vực Đông Nam Á của các nước
ASEAN (ARF) cũng ra đời để thảo luận, hợp tác về những vấn đề an ninh
khu vực thông qua các biện pháp xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa
và giải quyết xung đột.Từ năm 1993 trong khuôn khổ ASEAN đã hình thành
khuôn khổ Khu vực Thương mại Tự do Đông Nam Á - (AFTA).Cũng trong năm
1993 Diễn đàn an An ninh khu vực Đông Nam Á của các nước ASEAN (ARF)
cũng đã ra đời để thảo luận, hợp tác trên những vấn đề an ninh khu vực
thông qua các biện pháp xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và giải
quyết xung đột. Đáng lưu ý là thành viên của ARF cho đến nay đã ngày
càng mở rộng ra cả ngoài khu vực Đông Nam Á, không chỉ bao gồm 10 nước
ASEAN ( trong đó bốn nước thành viên mới là: Việt Nam, Lào, Cămpuchia,
Mi-an-ma đã là thành viên của ARF trước khi gia nhập ASEAN ) mà còn thêm
cả 112 thành viên khác mở rộng trong cả toàn bộ khu vực châu Á-Thái
Bình Dương bao gồm Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, ấn Ấn Độ, Hàn Quốc,
CHDCND Triều Tiên, Ô-xtraây-li-a, Niu- dDi-lân, Mông Cổ, và Papua Niu
Ghinê, và Pa-ki-xtan. Đặc biệt có cả EU cũng là thành viên của ARF,. một
minh chứng về vị thế của ASEAN với vai trò của ARF đã được mở rộng
sangra cả châu Âu. Cho đến nay rất nhiều nước trên thế giới đã đánh giá
rất cao vị thế của ASEAN, đó là khu vực tập trung nhiều nền kinh tế năng
động, có nhiều thuận lợi cho sự phát triển, đặc biệt là có các nguồn
lực dồi dào về tài nguyên, lao động dồi dào. Thực tế cho thấy, đây đã và
đang tiếp tục là một khu vực rất quan trọng để thiết lập các mối quan
hệ về hợp tác phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, dịch vụ,
du lịch và đầu tư, v.v… và kể cả trênong các lĩnh vực văn hoá-xã hội,
an ninh, chính trị, an ninh, quốc phòng, bao gồm cả liên kết, hợp tác
chống khủng bố.
Chính do có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế
và khu vực châu Á-Thái Bình Dương như vậy, nên từ nhiều năm qua ASEAN đã
được Nhật Bản, và trong khoảng hơn thập niên gần đây, nhất là từ giữa
những năm 1990 đến nay, cũng đã được cả Trung Quốc cũng đặc biệt quan
tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác cùng phát triển vềtrên nhiều
lĩnh vực, trong đó trước hết và luôn luôn sôi động nhất vẫn là lĩnh vực
kinh tế. Trong bối cảnh đó, kể từ tháng 12/1997, hưởng ứng sự đề xuất
của ASEAN nhằm thực hiện chiến lược " cân bằng giữa các nước lớn " bằng
cách mở rộng phạm vi liên kết, hợp tác ra toàn bộ khu vực Đông Á, ba
nước Đông Bắc Á :là Nhật Bản, Hàn Quốc, và Trung Quốc đều đồng ý tiến
hành cùng với ASEAN tiến hành các cuộc hội nghị nguyên thủ quốc gia
thường niên vào dịp cuối năm với cả hai hình thức : ASEAN+3 ( Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc) và ASEAN+1 (Nhật Bản), ASEAN+1 (Hàn Quốc), ASEAN+1
(Trung Quốc). Cũng từ các cuộc gặp gỡ này, ASEAN đã lần lượt ký với các
nước đó "Tuyên ngôn hợp tác hướng tới thế kỷ 21". Năm 1999, sau khi
ASEAN mở rộng số lượng thành viên lên 10 nước thì cơ chế hợp tác giữa
ASEAN với Nhật Bản , Hàn Quốc, Trung Quốc cũng lần lượt trở thành cơ chế
hợp tác đa phương 10+3 và song phương 10+1. Trên cơ sở hội nghị nguyên
Nguyên thủ quốc gia, cơ chế 10+3 còn dần dần mở rộng đến sang hội nghị
bộ Bộ trưởng kinh Kinh tế, bộ Bộ trưởng ngoại Ngoại giao, thống Thống
đốc ngân Ngân hàng, bộ Bộ trưởng tài Tài chính. ASEAN còn sáng lập hoặc
tham gia sáng lập các tổ chức và diễn đàn hợp tác như "Hội nghị sau hội
nghị Ngoại trưởng ASEAN", "Diễn đàn khu vực ASEAN", "Tổ chức hợp tác
kinh tế châu Á-Thái Bình Dương", "Hội nghị nguyên thủ Thượng đỉnh Á-Âu",
"Diễn đàn Đông Á-Mỹ Latinh"… Trong vài năm gần đây, đặc biệt từ sau sự
kiện 11/9 đến nay, do việc Mỹ tăng cường hợp tác an ninh với ASEAN để
chống lại hiểm hoạ khủng bố nên vai trò quốc tế của ASEAN càng được coi
trọng.
Trong bối cảnh vị trí, vai trò quốc tế và khu vực của
ASEAN ngày càng gia tăng mạnh mẽ như vậy, tại Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN thứ VII ( Bru-nây,, năm 2001) và Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN thứ
VIII (Phnom PenhPênh, Campuchia, năm, 2002), ASEAN đã tiếp tục khẳng
định quyết tâm đẩy mạnh tiến trình AFTA và hợp tác toàn diện giữa các
nước ASEAN. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần VIII đã giao cho các bộ Bộ
trưởng nghiên cứu về " Ý tưởng cộng Cộng đồng kinh tế ASEAN", đồng thời
mở rộng hợp tác giữa ASEAN với ba nước Đông Bắc Á ( Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc).
Mới đây, tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ IX tại
Ba-li, In-đô-nê-xi-a, (2003), các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố hoà
hợp Ba-li II, gồm ba trụ cột là: Cộng đồng kinh tế, Cộng đồngchính trị, -
an ninh và Cộng đồng văn hoá-xã hội. Theo Tuyên bố này, đến năm 2020,
ASEAN sẽ xây dựng Đông Nam Á thành một cộng đồng các quốc gia phát
triển, hoà hợp trên cả ba lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh tế và văn
hoá. Tại Cũng tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEANthứ IX (2003), các nhà lãnh
đạo ASEAN+3 ( Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) đều cam kết tăng cường hợp
tác ASEAN+3, đề ra tiến trình từ nay đến năm 2010-2012 sẽ tạo lập xong
khu vực thương mại tự do giữa các nước ASEAN với Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc. Trong tương lai khu vực này và có thể còn mở rộngthêm cả với
cho Ô-xtraây-li-a và Niu- Ddi-lân tham gia, trở thành một cộng để Đông
Nam Á trong tương lai trở thành Cộng đồng kinh tế Đông Á mở rộng trong
tương lai như ý tưởng đã đượcmà Thủ tướng Nhật Bản Koizumi đề xuất năm
2002, trong đó ASEAN sẽ là hạt nhân liên kết, hợp tác của cCộng đồng
này..4
Cùng với sự bước tiến triển chung của quan hệ đa
phương ASEAN+3 (trong đó có quan hệ đa song phương ASEAN+21) như đã đề
cập ở trên, có thể thấy rõ cảsự tiến triển của các mối quan hệ đa song
phương ASEAN+2 (Nhật Bản, Trung Quốc) cũng đã gia tăng mạnh mẽ trong một
số năm gần đây như sau:
1a. Quan hệ ASEAN - Nhật Bản
Nhật Bản là nước rất nhiệt tình ủng hộ việc thành lập
khu Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á. Không những thế, gần đây (năm
2002) Thủ tướng Nhật Bản Koizumi đã thực hiện chuyến công du tới hầu hết
các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam, để nhằm đề xuất ý tưởng thành lập
khối cộng Cộng đồng kinh tế Đông Á mở rộng bao gồm ASEAN+3 (Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc) với Ô-xtra-âyli-a và Niu-Ddi-lân.. Nhật Bản cũng
đã đưa ra quyết định về việc "Xây dựng Quan hệ đối tác kinh tế toàn diện
với ASEAN" , giá trị xuất khẩu từ ASEAN sang Nhật Bản sẽ tăng lên 20,63
tỷ USD, tương đương với 44,2% tổng giá trị xuất khẩu của ASEAN vào năm
1997, giá trị xuất khẩu từ Nhật Bản sang ASEAN sẽ tăng lên 22,022 tỷ
USD, tương đương với 27,5% tổng giá trị nhập khẩu của ASEAN trong năm
1997.. Để đạt được mục tiêu đóđó, Nhật Bản đã chủ động xúc tiến ký kết
các hiệp định tự do thương mại song phương với các đối tác ASEAN, và kể
cả với một số nước khác ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Cụ thể, năm
2002 Nhật Bản đã ký kết Hiệp định Thương mại tự do với Xing-ga-po, năm
2004 Nhật đã ký với Ô-xtra-âyli-a và sắp tới có thể ký với Thái Lan và
các nước khác, trong đó có Việt Nam. Riêng với Việt Nam, năm 2003 Nhật
Bản đã ký với Việt Nam Hiệp định Khuyến khích và bBảo hộ đầu tư nước
ngoài. Đó cũng là một bước đệm quan trọng cho việc Nhật Bản sẽ ký tiếp
Hiệp định Thương mại tự do song phương trong tương lai với Việt Nam. Đặc
biệt là tháng 12/2003 vừa qua nhân dịp kỷ niệm 30 năm kỷ niệmcông nhận
năm này là năm Năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật Bản - ASEAN, tại
Tokyo đã có diễn ra cuộc Hội nghị cấp cao Nhật Bản-ASEAN. Đây cũng là
cuộc họp cấp cao ASEAN đầu tiên được tổ chức ở ngoài lãnh thổ ASEAN. Tại
Hội nghị này, với chủ đề "Cùng hành động, cùng tiến lên", Thủ tướng
Koizumi đã đưa ra 5 sáng kiến, trong đó có sáng kiến thiết lập "Đối tác
kinh tế tổng thể Nhật Bản-ASEAN",. Theo theo sáng kiến này,đó Nhật Bản
sẽ hỗ trợ việc củng cố nhất thể hoá của ASEAN thông qua các hoạt động
nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN,
thông qua việc ủng hộ các sáng kiến và chương trình khu vực then chốt
như sáng kiến nhất thể hoá ASEAN, phát triển khu vực Mê-kông, khu vực
phát triển Bru-nây -– In-đô-nê-xi-a -– Ma-lai-xi-a -– Phi-líp-pin - Đông
ASEAN, v.v…
2b. Quan hệ ASEAN - Trung Quốc
Nhận thức được những lợi ích to lớn từ việc tăng
cường quan hệ hợp tác toàn diện với ASEAN, nhất là trong lĩnh vực kinh
tế, những năm gần đây Trung Quốc đã đặc biệt quan tâm đến ASEAN. Có thể
nói rằng, giữa Trung Quốc và Nhật Bản, cả hai đều đang trong cao trào
tăng cường các quan hệ liên kết, hợp tác phát triển kinh tế, đặc biệt là
trong lĩnh vực thương mại và đầu tư,; nhưng đồng thời cũng đang là các
những đối thủ cạnh tranh đáng gờm của nhau trong việc cùng khai thác các
những lợi ích kinh tế thu được trong quan hệ với ASEAN. Còn nhớ rõ là
trước liên tục các sự kiện liên tục đã xảydiễn ra với Việc Trung Quốc:
(năm 2000, Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm
2000 và, và năm 2001 Trung Quốc Trung Quốc xúc tiếnxong việc ký kết với
các nước ASEAN một Hiệp định khung cam kết sẽ tiến tới thành lập khu vực
mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc vào năm 2010 đã khiến cho Nhật Bản sốt
ruột và lo ngại về sức cạnh tranh đó của Trung Quốc.Vàthế Thế là, đã Sau
đó có ngay một loạt chuyến công du của Thủ tướng Nhật Bản Koizumi đến
các nước ASEAN trong năm 2002 như đã đề cập đếnnói ở trên… để thúc đẩy
quan hệ Nhật Bản-ASEAN.
Thực tế đã cho thấy, mặc dù ASEAN và Trung Quốc cũng
đang là những đối thủ cạnh tranh trong việc để giành giật thị trường
thương mại và đầu tư từ Nhật Bản và một số thị trường khác trong khu vực
châu Á-Thái Bình Dương, song do tận dụng được việc trao đổi các lợi thế
so sánh của nhau nên những năm thời gian gần đây quan hệ thương mại
song phương giữa hai bên đã gia tăng mạnh. Buôn bán giữa Trung Quốc và
ASEAN năm 1991 chỉ có 7,9 tỷ USD, nhưng đến năm 2002 đã lên tới 39,5 tỷ
USD, bình quân hàng năm tăng trên 20%, riêng năm 2002 tăng 32%., trong
đó nhập khẩu của Trung Quốc từ ASEAN tăng 34,4%. Đã 10 năm liền ASEAN là
bạn hàng lớn thứ 5 của Trung Quốc.6
Điều cần lưu ý là cũng từ việc Trung Quốc đã ký kết
Hiệp định cam kết thành lập khu Khu vực mậu dịch tự do (FTA) với ASEAN
vào năm 2010 đã tạo ra một hiệu ứng lan toả về cạnh tranh thương mại
song phương và đa phương giữa một số nước trong khu vực như Nhật Bản,
Hàn Quốc,. ấn Ấn Độ và Mỹ cũng đang tìm cách ký các Hiệp định thương mại
tự do với ASEAN.
Ngoài lĩnh vực kinh tế, mới đây vào tháng 10/2003 tại
Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN thứ IX ở Ba-li (In-đô-nê-xi-a), Trung Quốc
cũng đã ký với ASEAN Tuyên bố chung về Đối tác chiến lược vì Hoà hoà
bình, Thịnh thịnh vượng, cam kết cùng tích cực chống chủ nghĩa khủng bố.
Bộ quy tắc ứng xử biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc mặc dù vẫn
đang trong quá trình chuẩn bịsoạn thảo, tuy nhiên bước khởi đầu là Tuyên
bố ứng xử của các bên liên quan về biển Đông được hai bên thông qua
tháng 11/2001 cũng đã là cơ sở quan trọng đảm bảo an ninh lưu thông hàng
hải của cả hai bên ASEAN và Trung Quốc, góp phần tích cực vào giữ gìn
trật tự an ninh lãnh hải của khu vực Đông Nam Á nói riêng và Đông Á nói
chung.
3c. Quan hệ Nhật Bản- – Trung Quốc
So với hai mối quan hệkể trên ASEAN- – Nhật Bản và
ASEAN- – Trung Quốc, thì mối quan hệ Nhật Bản- – Trung Quốc có phức tạp
hơn vì đã trải qua nhiều bước thăng trầm khác nhau. Là hai nước láng
giềng có nhiều nét tương đồng về các điều kiện địa lý tự nhiên, nhất là
về đời sống văn hoá - xã hội, song lịch sử cũng đã ghi nhận giữa hai
nước này có suốt một thời kỳ dài đã làcó quan hệ thù địch, do quân đội
phát xít Nhật xâm lược đã từng đã gây ra nhiều tội ác đối với nhân dân
Trung Quốc thời kỳ Thế chiến thứ hai. Tiếp đó, trong suốt thời kỳ cChiến
tranh lạnh,do đối kháng về hệ thống chính trị, một bên là đồng minh của
Mỹ (Nhật Bản), còn một bên là liên minh với Liên Xô cũ (Trung Quốc), vì
thếcho nên về thực chất quan hệ Nhật- – Trung khi đó tuy dù đã được
chính thức có thiết lập chính thức quan hệ ngoại giao trước cả quan hệ
Trung- – Mỹ, song giữa hai nước nhưng vẫn còn bị nhiều gặp trở ngại bởi
một màn chắn sương mù chưa thể xoá sạch. nên không thể tiến triển được.
Chiến tranh lạnh kết thúc,bước vào thập niên 1990,
trong bối cảnh hoà bình, hợp tác cùng phát triển là xu thế chung của thế
giới và khu vực, quan hệ giữa hai nước đã "nồng ấm" dần lên, đặc biệt
là kể từ nửa đầu thập niên này90, khi Nhật Bản được Trung Quốc coi là
bước đột phá khẩu nhằm phá gỡ bỏ "vành đai đen" do Mỹ và phương Tây dựng
lên sau sự sự kiện Thiên An Môn. Từ đó đến
nay, tuy chưa hết trở ngại, bất cập, song quan hệ
Nhật- – Trung trên thực tế đã có nhiều chuyển biến ngày càng tích cực
hơn. hơn Cả hai bên đềuđã nhận thức được cần phải tạm gác lại những mâu
thuẫn, bất đồng đã cótừng tồn tại để xích lại gần nhau trong liên kết,
hợp tác cùng phát triển. Nguyên nhân của sự có đượcdẫn đến nhận thức
này, ngoài lý do tác động của những nhân tố bối cảnh quốc tế và khu vực
Đông Á như đã đề cập ở trênđến, còn có một lý do rất quan trọng, đó là
hai bên đều thấy cần phải tranh thủ hợp tác khai thác các những lợi thế
so sánh của mỗi bên để trao đổi với nhau trong tất cả các lĩnh vực, nhất
là về lĩnh vực kinh tế, – khoa học và công nghệ. Nhật Bản rất cần Trung
Quốc, ở với lợi thế là một thị trường thương mại, đầu tư và lao động
khổng lồ với có sức mua lớn và giá nhân công rẻ. Ngược lại Trung Quốc
rất cần Nhật Bản ở lợi thế về vốn đầu tư và khoa học-công nghệ cao.
Chính vì thế, Trung Quốc đã xác định quan hệ kinh tế với Nhật Bản là một
trong những nội dung quan trọng nhất, mang ý nghĩa chiến lược trong
chính sách kinh tế đối ngoại của Trung Quốc. Thực tế đã cho thấy, từ năm
1993 đến nay, Nhật Bản vẫn là bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc và Trung
Quốc là thị trường lớn thứ hai sau Mỹ của Nhật Bản sau Mỹ. Năm 2002,
KNXNK kim ngạch xuất nhập khẩu Trung - Nhật đạt 101,6 tỷ USD, tăng gần
100 lần so với mức 1,1 tỷ USD năm 1972. Trong đó, nếu chỉ tính riêng về
xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản thì Trung Quốc đã vượt Mỹ và trở
thành nước xuất khẩu lớn nhất vào thị trường Nhật Bản năm 2002, đạt kim
ngạch 61,7 tỷ USD so với 57,6 tỷ USD của Mỹ. Về đầu tư, trong suốt hơn
20 năm Trung Quốc cải cách mở cửa, Nhật Bản luôn là nhà đầu tư lớn thứ
hai hoặc thứ ba ở Trung Quốc. Từ năm 1998 đến nay vì Hồng Kông đã trở về
Trung Quốc nên đã nâng vị trí Nhật Bản đã nâng lên trở thành nhà đầu tư
lớn thứ nhất hoặc thứ hai ở Trung Quốc.7. Ngoài ra Trung
Quốc còn thu được lợi ích lớn từ nguồn tài trợ ODA của Nhật Bản đã dành
cho từ nhiều năm qua. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường,
cho đến năm 1997, Nhật Bản đã viện trợ không hoàn lại cho Trung Quốc 120
triệu USD. Bắt đầu từ năm 2001, trong số 16 hạng mục mà Trung Quốc được
Nhật Bản cho vay vốn với lãi suất ưu đãi thời gian dài, có tới 9 hạng
mục về môi trường.8…
Đương nhiên quan hệ Nhật-Trung có những chuyển biến
tích cực như vậy không chỉ đơn thuần là do những lợi ích kinh tế thu
được trên đây, đã làm cho quan hệ Nhật-Trung có những chuyển biến tích
cực như vậy mà còn có cả một lý do rất quan trọng, đó là nó phù hợp với
lợi ích chính trị của cả hai bên.: Nhật Bản muốn trở thành nước có vị
thế chính trị ngày càng lớn hơn trên thế giới và mà trước hết là ở khu
vực Đông Á, vì thế Nhật Bản cần thông qua cầu nối kinh tế để tạo dựng uy
tín nước lớn đối với Trung Quốc, với các nước ASEAN và với tất cả các
nước ở Đông Á. Trong khi đó, Trung Quốc muốn "thân thiện" với Nhật Bản
làvìTrung Quốc đang cần sự hỗ trợ mạnh về kinh tế- –và khoa học công
nghệ của Nhật Bản, nhưng đồng thời cũng là đểnhằm thiết lập được môi
trường xung quanh hoà bình và ổn định xung quanh mình để tập trung phát
triển kinh tế. Việc duy trì tốt mối quan hệ Trung-Nhật sẽ giúp Trung
Quốc nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế nói chung và trong
quan hệ với Mỹ nói riêng. Quan hệ Thân thân thiện với Nhật đã được Trung
Quốc coi như là một công cụ dùng để cân bằng quan hệ với các nước lớn
khác, nhất là với Mỹ và phương Tây. Không những thế, thân thiện với Nhật
còn giúp Trung Quốc giải toả bớt sức ép của liên minh Mỹ- – Nhật đối
với an ninh Đông Á, và hơn thế nữa cũng có tác dụng làm giảm bớt những
căng thẳng về vấn đề Đài Loan trong quan hệ Trung- – Mỹ.9
Chính vì những chuyển biến tích cực
trên đây trong quan hệ Nhật Bản- – Trung Quốc, hai nước lớn ở Đông Á, đã
góp phần khiến cho xu thế liên kết, hợp tác cùng phát triển ở Đông Á
gia tăng nhanh chóng trong vài năm gần đây, trong đó nổi bật nhất như đã
đề cập đến đó là các mối quan hệ ASEAN + 3, ASEAN + 1 và đương nhiên có
cả quan hệ ASEAN + 2 (Nhật Bản, Trung Quốc) mà chúng ta vừa xem xét ở
những động thái chủ yếu nhất .
3III. Triển vọng quan hệ ASEAN- – Nhật Bản-Trung Quốc.
Sự pPhân tích về những nhân tố quốc tế và khu vực
Đông Á tác động đến quan hệ ASEAN- – Nhật Bản- – Trung Quốc, cho thấy đó
đây là những nhân tố khách quan, tất yếu quy định tính tất yếu của sự
hình thành và phát triển của quan hệ này. là một tất yếu.
Sự Kết quả phân tích một số động thái chủ yếu nhất
diễn ra trong quan hệ ASEAN- – Nhật Bản- – Trung Quốc những năm gần đây
đã cho thấy đó đây là những động thái chủ quan xuất phát từ chính nhu
cầu phát triển của mỗi thực thể ASEAN, Nhật Bản và Trung Quốc, bước đi
tất yếu trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá hiện nay.
Từ đó, cho ta thấy triển vọng quan hệ ASEAN- – Nhật
Bản- – Trung Quốc sẽ có thể sẽ có những chuyển biến tích cực, khả quan
hơn nữa và hy vọng rằng mối quan hệ đó sẽ tiến lên những tầm cao mới, mà
đỉnh cao là Cộng đồng Đông Nam Áđạt đến vào năm 2020 như đã ghi trong
Tuyên bố hoà hợp Ba-li II (2003). đã nêu, sẽ là một khối cộng Cộng đồng
Đông Nam Á, mở rộng ra cả khu vực Đông Á, trên cả 3 lĩnh vực trụ cột :
kinh tế, chính trị - an ninh và văn hoá - xã hội.
Đương nhiên để đạt được như vậy, đòi hỏi cả 3ba thực
thể ASEAN, Nhật Bản và Trung Quốc phải thực sự thiện chí, đoàn kết, nỗ
lực phối hợp đa phương các giải pháp đa phương hữu hiệu nhất để vượt qua
một số trở ngại, thách thức lớn nhất sau đây:.
Trước hết, với Nhật Bản, mặc dù nhiều năm
qua Nhật Bảnnước này với vị thế là cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế
giới đã có nhiều nỗ lực giúp các nước khác cùng phát triển, nhằm mục
tiêu phấn đấu để tiến tới vị thế là cường quốc chính trị trên thế giới
và nhất là ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Đông Á và Đông
Nam Á, song những người dân Trung Quốc và ASEAN vẫn chưa thể quênhết
được những tội ác hành động do quân đội phát xít Nhật gây ra cho đất
nước họ hồi Thế chiến thứ hai. Việc Nhật Bản gần đây năm 2001 đã sửa đổi
sách giáo khoa lịch sử về sự thật xâm lược gây đầy tội ác của quân đội
phát xít Nhật đối với Trung Quốc và một số nước khác ở châu Á, và việc
Thủ tướng Koizumi liên tục đến thăm đền Yasukuni trong thời gian qua để
tưởng nhớ những người đã chết trong Thế chiến thứ hai, trong đó có cả
những tội phạm chiến tranh, đã bị Trung Quốc kịch liệt phản đối. … không
thể không khiến dư luận chú ý. Ngược lại, về phía Trung Quốc trong thời
gian gần đây có một số vụ việc mới xảy ra đã gây ra làn sóng bất bình
phản đối Trung Quốc của trong người dân Nhật. Đó là vụ 3ba sinh viên
Trung Quốc đã giết hại dã man một gia đình Nhật Bản có hai đứa trẻ và
cha mẹ chúng ở Fukuoda vào tháng 6/2003; –, chỉ để lấy được có 350 USD
từ một máy rút tiền ngân hàng; và đến ngày 24/3/2004, 7 người Trung Quốc
đã bị cảnh sát Nhật bắt giữ 7 người Trung Quốc vì tội đổ bộ trái phép
lên Uotsuri- Shima, một hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Senkaku (người Trung
Quốc gọi là Điếu Ngư),còn người Đài Loan gọi là Điếu Ngư Đài) hiện
đangbị tranh chấp giữa Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan.10 …
Ngoài ra, có một tâm lý chung của nhiều người dân
Trung Quốc và cả ASEAN là đều lo ngại Nhật Bản gần đây đã đang tận lợi
dụng sự quan hệ liên minh chặt chẽ với Mỹ trong cuộc chiến chống khủng
bố (dù là ở khía cạnh hỗ trợ nhân đạo)nên đã quyết tâm để tiến tới sửa
điều 9 Hiến pháp Nhật Bản, thực hiện quyền chủ động tấn công phòng vệ và
đưa quân đội ra bên ngoài tham gia vào các hoạt đồng động quốc tế và
khu vực, và như vậy nguy cơ phục hồi lại "Chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản"
là có thể.11
Một vấn đề nữa cũng còn là trở ngại trong quan hệ
Nhật- – Trung đó là vấn đề Đài Loan. Mặc dù Nhật Bản vẫn tuyên bố theo
đuổi chính sách "một nước Trung Quốc" nhưng do liên minh chặt chẽ với Mỹ
nên Nhật đã không tỏ rõ thái độ nhiệt tình ủng hộ Trung Quốc về trên
vấn đề này. Thực tế là Nhật Bản vẫn tranh thủ mọi quan hệ nhất định,
nhất là quan hệ kinh tế với Đài Loan, và xem ra về thực chất có thể Nhật
ũng chưa muốn Trung Quốc-Đài Loan thống nhất ngay,Đài Loan trở về với
Trung QuốcTrung Quốc - Đài Loan là một nước ngay, vì như thế sẽ trực
tiếp ảnh hưởng đến môi trường an ninh xung quanh Nhật Bản. nếu như Đài
Loan trở về với Trung Quốc
Thứ hai, với Trung Quốc , mặc dù ASEAN và
Nhật Bản đều muốn tăng cường hơn nữa các mối quan hệ, đặc biệt là quan
hệ kinh tế với cường quốc mới này để thu được các những lợi ích to lớn
như phần trên đã được đề cập đến, song cả ASEAN và Nhật Bản đều có chung
mối lo ngại về sự lớn mạnh và khả năng bành trướng sức mạnh đó của
Trung Quốc vì những lý do riêng sau đây:.
Nhật Bản (và cả Mỹ) lo ngại Trung Quốc tương lai sẽ
trở thành siêu cường cả về kinh tế, chính trị- – , khoa học công nghệ và
quốc phòng và do đó sẽ làm lung lay vị thế của Mỹ đối với thế giới và
của Nhật Bản đối với châu Á- Thái Bình Dương mà trước hết là ở Đông Á .
Không những thế, với Nhật Bản còn mốicó lo ngại khác nữa là sẽ nguy cơ
đe doạ trực tiếp an ninh của Nhật Bản vì Trung Quốc là nước láng giềng
kề cận với Nhật. Điều này cho thấy tính hai mặt của quan hệ Nhật- –
Trung, cả hai bên vừa tích cực hợp tác phát triển song lại vừa cố gắng
kiềm chế lẫn nhau trong quá trình cạnh tranh phát triển. Minh Bằng chứng
rõ nhất gần đây là sau khi thấy Trung Quốc gia nhập WTO và ký Hiệp định
khung tiến tới thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN- – Trung Quốc vào
năm 2010, thì Nhật Bản cũng vội vã xúc tiến ý tưởng mở rộng cộng Cộng
đồng kinh tế Đông Nam Á ra khu vực Đông Á và cũng đề xuất với ASEANsẽ ký
Hiệp định Thương mại tự do ASEAN- – Nhật Bản vào cuối thập niên này
hoặc một số năm đầucủa thập niên sau, cho dù bản thân Nhật Bản cũng biết
rằng việc ký một Hiệp định như vậy sẽ gặp vấp phải khá nhiều gian nan
giải gặp nhiều sự chống đối trong nước, trước hết là vấp phảitrở ngại
của một chính sách bảo hộ nông sản đã trở thành "thâm căn cố đế" từ
nhiều thập niên qua.
Về phía các nước ASEAN, họ cũng đang lo ngại sự lớn
mạnh của Trung Quốc ở một số khía cạnh như : sẽ bị sức cạnh tranh kinh
tế, đặc biệt là thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của Trung Quốc
lấn át; khó có thể giải quyết xong với Trung Quốc những tranh chấp ở
biển Đông vì hầu hết các nước ASEAN như Việt Nam, Bru-nây, Phi-líp-pin,
Ma-lai-xi-a đều có dính líu đến tranh chấp một số đảo và lãnh hải với
Trung Quốc. Hơn nữa; vấn đề Đài Loan cũng đang là nhân tố nhạy cảm thử
thách quan hệ Trung Quốc với các nước ASEAN vì thực tế cho thấy nhiều
nước này đều có quan hệ khá mật thiết với Mỹ, mà Mỹ thì lại bất đồng với
Trung Quốc về vấn đề Đài Loan;. Mặt khác, vấn đề người Hoa ở các nước
ASEAN cũng là một trở ngại trong quan hệ ASEAN - Trung Quốc, vì xử lý
vấn đề này không khéo rất dễ xảy ra mâu thuẫn dân tộc gay gắt, dẫn đến
mâu thuẫn với Trung Quốc.
Cuối cùng, đối với ASEAN là một tổ chức
cộng đồng của 10 nước Đông Nam Á, tuy có nhiều điểm tương đồng và ngày
càng trong đi vào xu thế liên kết, hợp tác chặt chẽ hơn, song nếu xét về
thực chất đó vẫn chỉ là tập hợp của các nước có trình độ kinh tế phát
triển khác nhau.
Bảng 1: So sánh một số chỉ tiêu cơ bản về trình độ phát triển của các thành viên ASEAN + 3
Tên nước
|
Diện tích (km2)
|
Xếp hạng TG
|
Dân số
2001 (nghìn người) |
Xếp hạng TG
|
GDP 2001 giá thực tế (triệu USD)
|
Xếp hạng TG
|
GDP tính theo sức mua tương đương (PPP),
giá trị năm 2000 (triệu USD) |
|
1 |
Trung Quốc |
9.598.050
|
4
|
1.271.900
|
1
|
1.159.017
|
6
|
5.057,.472
|
2 |
Nhật
|
377.800
|
60
|
127.100
|
10
|
4.245.191
|
2
|
3.399.155
|
3 |
Hàn Quốc
|
99.260
|
107
|
47.645
|
26
|
422.167
|
12
|
834.240
|
Cộng 3 nước Đông Bắc Á
|
10.075.110
|
1.446.645
|
5.826.375
|
9.290.8679.291.881
|
||||
ASEAN
|
||||||||
1 |
Bru-nei
|
5.770
|
162
|
345
|
169
|
4.123
|
111
|
5.796
|
2 |
Caăm-pu-chia
|
181.040
|
87
|
12.266
|
65
|
3.384
|
128
|
12.145
|
3 |
In-đô-nê-xi-adonesia
|
1.904.570
|
15
|
213.638
|
4
|
145.306
|
30
|
651.202
|
4 |
Làoaos
|
236.800
|
80
|
5.403
|
104
|
1.712
|
139
|
8.505
|
5 |
Ma-lay-sxi-a
|
329.750
|
64
|
23.796
|
42
|
87.540
|
42
|
217.632
|
6 |
Mi-an-mar
|
676.580
|
39
|
48.315
|
25
|
39.172
|
56
|
57.600
|
7 |
Phi-líp-pines
|
300.000
|
70
|
77.015
|
14
|
71.438
|
44
|
305.767
|
8 |
SXing-ga-pore
|
620
|
176
|
4.103
|
120
|
85.648
|
41
|
93.424
|
9 |
Thái Lanailand
|
513.120
|
49
|
61.238
|
19
|
114.760
|
32
|
390.522
|
10 |
Vieệt nNam
|
329.241
|
65
|
78.686
|
13
|
31.513
|
58
|
155.688
|
Cộng 10 nước ASEAN
|
4.477.491
|
524.805523.805
|
584.596
|
1.898.2811897.881
|
||||
Cộng 13 nước
|
14.552.60114.552.501
|
1.971.4501.970.450
|
6.410.971
|
11.189.1481189.148
|
Nguồn: Tổng cục Thống kê. Số liệu kinh tế-xã hội các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, NXB Thống kê, Hà Nội, 2002.
Ngoài một số nước ở trình độ đang phát triển loại
trung đến khá căn cứ theo tổng GDP năm 2001 như In-đô-nê-xi-a, Thái Lan,
XXing-ga-po, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, còn chủ yếu vẫn là các nước
nghèo (xem bảng 1). mang nặng dấu ấn phong kiến lạc hậu của những người
nông dân châu Á từ ngàn xưa. Đặc điểm này chắc chắn vẫn còn là trở ngại,
tạo nên những lực cản trong quá trình liên kết, hợp tác phát triển. Đã
có không ít nhận xét cho rằng các hoạt động của ASEAN hầu như mới chỉ
dừng lại nhiều ở mức độ sáng kiến tại các diễn đàn, cuộc họp, trên thực
tế triển khai còn ít và mang tính lẻ tẻ, rời rạc. Ngoài ra, còn có một
đặc điểm khác cũng có thể coi là trở ngại của ASEAN, đó là lợi thế so
sánh của hầu hết các nước thành viên là không thể hiện rõ rệt., vì thực
Thực tế cho thấy các nguồn lực tài nguyên, lao động, từ đóvà cácsản phẩm
tạo ra hầu như là chưa có sự khác biệt lớn., Ddo đó trong quan hệ kinh
tế, đặc biệt là thương mại trao đổi hàng hoá-dịch vụ, giữa các nước này
chắc chắncòn tiếp tục có gặp nhiều khó khăn.
Như vậy, toàn bộ những phân tích trên đây cho thấy,
quan hệ ASEAN- – Nhật Bản- – Trung Quốc là sáng sủa nếu nhìn về xu thế
phát triển của con đường hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá, khu vực
hoá. Tuy nhiên như đã đề cậpnói, trên con đường đó vẫn còn quá nhiều trở
ngại, đòi hỏi tất cả các thực thể của mối quan hệ đa phương này phải có
nỗ lực phấn đấu cao. Trước hết là phải có thiện chí liên kết, hợp tác
chặt chẽ thực sự, vượt qua những quá khứ mâu thuẫn, bất đồng trong lịch
sử, cố gắng giải quyết ổn thoả các vấn đề mâu thuẫn, bất đồng trong hiện
tại để cùng hướng tới tương lai phát triển của một cộng đồng kinh tế,
chính trị, văn hoá-xã hội và an ninh-quốc phòng ở Đông Á. Đương nhiên
trên con đường phát triển này, cả ba thực thể ASEAN-Nhật Bản-Trung Quốc
đều phải luôn nhận thức rằng sự phát triển của cộng Cộng đồng Đông Á
không thể không tính đến sự cân bằng hài hoà trong sự phát triển chung
của toàn cầu, đặc biệt là sự phát triển quan hệ với các nước lớn khác,
trong đó đáng quan tâm nhất là với Mỹ./