PGS.TS.
NGUYỄN VĂN DÂN
Ngày nay, có ý kiến cho
rằng chủ nghĩa hiện đại đã được thay thế bằng chủ nghĩa hậu hiện đại; rằng thời
kỳ hiện đại đã chấm dứt và bây giờ là thời kỳ hậu hiện đại. Tuy nhiên, thực chất
cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại có phải chỉ là sự ảnh hưởng hay sự nối dài của
chủ nghĩa hiện đại không? Chúng tôi xin trình bày lại vấn đề này như sau.
1. Khái niệm “[chủ nghĩa] hậu hiện đại” ở
Việt Nam
Có lẽ thuật ngữ “hậu hiện đại” xuất hiện trên báo chí nước
ta lần đầu tiên là từ năm 1991, trong bản dịch một bài viết của Antonio Blach (Tây
Ban Nha), nhan đề: “Vài suy nghĩ về cái gọi là tiểu thuyết hậu hiện đại” (Tạp chí văn học, số 5-1991). Từ đó đến nay,
nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ Việt Nam đã nói nhiều đến hậu hiện đại. Gần
đây, trên báo Văn nghệ số 18+18 ngày
30-4-2011, PGS.TS. Lê Huy Bắc có bài viết “Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại và truyện
ngắn hậu hiện đại”, trong đó tác giả tiếp thu ý kiến của một số tác giả nước ngoài
để khẳng định như đinh đóng cột rằng chủ nghĩa hậu hiện đại đã “bắt đầu từ thơ Đađa
(1916), truyện của Franz Kafka (1883-1924) và kịch phi lý từ những năm 1950”. Và
gần đây nhất, tháng 8-2011, GS. Phương Lựu đã cho xuất bản cuốn sách Lý thuyết văn học hậu hiện đại, trong đó
ông tập hợp các bài đã viết về một số lý thuyết nghiên cứu văn học xuất hiện từ
khoảng giữa thế kỷ XX mà trước đây được ông gọi là hiện đại thì nay ông lại gọi
là hậu hiện đại. Có thể nói, thuật ngữ “hậu
hiện đại” đang trở thành một cái mốt trong các diễn đàn văn học.
Lý do lên ngôi của khái niệm “hậu hiện đại” một phần là
do trong giới văn nghệ nước ta đang có sự hẫng hụt về chủ nghĩa hiện đại. Nhiều
người không biết chủ nghĩa hiện đại có bao nhiêu trào lưu và những tác giả tiêu
biểu của chúng là ai. Đến khi gần đây thấy có người nói đến hậu hiện đại, thế là người ta chỉ biết có
hậu hiện đại và nghiễm nhiên coi các trào lưu hiện đại trong văn nghệ xuất hiện
từ đầu thế kỷ XX là hậu hiện đại.
Có người thấy người nước ngoài nói chủ nghĩa hậu hiện đại
có gốc rễ từ chủ nghĩa Đađa (đầu thế kỷ XX), thế là cứ nghiễm nhiên đi dạy cho học
sinh rằng chủ nghĩa hậu hiện đại có từ thời Đađa... Thậm chí như GS. Phương Lựu,
trong khi viết giáo trình Lý luận văn học
(xuất bản lần đầu thành ba tập vào những năm 1986-1988, đến năm 1997 tái bản thành
một tập và tiếp tục tái bản đến lần thứ 5 vào năm 2006) vẫn xếp “tiểu thuyết mới”
và “kịch phi lý” - những trường phái văn học giữa thế kỷ XX - vào trong số các
“chủ nghĩa hiện đại”, sau đó thấy nói đó là hậu hiện đại, thì trong các bài viết
khác của mình từ năm 2000, ông lại quay sang nói là “hậu hiện đại”, nhưng có điều
lạ là ông vẫn giữ nguyên quan điểm của mình về các chủ nghĩa hiện đại nói trên trong
các lần tái bản cuốn sách lý luận kia. Tiếp đến khi viết lại bộ giáo trình lý luận
này thành ba tập, với tập 1 được xuất bản lần đầu từ năm 2001 và tái bản lần ba
vào năm 2009 (với tập 3 có liên quan đến vấn đề ở đây đã được xuất bản lần đầu vào
năm 2005 và tái bản lần ba vào năm 2009), ông đã có ý thức cắt những hiện tượng
văn học nói trên cho sang phần nói về “chủ nghĩa hậu hiện đại”, nhưng vẫn để sót
“tiểu thuyết mới” ở phần nói về chủ nghĩa hiện đại trong khi đã “dán” nó vào phần
“chủ nghĩa hậu hiện đại” rồi! Vậy là trong cùng
một chương sách do cùng một người viết, cùng một hiện tượng vừa được gọi là
“hiện đại chủ nghĩa” lại vừa được gọi là “hậu hiện đại chủ nghĩa”! Điều đó cũng
chứng tỏ là khi biên soạn giáo trình lý luận văn học, nhiều tác giả Việt Nam thấy
có người nước ngoài nói các trường phái kia là hiện đại thì họ cũng nói theo, bây
giờ thấy người khác nói là hậu hiện đại thì họ lại quay sang nói theo là hậu hiện
đại. Thế là họ phải thực hiện một thao tác cắt dán máy móc mà không hề có chủ kiến,
tự mình phủ định mình một cách rất dễ dãi và hồn nhiên. Nghĩa là trong cùng một người hiện đang tồn tại đồng thời hai cách gọi khác
nhau cho một hiện tượng văn nghệ, mà đều là hai cách gọi theo nước ngoài. Trong
khi đó thì cũng vào thời điểm năm 2009, cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
vẫn ghi nhận “tiểu thuyết mới” là một trong những trào lưu hiện đại chủ nghĩa.
Đấy là thái độ đối với các trào lưu sáng tác nghệ thuật,
còn đối với các lý thuyết nghiên cứu văn học thì thái độ của các nhà nghiên cứu
của nước ta cũng có những thay đổi rất hồn nhiên và dễ dãi. Ví dụ như trường hợp
vẫn của GS. Phương Lựu. Năm 1995 ông cho in cuốn sách Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại, trong đó có giới thiệu
“Lý luận phê bình của chủ nghĩa hậu cấu trúc”. Có nghĩa là lúc đó, người ta vẫn
coi chủ nghĩa hậu cấu trúc (hay giải cấu trúc) là một trong những lý thuyết hiện
đại. Đến năm 2011, ông xuất bản cuốn sách Lý
thuyết văn học hậu hiện đại, trong đó ông lại gọi chủ nghĩa giải cấu trúc là
“mũi nhọn lý thuyết của chủ nghĩa hậu hiện đại”. Về cơ bản, việc giới thiệu lý thuyết
giải cấu trúc giữa hai thời điểm 1995 và 2011 không khác nhau nhiều, nhưng điều
kỳ lạ là tác giả không hề có một câu giải thích tại sao năm 1995 ông gọi nó là lý
thuyết hiện đại, mà đến năm 2011 ông lại gọi nó là hậu hiện đại? Tình hình này có
nguy cơ dẫn đến sự rối loạn trong hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam. Đó chính là
một tình trạng cấp thiết cần giải quyết.
Bản thân tôi, từ năm 2001 tôi đã viết bài “Chủ nghĩa hậu
hiện đại hay là hiện tượng chồng chéo khái niệm” đăng trên Tạp chí văn học số 9. Sau đó tôi đã nhiều lần bổ sung và sửa chữa để
đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài số
3-2002 và trong sách “Văn học hậu hiện đại thế giới - những vấn đề lý
thuyết”, Nxb. Hội Nhà văn,
2003; cuối cùng in lại có bổ sung và chỉnh lý dưới nhan đề “Cái gọi là ‘chủ nghĩa
hậu hiện đại’ - từ khái niệm đến thực tiễn” trong sách: Nguyễn Văn Dân, Vì một nền lý luận - phê bình văn học chất lượng
cao, Nxb. Khoa học xã hội, 2005. Trong các bài viết của tôi, tôi đã phân tích
và chỉ ra sự lạm dụng khái niệm hậu hiện đại cả trên thế giới lẫn ở Việt Nam đến mức đã biến
nó thành một thuật ngữ vô nghĩa. Giờ đây, tôi xin nhắc lại những diễn biến chính
của cuộc tranh luận để cho thấy bản chất của khái niệm “[chủ nghĩa] hậu hiện đại”
trong mối quan hệ với vấn đề của chủ nghĩa hiện đại.
2. Các quan niệm về [chủ nghĩa] hậu hiện
đại trên thế giới
Trên thế giới có
nhiều cách hiểu về [chủ nghĩa] hậu hiện đại. Và nhìn chung, các ý kiến vẫn chưa
phải là đã thống nhất. Từ các ý kiến khác nhau, tôi phân ra ba nhóm quan niệm chính
về hậu hiện đại trong nghệ thuật như sau:
1.
Chủ nghĩa hậu hiện đại như là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện đại (quan điểm của Lyotard, Hassan), nói một cách khác nó là
“cơn kịch phát của chủ nghĩa hiện đại”; hay
là sự nối dài của chủ nghĩa hiện đại (quan điểm của Robert Hughes);
2.
Chủ nghĩa hậu hiện đại như là sự quay trở về với truyền thống để chống lại chủ nghĩa
hiện đại (Smith, Portoghesi, Lipovetsky...);
đặc biệt là trong kiến trúc và nghệ thuật tạo hình, trong đó có sự kết hợp chiết
trung giữa hiện đại với quá khứ (Christopher Masters);
3.
Chủ nghĩa hậu hiện đại như là một sự vượt khỏi chủ nghĩa hiện đại, một phong trào lai tạp mới và tương phản với chủ nghĩa
hiện đại (Jencks, Koehler...).
Đây là các quan niệm lý thuyết về bản chất của chủ nghĩa
hậu hiện đại. Còn về đặc tính của chủ nghĩa hậu hiện đại thì chúng ta có thể nhận
xét thấy rằng đa số các ý kiến đều nhấn mạnh đến tính phi lý tính hoặc phản lý tính,
tính phi xác định, phi chủ thể, tính phân mảnh và tính đại chúng của nó. Nhưng nhìn chung, hầu hết các ý kiến đều lấy
chủ nghĩa hiện đại làm yếu tố quy chiếu để xác định cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện
đại.
Giả sử có sự tồn
tại của chủ nghĩa hậu hiện đại như các
tác giả quan niệm, thì, để hiểu thế nào là chủ nghĩa hậu hiện đại, trước hết chúng
ta phải xét xem thế nào là chủ nghĩa hiện đại.
Chủ nghĩa hiện đại là một khái niệm chủ yếu được dùng để
chỉ các trào lưu nghệ thuật thuộc phong trào tiên phong ở nửa đầu thế kỷ XX. Đó
là các trào lưu văn học - nghệ thuật cụ thể như: chủ nghĩa biểu hiện, chủ nghĩa
Đađa, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa lập thể, chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa trừu tượng...
Tất nhiên văn học nghệ thuật hiện đại không chỉ có các trào lưu trên đây, mà nó
còn có những khuynh hướng tìm tòi độc đáo khác nữa như văn xuôi phi lý của Kafka
và của Camus chẳng hạn.
Còn chủ nghĩa hậu hiện đại hiện đang được nhiều người dùng
để chỉ các trào lưu trong văn học và nghệ thuật ngoài chủ nghĩa hiện thực truyền thống và ngoài chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa ở nửa cuối thế kỷ XX. Nhìn
chung người ta cho rằng văn học nghệ thuật hậu hiện đại mang tính phi lý tính, tính
phi chủ thể, tính phân mảnh, tính phi xác định về không gian và thời gian, tính
đại chúng, tính chiết trung giữa hiện đại và truyền thống. Theo nhiều người thì
điển hình cho chủ nghĩa hậu hiện đại trong kiến trúc và nghệ thuật tạo hình là chủ
nghĩa chiết trung mới và chủ nghĩa biểu hiện mới, là sự kết hợp giữa hiện đại với
quá khứ truyền thống; trong nghệ thuật tạo hình, nhiều người còn coi op art (nghệ thuật ảo thị) và pop art (nghệ thuật bình dân) là các trào
lưu hậu hiện đại; trong sân khấu là loại nghệ thuật biểu diễn happening (tạm dịch: “sân khấu ngẫu hứng”);
trong âm nhạc là loại nhạc rock-and-roll;
trong văn học là tiểu thuyết mới, là kịch
phi lý, là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của châu Mỹ Latin (trong đó cũng có cả sự
kết hợp hiện đại với quá khứ huyền ảo) với sự tiếp nối của nhà văn Italia Umberto
Eco qua tiểu thuyết Tên gọi của hoa hồng (1980),
của nhà văn người Czech Milan Kundera, của nữ văn sĩ người Anh Angela Carter...
John Barth (1984) coi nhà văn Columbia G.G. Marquez, nhà văn hiện thực huyền ảo
nổi tiếng, tác giả của cuốn tiểu thuyết Trăm
năm cô đơn và là người đoạt giải thưởng Nobel Văn học 1982, là “một ví dụ điển hình về chủ nghĩa hậu
hiện đại và một bậc thầy trong nghệ thuật kể chuyện.”
Bây giờ chúng ta hãy xem chủ nghĩa hậu hiện đại thực sự có khác chủ nghĩa hiện đại không.
Người ta nói rằng chủ nghĩa hậu hiện đại là phi lý tính.
Nhưng từ đầu thế kỷ XX, một số trào lưu hiện đại chủ nghĩa cũng đã chủ trương coi
trọng trực giác và cảm tính. Điển hình là chủ nghĩa Đađa. Trong bản Tuyên ngôn Đađa 1918, Tristan Tzara đã tuyên
bố: “Chúng tôi không công nhận bất cứ một lý thuyết nào.” Theo ông, đối với người
sáng tạo thì tác phẩm nghệ thuật “không có căn nguyên và không có lý thuyết”. Lý
trí bị chủ nghĩa Đađa phủ nhận triệt để qua lời tuyên bố của Tzara: “Nước mưa của
quỷ sứ đổ xuống lý trí của tôi.” Chủ nghĩa siêu thực, trong bản Tuyên ngôn đầu tiên của chủ nghĩa siêu thực do
André Breton viết năm 1924, cũng phản đối chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa duy
lý, nó chủ trương một kiểu “Hành vi tự động mang tính tâm lý thuần túy, (...), không
có bất cứ một sự kiểm soát nào của lý trí”; và nó tin tưởng vào “sức mạnh toàn năng
của mơ mộng”; nó chủ trương một phương pháp sáng tác cũng giống như của chủ nghĩa
Đađa: “Các bạn hãy viết thật nhanh mà không cần có một chủ đề định trước, nhanh
đến mức các bạn không thể dừng tay được và không muốn đọc lại mình.” Còn trong chủ
nghĩa biểu hiện thì có trường phái dã thú
và nhóm Nhịp cầu là hai trường phái
phản đối chủ nghĩa thực chứng duy khoa học. Năm 1929, M. de Vlaminck, họa sĩ biểu
hiện người Pháp theo trường phái dã thú,
đã tuyên bố: “Khoa học giết chết hội họa.” Sau đó ít lâu ông còn thổ lộ: “Tôi thể
hiện chân lý bằng bản năng của mình mà không cần phương pháp, một chân lý không
phải chân lý nghệ thuật mà là chân lý nhân bản.” Nhóm Nhịp cầu cũng chủ trương thể hiện những hiện tượng cảm tính, thuộc về
bản năng.
Người ta nói chủ nghĩa hậu hiện đại là phi chủ thể, là
chủ thể bị giải thể, là mang tính phân mảnh. Nhưng chúng ta hãy xem, trước chủ nghĩa
hậu hiện đại, chủ nghĩa Đađa đã chủ trương như thế nào về tác phẩm của mình: “Người
nghệ sĩ mới sáng tạo ra một thế giới mà các thành phần của nó đồng thời là các phương
tiện, đó là một tác phẩm điều độ và có hạn định, một tác phẩm không có chủ đề.”
Cả chủ nghĩa siêu thực cũng vậy. Trong chủ nghĩa lập thể, chủ thể bị phân mảnh hơn
bao giờ hết (xem những bức họa lập thể của G. Braque, của Picasso). Và còn những
sáng tác của Kafka và Camus nữa! Các nhân vật của họ đều là những con người không
có tính cách; ở Kafka nhân vật còn không có cả tên gọi. Về mặt này có thể coi Kafka là tiền bối của tiểu thuyết mới, của kịch
phi lý. (Giống như ở Kafka, nhân vật nữ chính trong cuốn tiểu thuyết Ghen tuông
của Alain Robbe-Grillet, một đại diện của tiểu thuyết mới, cũng chỉ được gọi là A..., còn “anh chồng ghen” thì chẳng bao giờ
được gọi tên hoặc được mô tả. Các vở kịch phi lý của Ionesco và của Beckett đầy
rẫy những nhân vật vô danh. Nếu như Kafka đặt cùng một cái tên “K.” cho nhân vật
chính của cả hai cuốn tiểu thuyết của mình, thì Ionesco cũng đặt cùng một cái tên
“Bérenger” cho nhân vật chính trong một loạt vở kịch quan trọng của ông.)
Về tính phi xác định về không gian và thời gian của chủ
nghĩa hậu hiện đại, chúng ta cũng thấy nó có mặt trong hội họa siêu thực (điển hình
là trong bức họa “Sự tồn tại dai dẳng của ký ức” (1931) của Salvador Dali (René
Magritte - họa sĩ siêu thực người Bỉ - cũng có một bức tranh cùng tên nhưng không
nổi tiếng bằng bức của Dali), hay trong sáng tác của Kafka (Lâu đài); cho nên nói như Chuchin-Rusov rằng
“con người hậu hiện đại có khả năng vui sướng cảm thấy được tự do bay bổng trong
‘chiều cạnh thứ tư của văn hóa’, không biết đến mọi giới hạn về thời gian và lãnh
thổ, điều mà người bạn ở thời hiện đại của nó không thể nào nghĩ tới”, thì chỉ đúng
trong thực tế đời sống xã hội của thế giới toàn
cầu hóa ngày nay, chứ không đúng trong văn học và nghệ thuật, khi mà từ lâu
Salvador Dali đã cho phép chúng ta có thể đi du ngoạn sang một thế giới siêu thực
huyễn tưởng phi không gian và phi thời gian.
Còn về tính đại chúng của chủ nghĩa hậu hiện đại thì sao?
Có thể chấp nhận quan điểm cho rằng các trào lưu của chủ nghĩa hiện đại nửa đầu
thế kỷ XX có phần nào xa lánh đại chúng. Tzara đã từng tuyên bố rằng người bình
thường thì không thể hiểu nổi một tác phẩm Đađa. Nhưng nếu vì thế mà nói rằng chủ
nghĩa hậu hiện đại quay về với đại chúng thì cũng chưa hẳn đã đúng. Đại chúng chắc
là khó lòng mà hiểu được một số màn diễn đôi khi quá khích của sân khấu happening, khó mà hiểu được những vở kịch
phi lý của Beckett hay của Ionesco, những cuốn tiểu thuyết của nhóm tiểu thuyết mới, v.v...
Còn ý kiến cho rằng chủ nghĩa hiện đại chủ trương độc thoại
trong khi chủ nghĩa hậu hiện đại chủ trương đối thoại cũng là một ý kiến không chính
xác. Đối thoại có rất rất ít trong tiểu thuyết mới cũng như trong kịch phi lý.
Các cuốn tiểu thuyết Bỏ lại ý đồ (tiếng
Pháp: La Modification) của Michel Butor
và Đường đi Flandres của Claude Simon,
hai đại diện nổi tiếng của nhóm tiểu thuyết
mới, hầu như không có đối thoại. Bérenger, nhân vật điển hình của nhà soạn kịch
phi lý nổi tiếng Ionesco, có những màn độc thoại rất thống thiết. Hai ông già bà
già trong vở kịch Những chiếc ghế của
ông chủ yếu cũng diễn độc thoại. Việc khuyến khích đối thoại vì một nền dân chủ là một việc làm hợp lý, nhưng không vì
thế mà khái quát hóa rằng đặc điểm của xã hội hậu hiện đại là “đối thoại”!
Người ta cũng nói nhiều đến một đặc tính nghệ thuật có
khả năng phân biệt chủ nghĩa hậu hiện đại với chủ nghĩa hiện đại, đó là sự có mặt
của chủ nghĩa chiết trung mang tính kết hợp giữa hiện đại với quá khứ truyền thống
trong chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhưng đặc điểm này chỉ thể hiện rõ rệt trong kiến
trúc, trong nghệ thuật tạo hình hậu hiện đại, và một chút trong văn học của chủ
nghĩa hiện thực huyền ảo. Trong kiến trúc, chủ nghĩa hậu hiện đại mang tính chiết
trung được đại diện chủ yếu bởi Robert Venturi và Michael Graves của Hoa Kỳ, James
Stirling và Ralph Erskine của nước Anh... Erskine đã thiết kế một tòa nhà mang tên
Con thuyền Noe, tòa nhà được xây dựng
phỏng theo hình con tàu thủy đang chui qua một chiếc cầu cất và được xây dựng ngay
bên cạnh chiếc cầu Hammersmith ở London nó được mô phỏng theo hình ảnh tưởng tượng
về con thuyền của Noe trong Kinh thánh,
và việc thiết kế chiếc mái của nó giống hình một chiếc cầu cất đã làm cho tòa nhà
trông giống như một con tàu thủy đang lướt qua gầm cầu.
Thế nhưng xét kỹ thì ta thấy cái xu hướng quay về với quá
khứ cũng không chỉ đặc trưng cho nghệ thuật hậu hiện đại. Trong các trào lưu hiện
đại chủ nghĩa trước đây thì cũng đã có trào lưu quay trở về với tâm hồn của người
nguyên thủy. Điều này không hề mâu thuẫn với tư tưởng đoạn tuyệt truyền thống của
chủ nghĩa hiện đại, bởi vì truyền thống mà chủ nghĩa hiện đại muốn đoạn tuyệt là
thứ truyền thống của xã hội tư sản khủng hoảng chứ không phải là tất cả các loại
truyền thống của loài người. Xu hướng trở về với cuộc sống nguyên thủy, với cuộc
sống hoang dã nguyên sơ, đã trở thành một trong những xu hướng chủ yếu của đời sống
nghệ thuật cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trong số những người đại diện cho xu hướng
đó có A. Rimbaud, nhà thơ Pháp cuối thế kỷ XIX. Cùng trong xu hướng đó, đến năm
1891, đúng năm Rimbaud mất, họa sĩ tài ba Paul Gauguin đã rời nước Pháp hiện đại,
từ bỏ cái xã hội “tội lỗi và được tổ chức tồi”, “được điều hành bằng vàng bạc” như
lời ông nói, đến sống tại đảo Tahiti thuộc quần đảo Polynésie trên biển Nam Thái
Bình Dương, dành quãng đời còn lại của mình để vẽ những người dân bản xứ ở đây với
tâm hồn nguyên sơ chưa bị biến chất của họ. Và không chỉ có Gauguin; một loạt các
họa sĩ châu Âu đã lên đường sang châu Phi, sang Nhật, sang Ấn Độ. Một số nghệ sĩ
theo chủ nghĩa biểu hiện cũng coi nghệ thuật nguyên thủy, nghệ thuật dân gian và
nghệ thuật dân dã ngoại lai là những nguồn cảm hứng vô tận. Có lẽ riêng đối với kiến trúc thì sự khác biệt
giữa chủ nghĩa hậu hiện đại với hiện đại là tỏ ra rõ rệt hơn cả, bởi vì trong trào
lưu kiến trúc hậu hiện đại, phát triển mạnh kể từ những năm 1970, người ta thấy
có sự thể hiện của chủ nghĩa chiết trung trong việc kết hợp hiện đại với quá khứ
truyền thống để phản đối tính cứng nhắc khô cằn và tính duy lý trừu tượng của kiến
trúc hiện đại.
Vậy là về mặt lý
thuyết, những gì mà những người đề xướng chủ nghĩa hậu hiện đại chủ trương thì
hầu hết đã có ở chủ nghĩa hiện đại. Như
vậy, cái nghĩa cho rằng chủ nghĩa hậu hiện
đại là giai đoạn kịch phát của chủ nghĩa hiện đại là có vẻ xác đáng và bao quát
hơn cả. Vì mức độ kịch phát đó mà chủ nghĩa hậu hiện đại còn có thể được gọi
là chủ nghĩa siêu hiện đại hay chủ nghĩa tối hiện đại (tiếng Pháp: “ultramodernisme”).
Và vì được dùng để chỉ một giai đoạn của chủ nghĩa hiện đại, nên khái niệm “hậu
hiện đại” trở nên không cần thiết và không hợp lý bằng khái niệm “siêu [hoặc tối] hiện đại”.
3. Phản ứng của các nhà khoa học đối với
chủ nghĩa hậu hiện đại
Liên quan đến vấn đề phản ứng của các nhà khoa học đối
với chủ nghĩa hậu hiện đại, tôi muốn nói đến việc báo Văn nghệ số 16 năm 2010 có đăng bài “Sự kiện Sokal với mặt trái của
lý thuyết hậu hiện đại” của GS. Phương Lựu. Bài viết nói đến tác động bài báo của
Sokal đối với việc hiểu rõ “mặt trái của lý thuyết hậu hiện đại”. Song thực chất
“vụ Sokal” thuộc loại hiện tượng gì?
Thế giới gọi hiện tượng liên quan đến “vụ Sokal” là hiện
tượng “ngụy tạo văn hóa-khoa học”, nằm trong phạm trù “ngụy tạo” nói chung. Trong
văn hóa-khoa học, ở một chừng mực nào đó, kiểu ngụy tạo phi vụ lợi có một tác động
tích cực nhất định, chẳng hạn như nó cảnh tỉnh giới văn hóa-khoa học về một thói
a dua, ham chạy theo mốt mà bỏ quên các nguyên tắc về tính nghiêm cẩn của tri thức [tiếng Anh: “intellectual rigour”].
Ngụy tạo văn hóa-khoa học phi vụ lợi có thể đã xuất hiện
từ lâu, nhưng lịch sử chủ yếu ghi nhận những vụ ngụy tạo từ cuối thế kỷ XIX đến
nay. Trong tinh thần đó, vụ ngụy tạo khoa học Alan Sokal
1996 ở Mỹ cũng nằm trong xu hướng giễu nhại và châm biếm những cái mà ông gọi là
thói phi lý thời thượng trong việc lạm dụng khoa học. Xu hướng sùng bái các trào
lưu triết học được gọi là hậu hiện đại ở phương Tây trong những thập kỷ cuối thế
kỷ XX đã biến các lý thuyết được gọi là hậu hiện đại trở thành thời thượng. Và việc
xuất hiện những phản ứng chống lại chúng là điều đương nhiên. Một trong những phản
ứng đó là công trình Mê tín cao ngạo: Cánh tả học thuật và những cuộc tranh cãi
của nó với khoa học (1994) của hai nhà khoa học Mỹ Paul R. Gross và Norman Levitt.
Đọc xong công trình này, Sokal đã phẫn nộ về những cái mà ông cho là “sự giả mạo
tri thức”, về thái độ chủ quan của chủ nghĩa hậu hiện đại trong việc nghi ngờ tính
khách quan của khoa học. Và thế là ông quyết định làm một phép thử. Ông viết một
bài báo với những cứ liệu và lập luận giả mạo đủ mức phi lý để làm cho bài báo không
có giá trị, nhưng nó lại có hơi hướng “hậu hiện đại” và có vẻ đáng tin để có thể
đánh lừa Ban biên tập Tạp chí Social Text [“Văn bản xã hội”], một tờ tạp
chí hàng đầu của giới học thuật và theo khuynh hướng chủ nghĩa cấu trúc phân giải
(có người dịch là chủ nghĩa giải cấu, chủ nghĩa giải kiến tạo...), một chủ nghĩa
được coi là tiêu biểu của trào lưu hậu hiện đại. Sokal đăng bài báo với mục đích
là để thử xem tờ tạp chí theo khuynh hướng hậu hiện đại đó sẽ đăng bài theo chất
lượng khoa học của bài viết hay theo tên tuổi và khuynh hướng quan điểm của người
viết. Quả nhiên bài viết của ông đã được đăng không phải vì chất lượng, (thực sự
đó là bài viết ngụy tạo khoa học), mà là vì khuynh hướng được gọi là “hậu hiện đại”
của bài viết với tên tuổi của một giáo sư đại học ngành vật lý. Như vậy, ở đây có
một sự đối đầu về quan điểm giữa các nhà khoa học theo xu hướng giải cấu trúc với
các nhà khoa học tự nhiên phản đối nó, coi nó là một sự vô nghĩa thời thượng
[tiếng Anh: “fashionable nonsense”], một sự lạm dụng thuật ngữ khoa học.
Như
thế, Sokal và các nhà khoa học khác đã phản đối chính cái bản chất của cái
gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại chứ không phải như GS. Phương Lựu - vì có định kiến
muốn bảo vệ chủ nghĩa hậu hiện đại - đã cho rằng họ phản đối cái “mặt trái” của
nó. Thực tế, trong trường hợp của chủ nghĩa hậu hiện đại, không có mặt trái và mặt
phải gì ở đây. Điều này cho thấy một thực tế khách quan mà từ lâu tôi đã lưu ý rằng
cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại không hề nhận được sự đồng thuận tán thành của
các học giả ngay ở phương Tây. Và, cũng giống như các học giả phương Tây gọi nó
là một sự lạm dụng thuật ngữ, tôi cũng đã gọi nó là một sự lạm dụng khái niệm.
Trong
khi đó ở nước ta, thói sùng ngoại không phân biệt đã làm cho chủ nghĩa hậu hiện
đại được giới thiệu như một sự nhất trí cao không phải bàn cãi trong tất cả
các lĩnh vực văn học-nghệ thuật. Và vì không gán nổi được một đặc trưng riêng
nào cho chủ nghĩa hậu hiện đại, hầu như tất cả những người ủng hộ hậu hiện đại đều
có khuynh hướng gọi các trào lưu hiện đại đầu thế kỷ XX là hậu hiện đại, từ chủ
nghĩa Đađa đến chủ nghĩa siêu thực, từ Kafka đến kịch phi lý... Nhiều người chỉ
nghe người nước ngoài nói thế nào về hậu hiện đại thì nói theo như thế ấy mà không
hề có ý thức rõ ràng về nó. Chẳng hạn có người khi đọc thấy một ý kiến vô căn cứ
của một người nước ngoài cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại có những đặc điểm gần với
chủ nghĩa Marx, thế là lấy ngay ý kiến đó làm tiêu chuẩn để phán xét hậu hiện đại
mà không hề biết rằng quan điểm của một chủ soái hậu hiện đại (Francois Lyotard)
lại cho rằng chủ nghĩa Marx là một “đại tự sự” cần phải xóa bỏ. Và gần đây, tôi
cũng lại bắt gặp ý kiến của một tác giả Việt Nam cho rằng “chủ nghĩa hậu hiện đại
chịu ảnh hưởng sâu đậm của chủ nghĩa Marx”! Điều này thật là khôi hài. Nó càng chứng
tỏ trong số những người cổ xúy cho [chủ nghĩa] hậu hiện đại, có nhiều người chẳng
hiểu gì về [chủ nghĩa] hậu hiện đại. Có những người trước đây từng làm theo sách
nước ngoài xếp một số trường phái văn học và một số lý thuyết nghiên cứu vào cái
ô “hiện đại”, thì nay, thấy những người nước ngoài khác gọi chúng là hậu hiện đại,
thì họ lại quay sang nói theo là “hậu hiện đại”. Rõ ràng ở đây có một sự bắt chước
rất tùy tiện. Còn có những người thì, với thói bắt chước a dua, lại sẵn sàng bịa
tạc ra đủ thứ chuyện xung quanh thuật ngữ này! Thực tế, vụ Sokal cho thấy trong
những cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại cũng có cái tỏ ra tầm phào một cách
“mê tín cao ngạo” đến mức fashionable nonsense!
4. Kết luận
Tóm lại, trong lĩnh
vực nghệ thuật, ngoại trừ lĩnh vực kiến trúc, khái niệm “chủ nghĩa hậu hiện
đại” chỉ nên hiểu là chỉ cái đỉnh cao hay “giai đoạn kịch phát” của chủ nghĩa hiện
đại. Với nghĩa “kịch phát”, thuật ngữ “hậu hiện đại” hoàn toàn có thể được thay bằng thuật ngữ “hiện đại”, hoặc chính xác
hơn là thay bằng thuật ngữ “siêu hiện đại” hay “tối hiện đại”. Theo tinh thần này,
những hiện tượng “mới lạ” trong văn học đương đại mà hiện đang được nhiều người
cho là “hậu hiện đại”, thực chất vẫn là một sự “nối dài” của chủ nghĩa hiện đại.
Chỉ có quan niệm như vậy thì chúng ta mới xác định được đúng đặc điểm và tính chất
của chúng. Không nhất thiết cứ mỗi khi muốn
gây ấn tượng lại phải cầu viện đến thuật ngữ “hậu hiện đại”, để rồi lại phải
vất vả cố công tìm kiếm các đặc tính để gán cho nó nhằm chứng minh cho quyền tồn
tại của nó mà thực ra các đặc tính đó lại chính là của [chủ nghĩa] hiện đại.
Mặt khác, khi phê bình, chúng ta nên hết
sức tránh định kiến, đặc biệt là định kiến chính trị. Ở Việt Nam, có nhiều người
do xuất phát từ định kiến chính trị cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại có một chủ trương
mang tính “cách mạng” là xóa bỏ đại tự sự, nên có vẻ có ác cảm với những ai phản
đối hậu hiện đại. Ví dụ mới đây có tác giả đã viết: “Hiện
đại thì ra đời từ những năm 50 của thế kỷ XX, bản chất nhất nguyên, một trung tâm,
nên mấy ông cộng sản khoái. Còn hậu hiện đại, ra đời những năm 70 của thế kỷ trước,
nó vốn đa nguyên, nhiều trung tâm, nên các ông nhà ta hay mè nheo, chê bôi. Nếu
đánh đồng hiện đại và hậu hiện đại với nhau, thì có liên quan gì đến vấn đề ý thức
hệ không?” (Vũ Xuân Tửu, “Lại chuyện bên lề hội nghị viết văn”, http://trannhuong.com, 13-9-2011). Tác giả này đã tỏ ra không
hiểu một tý gì về chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại, cả về bản chất và thời
gian xuất hiện của chúng, chỉ thấy có người nói đến chữ “đa nguyên” thì vội bám
vào để liên hệ đến chính trị. Người này không hề biết - vì không chịu tìm hiểu thông
tin hay vì mắc phải một lỗ hổng kiến thức - rằng chủ nghĩa hiện đại đã xuất hiện
từ đầu thế kỷ XX chứ không phải đến “những năm 50 của thế kỷ XX”, và nó không hề nhất nguyên một tý nào; rằng trước
Đổi mới, chủ nghĩa hiện đại đã bị những người cộng sản giáo điều phản đối kịch liệt
ra sao; rằng chỉ sau Đổi mới, chủ nghĩa hiện đại mới được đánh giá lại một cách
khách quan và công bằng. Xuất phát từ một định kiến mang tính chính trị, tác giả
đoạn văn trên đã dựng lên câu chuyện về “sự khoái chí của mấy ông cộng sản” dành
cho chủ nghĩa hiện đại và về thái độ “mè nheo, chê bôi” của mấy ông đó dành cho
chủ nghĩa hậu hiện đại. Thực tế là trước đây “mấy ông cộng sản” không hề khoái
chủ nghĩa hiện đại, họ đã phê phán kịch liệt chủ nghĩa hiện đại khi họ gọi các trào
lưu hiện đại chủ nghĩa là “nghệ thuật tư sản phản động và suy đồi”! Còn bây giờ,
sau khi được “cởi trói”, nhiều “ông cộng sản” cũng tán dương hậu hiện đại chẳng
kém gì tác giả nói trên. Câu chuyện này cho thấy cái lỗ hổng về kiến thức đã có
tác hại như thế nào đến tư duy logic của một người muốn làm phê bình.
Về phần tôi, khi tôi phân tích
những quan niệm sai lầm và ngộ nhận về hậu hiện đại, thì cũng có người do xuất phát
từ định kiến chính trị, nên hiểu sai rằng tôi là người bảo thủ vì đã phản đối,
“chê bôi” chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhưng qua những gì tôi đã phát biểu, tôi chưa
bao giờ nói là mình phản đối và phủ nhận chủ nghĩa hậu hiện đại, mà tôi chỉ phản
đối việc áp đặt vô cớ cái tên gọi “hậu hiện
đại” cho các trào lưu nghệ thuật vốn đã
được thế giới định danh từ lâu là “hiện đại”. Tôi chỉ xuất phát từ tính logic
để chỉ ra những điều vô lý trong những lập luận bắt chước của những người a dua
nói theo một luồng ý kiến “vô nghĩa thời
thượng” của nước ngoài về hậu hiện đại, từ đó cảnh báo nguy cơ về một sự rối loạn
hệ thống lý luận văn học. Như thế thì không thể nói là tôi phản đối và phủ nhận
chủ nghĩa hậu hiện đại, bởi lẽ người ta không
thể phản đối và phủ nhận “cái không tồn tại”, mà tôi chỉ phản đối cách dùng tên gọi hậu hiện đại cho những
hiện tượng văn học nghệ thuật đương đại mà thực chất chúng chính là sự nối dài của
chủ nghĩa hiện đại, ngoại trừ lĩnh vực kiến trúc. Tôi
cũng chẳng phải bận tâm hay lo sợ đến cái điều chỉ tồn tại trong tưởng tượng của
các nhà phê bình. Đơn giản là tôi chỉ thấy nực cười và vô nghĩa đối với những lý
lẽ ngụy khoa học của nhiều nhà lý luận phê bình và của cả một số nhà văn nhà thơ
ở nước ta trong vấn đề được gọi là “hậu hiện đại”.
Những điều phân tích trong bài này cho thấy sức sống bền
bỉ của các trào lưu hiện đại chủ nghĩa và vai trò của chúng trong văn học nghệ thuật
đương đại của thế giới. Tiếc rằng ở nước ta, thói quen sính ngoại đã làm cho nhiều
người chỉ đơn giản nói theo các quan điểm cổ xúy cho hậu hiện đại mà không hề có
cái nhìn suy xét để phân biệt những điều vô lý trong các ý kiến về hậu hiện đại,
đến nỗi họ sẵn sàng từ bỏ những quan điểm cũ của mình để đem những cái trước đây
họ đã gọi là chủ nghĩa hiện đại dâng cho “ngôi đền” hậu hiện đại mà không hề biết
rằng ngôi đền đó chẳng có gì đáng để được thờ cúng.
Nguồn:
Viện thông tin khoa học xã hội