***
Bài 1:
“Nước Nga đang tập trung:
Những thách thức chúng ta phải đương đầu”
Hiện nay nước Nga đang đứng trước những thách thức và nhiệm vụ nào cần
phải đương đầu. Nga cần phải có vị trí thế nào trong nền chính trị và
kinh tế toàn cầu; Nga có thụ động đi theo sự phát triển các sự kiện hay
tự mình chủ động tham gia vào quá trình hình thành nên các quy tắc của
cuộc chơi; dựa vào những tiềm năng nào nước Nga có thể tăng cường vị thế
của mình và bảo đảm sự phát triển ổn định, một sự ổn định hoàn toàn
không có gì giống với sự trì trệ bởi trong thế giới đương đại - sự ổn
định là tài sản và là thành quả lao động bền bỉ, cởi mở và công khai
trước những thay đổi, đồng thời sẵn sàng tiến hành những cải cách đã
chín muồi trên cơ sở những luận chứng vững chắc.
“Trong đời sống mỗi một dân tộc và mỗi một quốc gia,
dĩ nhiên hoạt động của các quốc vương, người đứng đầu chính phủ, các
nhà quân sự và hoạt động xã hội là quan trọng, nhưng rút cuộc tiếng nói
cuối cùng thuộc về nhân dân”. “Người nào không thấy tiếc nuối thời
xô-viết, người đó không có trái tim. Người nào muốn trở lại thời kỳ
Xô-viết, người đó không có lý trí”. Vladimir Putin |
Hiện nay người ta đang nói đến các hình thức khác nhau để đổi mới quá trình chính trị. Nhưng một điều đáng lo ngại là trên thực tế đã không có các cuộc tranh luận về những gì cần phải làm bên ngoài khuôn khổ các cuộc bầu cử cũng như sau bầu cử. Điều này không đáp ứng được lợi ích của đất nước, chất lượng phát triển xã hội, trình độ giáo dục và trách nhiệm. Theo tôi, các công dân Nga cần phải có điều kiện vả khả năng thảo luận về những cái được và những cái chưa được của các chính sách, nội dung của chính sách, các chương trình dự kiến thực hiện của các nhà chính trị. Những thách thức và nhiệm vụ cần phải trở thành tâm điểm chú ý của các chương trình này. Bằng cách nào chúng ta có thể cải thiện đời sống và làm cho cấu trúc xã hội công bằng hơn? Cần ưu tiên cho định hướng nào trong sự phát triển kinh tế và xã hội? Cần phải có sự đối thọai rộng rãi về tương lai, về những ưu tiên, về sự phát triển và tương lai của quốc gia. Bài báo này là lời mời tham gia cuộc đối thọai như vậy.
Chúng ta đang ở đâu và đang đi về đâu
Xét theo các tham số cơ bản của sự phát triển kinh tế và xã hội, nước Nga hiện nay đã vượt qua sự suy thóai sâu sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ và Liên Xô tan rã. Mặc dù phải trải qua cuộc khủng hoảng trong những năm 2008-2009, nước Nga vẫn đạt được và vượt chỉ tiêu mức sống của những năm thịnh vượng nhất thời Xô-viết. Thí dụ, tuổi thọ ở nước Nga hiện nay đã cao hơn so với thời kỳ ở Liên Xô những năm 1990-1991. Kinh tế Nga đang phát triển và điều này được thể hiện trước hết ở con người, công việc, thu nhập và những khả năng mới của họ. So với những năm 1990, số người sống ở mức nghèo khổ hiện nay đã giảm trên 2,5 lần.
Theo các công trình nghiên cứu độc lập, thu nhập thực tế của 4/5 số người Nga vượt quá mức của năm 1989 là cao điểm của sự phát triển Liên Xô. Hơn 80% gia đình Nga hiện nay có mức tiêu dùng cao hơn so với mức tiêu dùng trung bình của gia đình Xô-viết trước đây. Mức độ bảo đảm nhu cầu về các phương tiện sinh hoạt hàng ngày tăng 1,5 lần và đã gần đạt tới mức ở các nước phát triển. Ở Nga hiện nay, cứ 2 gia đình có một gia đình có xe ô tô, điều kiện nhà ở cũng được cải thiện đáng kể. Không chỉ các công dân Nga có mức thu nhập trung bình mà ngay cả những người nghỉ hưu hiện nay cũng có mức tiêu dùng thực phẩm cơ bản cao hơn so với những năm 1990.
Một điều đặc biệt quan trọng là trong 10 năm gần đây ở Nga đã hình thành một tầng lớp đáng kể mà ở phương Tây gọi là “tầng lớp trung lưu”. Năm 1998, tầng lớp trung lưu ở Nga mới chiếm 5-10% dân số, ít hơn những năm cuối của Liên Xô. Hiện nay, tầng lớp trung lưu chiếm 20-35% dân số Nga. Họ có thu nhập cao gấp 3 lần so với thu nhập trung bình những năm 1990. Họ là những người có thu nhập tương đối cao, có thể mua sắm những đồ dùng cần thiết, có điều kiện nghỉ ngơi và có thể tiết kiệm. Họ có thể lựa chọn công việc mình thích và có tích lũy. Giai cấp trung lưu còn là những người có trình độ văn hóa, có thể lựa chọn các ứng cử viên xứng đáng chứ không phải bỏ phiếu theo kiểu cảm tính. Nói tóm lại, tầng lớp trung lưu đã bắt đầu hình thành các nhu cầu thực tế của mình trên các hướng khác nhau và sẽ trở thành đa số trong xã hội Nga, trong đó có bác sĩ, giáo viên, kĩ sư, các công nhân có tay nghề cao.
Niềm hy vọng chủ yếu của nước Nga là trình độ học vấn cao của công dân, trước hết là thanh niên. Điều này đúng ngay cả khi vẫn còn những vấn đề chúng ta sẽ phải giải quyết và những lời chê trách chất lượng giáo dục của nước Nga. Trong số các công dân Nga hiện nay ở độ tuổi 25-35, có tới 57% có trình độ đại học. Đây là mức độ khá cao mà ngoài Nga chỉ có 3 nước trên thế giới đạt được là Nhật Bản, Hàn Quốc và Canada. Hiện nay, sự bùng nổ nhu cầu học vấn ở Nga vẫn tiếp diễn. Trong thế hệ sắp tới, khoảng 15-25 năm nữa, sẽ diễn ra quá trình phổ cập giáo dục có trình độ cao, trong đó trên 80% thanh niên nam nữ sẽ có hoặc muốn có được trình độ này.
Chúng ta đang bước vào một hiện thực xã hội mới, trong đó "cuộc cách mạng học vấn" sẽ làm thay đổi căn bản bộ mặt xã hội và nền kinh tế Nga. Ngay cả trong thời điểm hiện nay, nền kinh tế Nga cũng chưa cần tới ngần đấy nhân viên có trình độ cao và chúng ta không thể lùi bước. Không phải mọi người cần phải thích ứng với cơ cấu hiện nay của nền kinh tế và thị trường lao động mà chính là nền kinh tế cần phải thay đổi để những công dân có trình độ học vấn cao, có nhu cầu cao có thể tìm được vị trí xứng đáng của họ trong xã hội. Vì thế, thách thức cơ bản đối với nước Nga hiện nay là chúng ta cần phải học cách sử dụng "động lực học vấn" của thế hệ trẻ, động viên nhu cầu ngày càng cao của tầng lớp trung lưu và khả năng của họ sẵn sàng chịu trách nhiệm về cuộc sống thịnh vượng của mình để bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển ổn định của đất nước.
Việc nâng cao mức sống trong thập kỷ trước đây chủ yếu là nhờ hoạt động của Nhà nước lập lại trật tự trong việc phân bổ hiệu quả khai thác tài nguyên thiên nhiên. Còn hiện nay, chúng ta cần có tích lũy quốc gia để sẵn sàng đối phó với khủng hoảng và thảm họa thiên nhiên. Hiện nay, tiềm lực của nền kinh tế tài nguyên đang ngày một cạn kiệt dần, nhưng điều chủ yếu là nền kinh tế tài nguyên không có được triển vọng mang tính chiến lược. Chính trong các văn kiện mang tính cương lĩnh cơ bản của năm 2008 được thông qua trước khi xảy ra khủng hoảng đã đặt ra một trong những nhiệm vụ chủ yếu là tạo ra những nguồn thu nhập mới cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Xây dựng một nền kinh tế mới cần phải dựa vào những con người có học vấn và có trách nhiệm, trong đó có các chuyên gia, các doanh nhân và người tiêu dùng. Trong 10 năm tới trong nền kinh tế sẽ có khoảng 10-11 triệu người lao động trẻ, trong đó có 8-9 triệu người có trình độ đại học. Ngay từ bây giờ trên thị trường lao động đã có 5 triệu người có trình độ đại học không thỏa mãn với thu nhập của mình cũng như tính chất công việc và không có triển vọng. Còn có 2-3 triệu người là chuyên gia thuộc các cơ quan ngân sách không tìm được việc làm mới. Ngoài ra, còn có khoảng 10 triệu người đang làm việc trong các dây chuyền sản xuất lạc hậu về công nghệ và không đáp ứng điều kiện an toàn môi trường sinh thái. Những công nghệ này cần phải được loại bỏ không chỉ vì nó không còn đáp ứng được yêu cầu của thị trường mà còn nguy hiểm về mặt sinh thái và ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động.
Như vậy, việc tạo ra 25 triệu việc làm có trình độ công nghệ cao, được trả lương cao, cho những người lao động có trình độ học vấn cao không còn là một khẩu hiệu hoa mỹ. Đây là nhu cầu bức thiết và là mức độ cần thiết tối thiểu. Để giải quyết nhiệm vụ có tầm quốc gia này cần xây dựng chính sách của Nhà nước nhằm tập hợp nỗ lực của giới doanh nghiệp và tạo ra môi trường kinh doanh tốt nhất.
Nền kinh tế tương lai của nước Nga cần phải đáp ứng nhu cầu của xã hội, tạo ra thu nhập lao động cao hơn, công việc thú vị hơn và sáng tạo hơn, tạo khả năng to lớn để phát triển nghề nghiệp và phát triển xã hội nói chung. Đây mới là điều quan trọng chứ không phải là con số GDP, khối lượng dự trữ ngoại tệ bằng vàng, mức độ uy tín cao của các tổ chức đánh giá quốc tế hoặc vị trí cao của nước Nga trong số các nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trước hết, mọi công dân phải cảm thấy được những thay đổi tích cực thông qua việc mở rộng những khả năng của bản thân mình. Do đó, sự tăng trưởng của nước Nga trong thập kỷ tới là mở rộng không gian tự do cho mỗi cá nhân trong chúng ta. Sự thịnh vượng do ai đó ban phát, sự thịnh vượng thiếu trách nhiệm về quyết định của mình sẽ không thể tồn tại trong thế kỷ XXI.
Nước Nga còn đứng trước một thách thức nữa, đó là đằng sau những khẩu hiệu chung chung về sự đồng thuận và lợi ích từ hoạt động từ thiện là mức độ thiếu tin cậy giữa người với người, là con người không muốn tham gia vào các hoạt động xã hội, không quan tâm đến người khác, không biết vượt qua những lợi ích cá nhân. Đây là cũng hạn chế nghiêm trọng còn tồn tại trong xã hội chúng ta. Trong nền văn hóa Nga có một truyền thống lịch sử lâu đời là tôn trọng nhà nước, tôn trọng các lợi ích xã hội và những gì cần cho đất nước. Đa số người dân Nga muốn nhìn thấy một nước Nga vĩ đại, tôn trọng những người anh hùng đã hy sinh vì sự thịnh vượng chung. Nhưng rất đáng tiếc là niềm tự hào hoặc đau buồn vì đất nước không phải bao giờ cũng được thực hiện trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. Thông thường đằng sau đó không chỉ là sự thờ ơ và sự ích kỷ mà còn có cả sự thiếu niềm tin sơ đẳng vào sức mạnh của chính mình hoặc không tin vào những người xung quanh.
Chân dung xã hội của tương lai chúng ta sẽ không đầy đủ nếu không nói về một vấn đề rất quan trọng. Đó là, 10-11% công dân của chúng ta vẫn còn phải chấp nhận thu nhập ở mức nghèo khổ do những nguyên nhân khác nhau. Đến cuối thập niên này chúng ta sẽ phải giải quyết được vấn đề này. Chúng ta sẽ phải vượt qua sự nghèo đói không thể chấp nhận được đối với một nước phát triển; Cần phải sử dụng tài nguyên của quốc gia, nỗ lực của xã hội và bộ phận tích cực quan tâm trong xã hội để giải quyết vấn đề này.
Giai đoạn mới trong sự phát triển toàn cầu
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng phát từ năm 2008 đụng chạm đến tất cả mọi người và đã đến lúc cần đánh giá lại nhiều thứ. Tất cả mọi người đều biết rằng, khủng hoảng kinh tế bùng phát không chỉ bởi những yếu tố mang tính chu kỳ mà còn là do sự thất bại trong điều chỉnh. Căn nguyên của vấn đề chính là ở sự mất cân đối tích tụ lại trong nhiều năm. Mô hình dựa trên sự tăng trưởng đến vô hạn các khoản đầu tư, cuộc sống thịnh vượng dựa trên nợ nần và chiếm đoạt tương lai, dựa vào những giá trị ảo chứ không phải là những giá trị thật, rút cuộc đã dẫn tới bế tắc. Ngoài ra, sự thịnh vượng được phân bố không bình đẳng giữa các nước khác nhau và giữa các khu vực khác nhau đã dẫn tới sự bất ổn trên phạm vi toàn cầu, kích động xung đột, làm giảm khả năng thỏa thuận của cộng đồng thế giới về những vấn đề bức xúc và mang tính nguyên tắc.
Cuộc khủng hoảng ở các nước phát triển đã làm lộ rõ một xu hướng nguy hiểm, mà theo tôi là mang tính chính trị thuần tuý, dẫn tới sự gia tăng trách nhiệm xã hội của Nhà nước theo cách mỵ dân và thiếu cân nhắc, không có mối liên hệ gì với sự gia tăng năng suất lao động; dẫn tới việc hình thành sự vô trách nhiệm xã hội trong một số tầng lớp dân cư riêng lẻ ở các nước đó. Tuy nhiên hiện nay nhiều người đã thấy rõ rằng, kỷ nguyên của các quốc gia có được sự thịnh vượng chung “trên mồ hôi nước mắt” của người khác đang dần kết thúc.
Chúng ta không muốn mình trở thành những người ảo tưởng. Chính sách kinh tế của chúng ta là một chính sách cẩn trọng và có cơ sở. Trong thời kỳ trước khủng hoảng, chúng ta đã gia tăng đáng kể sức mạnh của nền kinh tế, khắc phục được sự phụ thuộc vào nợ, tăng thu nhập thực tế của người dân, tạo tiềm năng dự trữ cho phép vượt qua khủng hoảng với tổn thất ít nhất đối với đời sống của dân chúng. Ngoài ra, vào lúc cao điểm của cuộc khủng hoảng, chúng ta vẫn có thể nâng cao đáng kể thu nhập của những người về hưu và thực hiện nhiều trợ cấp xã hội khác.
Cần phải công nhận rằng, xét về quy mô, những bất ổn trên phạm vi toàn cầu hiện nay khó có thể khắc phục trong khuôn khổ hệ thống hiện hành. Dĩ nhiên, có thể khắc phục được sự suy giảm mang tính tình thế và hiện nay đa số các nước đang đưa ra các gói giải pháp mang tính chiến thuật cho phép khắc phục được những tác động bức xúc của khủng hoảng ở mức độ này hay mức độ khác. Nhưng theo một tư duy sâu sắc và dài hạn hơn thì những vấn đề hiện nay không mang tính chất tình thế. Nếu tính toán một cách toàn diện thì những gì mà thế giới hiện nay đang gặp phải là một cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống nghiêm trọng, một sự dịch chuyển long trời lở đất trong sự chuyển hóa toàn cầu. Đây là biểu hiện rõ ràng của quá trình chuyển sang một thời đại văn hóa, kinh tế, công nghệ và địa - chính trị mới. Thế giới đang lâm vào một vùng có vòng xoáy. Và dĩ nhiên thời kỳ này sẽ kéo dài và đau đớn. Ở đây chúng ta không nên có ảo tưởng.
Hiện nay, một cực sức mạnh duy nhất trước đây đã không còn có khả năng duy trì sự ổn định toàn cầu, còn những trung tâm ảnh hưởng mới lại chưa sẵn sàng đứng ra đảm nhiệm chức năng đó. Sự khó dự báo ngày càng tăng trong các quá trình kinh tế thế giới và tình hình chính trị - quân sự trên toàn cầu đòi hỏi phải có sự hợp tác tin cậy và trách nhiệm của các quốc gia, trước hết là các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước G8 và G20. Cần phải nỗ lực thường xuyên để vượt qua sự nghi kỵ lẫn nhau, sự áp đặt về tư tưởng và chủ nghĩa cá nhân thiển cận.
Hiện nay các trung tâm kinh tế lớn thay vì trở thành động lực cho sự phát triển, tạo ra sự ổn định cho hệ thống kinh tế thế giới lại đang tạo nên những vấn đề và rủi ro ngày càng tăng. Sự căng thẳng về xã hội và văn hóa sắc tộc đang gia tăng với tốc độ nhanh. Ở nhiều khu vực trên hành tinh, các lực lượng phá hoại đang tác oai tác quái và mang tính xâm lược ngày càng tăng, lâu dài sẽ đe dọa an ninh của tất cả các dân tộc trên Trái đất. Về mặt khách quan, các đồng minh của họ đôi khi lại chính là những quốc gia đang nỗ lực "xuất khẩu dân chủ" thông qua các biện pháp sức mạnh và quân sự. Không thể sử dụng những mục tiêu nhân đạo nhất để biện minh cho sự vi phạm luật quốc tế và chủ quyền quốc gia. Kinh nghiệm chứng tỏ rằng, các mục tiêu ban đầu thường không đạt được, còn thiệt hại lại vượt quá mọi sự hi vọng.
Trong điều kiện đó, nước Nga có thể và cần phải đóng vai trò xứng đáng xuất phát từ mô hình văn minh của nước Nga, lịch sử vĩ đại của nước Nga, vị trí địa lý của nước Nga cũng như truyền thống văn hóa của nước Nga mà trong đó có sự kết hợp giữa nền tảng căn bản của nền văn minh châu Âu với kinh nghiệm nhiều thế kỷ trong sự tương tác với phương Đông mà ở đó hiện nay đang phát triển những trung tâm mới có sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị.
Nước Nga phải đối mặt với kỷ nguyên chuyển hóa toàn cầu đang ập đến trong trạng thái như thế nào? Trong những năm 1990, nước Nga phải trải qua một cú sốc thực sự từ sự tan rã và trì trệ, từ những hạn chế về mặt xã hội và sự mất mát. Thể chế nhà nước suy yếu toàn diện là không thể tránh khỏi trong điều kiện đó. Chúng ta thực sự đã rơi vào tình cảnh báo động. Bản thân thực tế là hàng nghìn kẻ phá hoại có được sự giúp đỡ của một số thế lực từ nước ngoài quyết định tiến công vào một quốc gia có đội quân đông tới hàng triệu người vào năm 1999 đã nói lên tính chất thảm kịch của tình hình và đã có quá nhiều người tưởng rằng có thể đánh bại nước Nga vào thời điểm đó.
Trong điều kiện đó, chúng ta đã phải nỗ lực động viên rất lớn về lực lượng, về nguồn lực để vượt lên từ đáy sâu khủng hoảng. Chúng ta phải chấn chỉnh lại đất nước, đưa nước Nga trở lại vị thế của một chủ thể địa - chính trị. Chúng ta đã phải ổn định lại hệ thống xã hội và phát triển nền kinh tế đang trì trệ. Chúng ta phải khôi phục lại trật tự cơ bản trong hệ thống quyền lực. Chúng ta cần phải khôi phục lại uy tín và sức mạnh của nhà nước Nga như nó đã từng có, phải phục hồi trong khi chưa có được một truyền thống dân chủ có cơ sở vững chắc, chưa có được các đảng phái chính trị và chưa có được một xã hội dân chủ phát triển trong khi phải đối mặt với chủ nghĩa ly khai khu vực, sự thao túng của giới tài phiệt, tham nhũng và đôi khi có hoạt động tội phạm công khai tại các cơ quan của bộ máy quyền lực.
Nhiệm vụ trước mắt trong những tình huống tương tự chính là phục hồi lại sự thống nhất của đất nước trong thực tế. Nói cách khác là thiết lập chủ quyền của nhân dân Nga trên toàn bộ lãnh thổ chứ không phải là sự độc quyền của một số cá nhân hoặc một nhóm người nào đó. Hiện nay ít ai còn nhớ được rằng, nhiệm vụ đó khó khăn và phức tạp đến mức nào và chúng ta đã phải nỗ lực ra sao để giải quyết nó. Có ít người biết được rằng, ngay cả những chuyên gia có uy tín nhất và nhiều thủ lĩnh trên thế giới vào cuối những năm 1990 đều thống nhất trong một dự báo đối với tương lai của nước Nga là sự phá sản và tan rã. Tình hình hiện nay ở Nga, nếu xem xét bằng con mắt của những năm 1990, đã vượt quá mọi dự báo lạc quan nhất.
Hiện nay, thời kỳ phục hồi nước Nga đã qua đi. Giai đoạn hậu Xô-viết trong sự phát triển của nước Nga cũng như trên thế giới đã kết thúc và hết tiềm năng. Giờ đây đã có đầy đủ mọi tiền đề để tiến về phía trước trên nền tảng mới và chất lượng mới ngay cả trong những điều kiện chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại khốc liệt và không thuận lợi nhất. Trong khi đó sự chuyển hóa toàn cầu không thuận nghịch cũng là một cơ hội to lớn đối với nước Nga. Tôi nhìn thấy nhiệm vụ của chúng ta trong những năm tới là loại bỏ mọi vật cản hạn chế con đường phát triển của quốc gia hướng về phía trước. Chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống chính trị ở nước Nga, một cấu trúc các bảo đảm về xã hội và bảo vệ người dân, một mô hình kinh tế ở nước Nga và tất cả sẽ tạo nên một cơ thể nhà nước lành mạnh, phát triển ổn định, phát triển không ngừng, thống nhất và sống động, có khả năng bảo đảm chủ quyền của nước Nga và sự thịnh vượng của dân chúng trong đất nước vĩ đại của chúng ta trong nhiều thập niên tới.
Nước Nga không phải là một đất nước chịu lùi bước trước các thách thức. Nước Nga đang tập trung và đang sử dụng mọi lực lượng để đáp trả mọi thách thức, vượt qua mọi thử thách và bao giờ cũng giành chiến thắng. Chúng ta đang chứng kiến sự phát triển một thế hệ mới các công dân sáng tạo và có trách nhiệm đang nhìn thấy tương lai. Họ đang và sẽ nắm quyền lãnh đạo của xí nghiệp, các ngành và cả cơ quan chính phủ cũng như toàn bộ đất nước./.
Bài 2:
Nước Nga - vấn đề dân tộc
Nga là quốc gia có tính đa dạng về ngôn ngữ, truyền thống, sắc tộc, văn hóa và vấn đề dân tộc có giá trị căn bản. Do vậy, bất kỳ một chính khách và một nhà hoạt động xã hội nào có trách nhiệm cũng cần phải thấy rằng, một trong những nỗ lực chủ yếu quyết định sự tồn tại của đất nước đó là sự đồng thuận công dân và sự đồng thuận giữa các dân tộc.
Chúng ta thấy những gì đang diễn ra trên thế giới tiềm ẩn những nguy cơ nghiêm trọng nhất. Chủ nghĩa dân tộc và mâu thuẫn giữa các tôn giáo đang trở thành nền tảng tư tưởng của những phong trào và nhóm phái cực đoan đa dạng nhất đang hủy hoại, làm suy yếu các quốc gia và chia rẽ xã hội. Những dòng người nhập cư đông đảo và ngày càng gia tăng có thể được gọi là “sự tái phân bố lại” dân sự trên quy mô lớn của các dân tộc, có thể làm thay đổi cuộc sống thường ngày và diện mạo của các châu lục. Hàng triệu người trong khi đi tìm cuộc sống tốt đẹp hơn đã rời bỏ các khu vực nghèo đói, xung đột cũng như sự bất ổn xã hội diễn ra triền miên.
Các quốc gia thịnh vượng nhất và phát triển nhất đang gặp phải sự căng thẳng trong vấn đề dân tộc mà trước đây họ vẫn thường tự hào về xã hội đa sắc tộc trên chính mảnh đất của mình. Nhiều nước lần lượt tuyên bố về sự thất bại trong những nỗ lực hòa nhập các yếu tố có nền văn hóa ngoại lai vào cộng đồng của họ, trong việc bảo đảm sự tương tác hài hòa và không có xung đột giữa các nền văn hóa, tôn giáo và các nhóm sắc tộc khác nhau.
Ở nhiều nước đang hình thành các cộng đồng tôn giáo - dân tộc khép kín không những không chịu đồng hóa, thậm chí không chịu thích nghi. Chúng ta đã thấy có hẳn các khu phố và thành phố mà ở đó các thế hệ những người nhập cư tuy vẫn sống dựa vào sự trợ cấp xã hội nhưng lại không chịu nói bằng thứ ngôn ngữ của nước mình tới định cư. Phản ứng trước mô hình ứng xử đó chính là gia tăng sự bài ngoại trong số cư dân gốc địa phương, là nỗ lực kiên quyết bảo vệ lợi ích, việc làm, phúc lợi xã hội của mình từ những "kẻ cạnh tranh ngoại lai". Nhiều người bị sốc bởi áp lực ngày càng tăng đối với truyền thống của họ, đối với cách sống thường ngày của họ và lo ngại sâu sắc trước việc mất đi bản sắc quốc gia - dân tộc của mình.
Các chính khách đáng kính ở châu Âu bắt đầu nói về sự thất bại của "đề án đa văn hóa". Đằng sau sự thất bại của đề án này là sự khủng hoảng của chính mô hình "nhà nước dân tộc" - một nhà nước có truyền thống lịch sử lâu đời dựa trên cơ sở tính đồng nhất sắc tộc. Điều này là một thách thức nghiêm trọng mà châu Âu cũng như nhiều khu vực khác trên thế giới phải đối mặt.
Nước Nga như là một "nhà nước lịch sử"
Giống nhau về bề ngoài nhưng tình hình ở nước Nga lại khác hẳn về nguyên tắc. Các vấn đề người nhập cư và dân tộc của chúng ta liên quan trực tiếp với sự tan rã Liên Xô dẫn tới sự dãn cách rất lớn trong sự phát triển trong không gian hậu Xô-viết. Cùng với đó, ở một số khu vực riêng lẻ còn đang đứng trước nguy cơ nội chiến do mâu thuẫn sắc tộc. Bằng nỗ lực rất lớn cũng như việc chấp nhận những thiệt hại lớn chúng ta đã ngăn chặn được thảm họa này. Nhưng điều đó tất nhiên không có nghĩa là vấn đề đã được giải quyết. Tuy nhiên, ngay cả trong thời điểm khi nhà nước như là một thể chế bị suy yếu một cách báo động thì nước Nga vẫn tồn tại. Do đó, ngày 4-11 hằng năm của chúng ta là Ngày đoàn kết dân tộc, là "ngày chiến thắng bản thân mình", ngày chiến thắng sự thù địch nội bộ và sự chia rẽ, khi các tầng lớp và các dân tộc đã tự nhận thấy rằng, họ là một cộng đồng chung là nhân dân Nga chúng ta.
Xét về mặt lịch sử, nước Nga không phải là một nhà nước sắc tộc, cũng không phải là “lò luyện thép ở Mỹ" mà ở đó dẫu sao con người vẫn là những kẻ nhập cư. Nước Nga ra đời và phát triển qua bao thế kỷ là một nhà nước đa dân tộc. Một Nhà nước mà trong đó không ngừng diễn ra quá trình thích nghi với nhau, hòa đồng với nhau, hội nhập vào nhau ở cấp độ gia đình, thân hữu và công vụ. Có hàng trăm sắc tộc sống trên chính mảnh đất của mình bên cạnh dân tộc Nga. Nhiều dân tộc đã cùng nhau khai thác lãnh thổ rộng lớn trong suốt toàn bộ lịch sử nước Nga như tộc người Ucraina đang sống trong không gian từ Karpad đến Kamchatka, cũng tương tự như vậy đối với người Tacta, người Do Thái, người Belarus.
Cốt lõi và là sợi chỉ xuyên suốt gắn kết nền văn hóa độc nhất vô nhị này chính là nhân dân Nga, văn hóa Nga, nhưng hiện nay đang bị những kẻ khiêu khích và kẻ thù của chúng ta bằng mọi nỗ lực vứt bỏ ra khỏi nước Nga thông qua những câu chuyện bịa đặt về “quyền tự quyết của người Nga”, về sự "tinh khiết sắc tộc", về việc cần thiết “phải hoàn thành sự nghiệp đang dang dở năm 1991 sau khi Liên Xô tan rã. Rút cuộc, kẻ thù của chúng ta muốn đưa mọi người đến chỗ dùng chính bàn tay mình hủy hoại Tổ quốc.
Tôi tin tưởng sâu sắc rằng, những âm mưu và hành động nỗ lực tuyên truyền cho tư tưởng xây dựng một nhà nước dân tộc Nga đơn sắc tộc mâu thuẫn với lịch sử hàng nghìn năm của chúng ta. Ngoài ra, đây cũng là con đường ngắn nhất dẫn tới hủy hoại dân tộc Nga và thể chế Nhà nước Nga, có nghĩa là hủy hoại một nhà nước có chủ quyền trên mảnh đất của chúng ta.
Quyền tự quyết của nhân dân Nga chính là nền văn minh đa sắc tộc được gắn kết bởi hạt nhân văn hóa Nga. Nhân dân Nga đã khẳng định nhiều lần về sự lựa chọn này, không phải bằng các cuộc trưng cầu ý dân mà là bằng cả máu và toàn bộ lịch sử nghìn năm của mình.
Mã văn hóa thống nhất
Kinh nghiệm phát triển nhà nước Nga rất độc đáo. Chúng ta là một xã hội đa dân tộc, nhưng chúng ta là một nhân dân thống nhất - nhân dân Nga. Điều này làm cho nhà nước chúng ta trở nên phức tạp và đa diện, tạo ra những khả năng vô cùng to lớn để phát triển trong rất nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, nếu một xã hội đa dân tộc bị những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc hủy hoại thì nó sẽ mất đi sức mạnh và sự bền vững. Chúng ta cần phải hiểu rằng, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại và lâu dài như thế nào trước những nỗ lực muốn khơi dậy sự thù hận dân tộc và sự căm ghét đối với những người thuộc nền văn hóa khác và tín ngưỡng khác.
Đoàn Ca múa Viện hàn lâm quốc
gia Liên bang Nga "Bạch Dương" đến Việt Nam biểu diễn trong khuôn khổ
chương trình "Những ngày văn hóa Nga tại Việt Nam".
|
Tôi tin rằng, chúng ta có thể bảo đảm sự phát triển hài hòa của một cộng đồng đa văn hóa dựa trên nền văn hóa của chúng ta, lịch sử và sự đồng nhất của chúng ta. Đó chính là mã văn hóa thống nhất. Nhờ mã văn hóa này mà nhân dân Nga là một yếu tố mang tính gắn kết nhà nước căn cứ vào thực tế tồn tại của nước Nga. Sứ mệnh vĩ đại của người Nga là liên kết, kết nối các nền văn minh. Theo định nghĩa của Fyodor Dostoevsky, đó là bằng ngôn ngữ, bằng văn hóa và bằng “lòng vị tha toàn nhân loại” để gắn kết người Nga thuộc các dân tộc khác nhau như Armenia, Azerbaizan, Đức, Tacta thành một loại hình văn minh - quốc gia mà ở đó không có “dân tộc thiểu số”.
Trong những năm gần đây, mã văn hóa Nga luôn bị các thế lực phản động tìm cách phá hoại, tuy nhiên, mã văn hóa Nga vẫn được những người dân Nga duy trì, nuôi dưỡng, củng cố và giữ gìn. Ở đây giáo dục giữ một vai trò rất lớn. Nhiệm vụ của giáo dục công dân, của hệ thống giáo dục là đem lại cho mỗi con người một khối lượng tuyệt đối cần thiết những tri thức xã hội, làm cơ sở cho sự tự khẳng định của nhân dân. Trước hết là nhằm nâng cao các môn học trong quá trình giáo dục như tiếng Nga, văn học Nga, lịch sử quốc gia và dĩ nhiên là phải kết hợp toàn bộ sự phong phú truyền thống với văn hóa dân tộc. Nên chăng, thử tiến hành thăm dò ý kiến của các nhà văn hóa có uy tín của chúng ta và lập danh sách 100 cuốn sách mà mỗi một học sinh trung học của Nga cần phải đọc. Không phải là sách để nghiên cứu trong trường học mà là sách để tự đọc và vì vậy, hãy tổ chức một môn thi tốt nghiệp trung học viết bài luận về các chủ đề đã được đọc. Hoặc ít nhất chúng ta hãy tạo khả năng cho những người trẻ tuổi thể hiện tri thức và thế giới quan của mình tại các cuộc thi Olympic hoặc các cuộc thi khác. Ngoài ra, chúng ta cần sử dụng các công cụ như truyền hình, điện ảnh, mạng Internet, văn hóa quần chúng nói chung để tạo ra nhận thức xã hội, mẫu mực và tiêu chuẩn ứng xử có văn hóa. Tôi nhấn mạnh rằng, nhà nước cần phải có trách nhiệm và có quyền sử dụng tiềm năng sẵn có của mình để giải quyết các nhiệm vụ xã hội. Trong đó có cả nhiệm vụ hình thành thế giới quan có tác dụng gắn kết dân tộc.
Chính sách văn hóa ở tất cả các cấp, từ sách giáo khoa phổ thông đến tài liệu lịch sử, cần phải tạo ra một nhận thức thống nhất về quá trình lịch sử mà trong đó đại diện của mỗi một sắc tộc cũng như hậu thế của các "chính ủy đỏ" hoặc "sĩ quan bạch vệ" đều tìm thấy được vị trí của mình, để mỗi người đều cảm thấy mình là hậu duệ của một nước Nga lịch sử vĩ đại, đầy mâu thuẫn và bi tráng đối với tất cả mọi người.
Chúng ta cần phải có một chiến lược chính sách quốc gia dựa trên chủ nghĩa yêu nước công dân. Mỗi một người sống trong đất nước chúng ta không được quên đức tin và sắc tộc của mình. Nhưng đồng thời, mỗi người cũng cần phải coi mình là công dân của nước Nga và tự hào về điều đó. Không ai có quyền đặt đặc điểm dân tộc và tôn giáo cao hơn pháp luật của nhà nước. Tuy nhiên, ở đây bản thân pháp luật của nhà nước cũng cần phải tính đến đặc điểm dân tộc và tôn giáo.
Chính sách dân tộc và vai trò của các thể chế sức mạnh
Hiện nay, một số thế lực âm mưu chia rẽ nước Nga đang gắn kết các mâu thuẫn sắc tộc với các hiện tượng tiêu cực vẫn còn tồn tại trong xã hội như những khó khăn kinh tế - xã hội chưa được giải quyết, các khiếm khuyết của hệ thống bảo vệ pháp luật, tính không hiệu quả của bộ máy quyền lực, tham nhũng, sự phân hóa giàu nghèo. Do đó, các cơ quan bảo vệ pháp luật của chúng ta cần phải đánh giá một cách nghiêm túc nhất hoạt động của các quan chức hoặc cơ quan có liên quan, không phân biệt cấp hàm của họ, để xảy ra tình hình căng thẳng giữa các dân tộc. Các cơ quan nhà nước cần làm rõ đến tận cùng bản chất của mọi mâu thuẫn và cáo buộc lẫn nhau liên quan tới vấn đề dân tộc, không để tình trạng thiếu thông tin cập nhật, hoặc thông tin sai lệch, làm phức tạp thêm tình hình. Ở đây tính chuyên nghiệp và trách nhiệm của các phương tiện thông tin đại chúng cũng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc giải tỏa tình hình căng thẳng trong xã hội liên quan tới vấn đề dân tộc.
Hiện nay ở các vùng lãnh thổ vốn trước đây thuộc Nga, quyền lợi của người Nga đang bị xâm hại. Điều đó có nghĩa là thể chế nhà nước không thực hiện được nhiệm vụ của mình, không bảo vệ được đời sống, quyền và sự an toàn của các công dân. Nhưng vì đa số những công dân này là người Nga nên xuất hiện khả năng người ta lợi dụng chủ đề “dân tộc Nga ức hiếp” rồi kích động hành động phản kháng xã hội dưới dạng xung đột giữa các dân tộc. Đồng thời, không loại trừ khả năng một số thế lực lợi dụng bất kỳ lý do nào để nói về “chủ nghĩa phát xít Nga”, từ đó kích động bạo loạn, gây bất ổn trong xã hội.
Tuy nhiên, những kẻ mưu toan lợi dụng mâu thuẫn sắc tộc để kích động bạo loạn không nên ảo tưởng rằng, họ có thể sử dụng bạo lực để buộc chính quyền phải đưa ra một giải pháp này hay giải pháp khác. Các cơ quan bảo vệ pháp luật của chúng ta đã chứng tỏ rằng, họ có thể nhanh chóng hóa giải được những hành động bạo lực như vậy.
Vấn đề kiều dân và đề án liên kết của chúng ta
Hiện nay các công dân đang đặc biệt lo ngại, và tôi cũng nói thẳng ra rằng, họ đang rất quan tâm đến hiện tượng tiêu cực liên quan đến sự di cư hàng loạt ở nước Nga cũng như bên ngoài nước Nga. Do đó nảy ra vấn đề, liệu việc xây dựng Liên minh Á-Âu có dẫn tới việc gia tăng các dòng người nhập cư, nghĩa là làm gia tăng những vấn đề hiện nay chưa được giải quyết hay không. Tôi cho rằng, chúng ta cần giải quyết 4 vấn đề.
Một là, cần phải nâng cao một bậc chất lượng chính sách nhập cư của Nhà nước. Sẽ không bao giờ và không ở đâu có thể loại trừ được hoàn toàn sự nhập cư bất hợp pháp. Nhưng cần phải giảm thiểu số người này đến mức thấp nhất. Về phương diện này, chức năng của cảnh sát và quyền hạn của các cơ quan nhập cư cần phải được tăng cường. Tuy nhiên, việc thắt chặt chính sách nhập cư một cách máy móc sẽ không đem lại kết quả. Ở nhiều nước, việc thắt chặt đó chỉ làm tăng tỷ phần những người nhập cư bất hợp pháp. Tiêu chí của chính sách nhập cư không phải là ở các biện pháp ngặt nghèo mà là ở hiệu quả của nó. Có nghĩa là, phải đưa ra những ưu tiên và chế độ rõ ràng để tạo điều kiện thuận lợi trong chính sách nhập cư nhằm tiếp nhận những công dân có nghề nghiệp, có khả năng cạnh tranh, hòa nhập văn hóa cũng như hành vi.
Hai là, ở Nga hoạt động di cư nội bộ khá phát triển, trong đó con người di cư để học, để sống, để làm việc tại các vùng khác của Liên bang hoặc ở các thành phố lớn. Đó là những công dân Nga với đầy đủ quyền hạn. Do đó, những ai đến các khu vực có truyền thống văn hóa và lịch sử khác cần phải tôn trọng tập quán địa phương. Đó là tập quán của người Nga cũng như tất cả các dân tộc khác ở Nga. Cần phải xét xem, liệu đã có các tiêu chuẩn cần thiết trong bộ luật hình sự và hành chính, trong các cơ quan nội vụ cần thiết để kiểm soát hành vi như vậy của người di cư hay chưa. Để đáp ứng nhu cầu di cư nội địa, cần phải phát triển hài hòa hạ tầng cơ sở xã hội, y tế, giáo dục, thị trường lao động.
Ba là, củng cố hệ thống tư pháp và xây dựng các cơ quan bảo vệ pháp luật có hiệu quả. Điều này có tầm quan trọng về mặt nguyên tắc không chỉ đối với hoạt động di cư ra bên ngoài mà trong trường hợp của chúng ta là đối với cả di cư nội địa, thí dụ như sự di cư từ các khu vực Bắc Cápca. Ngoài ra, sự mất hiệu lực hoặc tham nhũng của tòa án và cảnh sát không chỉ dẫn tới sự bất bình và hành động cực đoan của bên tiếp nhận người di cư mà còn dẫn đến hậu quả tạo ra nền kinh tế ngầm trong môi trường nhập cư. Không thể để xảy ra tình trạng hình thành những vùng dân tộc khép kín, biệt lập mà trong đó hệ thống pháp luật không có hiệu quả. Xét từ quan điểm pháp lý, các nhóm tội phạm hình thành theo nguyên tắc dân tộc và phe nhóm không có gì tốt đẹp hơn so với những tổ chức tội phạm thông thường. Nhưng trong điều kiện của Nga, tội phạm mang tính chất sắc tộc còn mang tính chất an ninh quốc gia.
Bốn là, vấn đề liên kết văn minh và xã hội hóa hoạt động di cư. Một lần nữa cần phải quay trở lại vấn đề giáo dục, không chỉ bàn về tính ưu lợi của hệ thống giáo dục để giải quyết các vấn đề của chính sách di cư. Đây cũng không phải là vấn đề chủ yếu của trường học, mà trước hết là các tiêu chuẩn cao của nền giáo dục nước nhà. Khả năng thu hút của giáo dục và giá trị của giáo dục là đòn bẩy mạnh mẽ, là chất xúc tác hành vi liên kết đối với người nhập cư xét từ bình diện hòa nhập của họ vào xã hội.
Đối với chúng ta, điều quan trọng là để làm sao cho người di cư có thể thích nghi một cách bình thường trong xã hội. Yêu cầu cơ bản đối với những người có nguyện vọng sống và làm việc ở Nga chính là thái độ của họ khi sẵn sàng tiếp nhận nền văn hóa và ngôn ngữ của chúng ta. Tính từ năm sau cần phải tiến hành kiểm tra tiếng Nga, lịch sử Nga, văn hóa Nga, những điều cơ bản của nhà nước Nga, luật pháp Nga như một biện pháp bắt buộc để tiếp nhận và gia hạn quy chế nhập cư.
Năm là, liên kết chặt chẽ trong không gian hậu Xô-viết là một phương án thực tế thay thế dòng người nhập cư không kiểm soát. Do đó, chúng ta sẽ xây dựng một nền kinh tế mới có việc làm hiệu quả, tái lập các cộng đồng nghề nghiệp, phát triển đồng đều lực lượng sản xuất và hạ tầng xã hội trên toàn bộ đất nước, kết hợp với Liên minh Á-Âu, coi đó là công cụ then chốt để từ đó có thể đưa hoạt động di cư vào quỹ đạo bình thường, để các công dân có thể có được một cuộc sống bình thường và tiện nghi ở ngay tại quê hương xứ sở của họ. Chúng ta cần phải xây dựng một mô hình nhà nước và một cộng đồng văn minh với cơ cấu tổ chức hấp dẫn và hài hòa đối với tất cả những ai coi nước Nga là Tổ quốc của mình.
Chúng ta sẽ củng cố nhà nước lịch sử của chúng ta do các thế hệ cha ông để lại. Một nhà nước văn minh có khả năng giải quyết một cách hài hòa các nhiệm vụ liên kết các sắc tộc và tôn giáo khác nhau. Chúng ta đã từng cùng nhau chung sống qua nhiều thế kỷ. Chúng ta đã từng giành chiến thắng trong một cuộc chiến tranh khủng khiếp nhất. Hiện nay chúng ta sẽ cùng nhau tiếp tục sống và hướng về tương lai. Còn đối với những ai muốn chia rẽ chúng ta thì tôi chỉ có thể nói rằng: họ sẽ đợi đấy./.
Bai 3:
Về nhiệm vụ kinh tế của chúng ta
Chúng ta đang sống trong thời kỳ của những biến chuyển căn bản trong đời sống kinh tế của toàn thế giới. Chưa bao giờ công nghệ đổi mới nhanh như hiện nay. Rất nhiều điều mà chúng ta đang chứng kiến trong cuộc sống xung quanh ngày hôm nay thì cách đây 10-20 năm là chuyện viễn tưởng.
Chưa bao giờ cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo trong sự cạnh tranh toàn cầu lại khốc liệt như hiện nay, trong đó chúng ta đang chứng kiến những quốc gia mà vị thế của họ ngày hôm qua dường như không gì lay chuyển được lại đang bắt đầu nhường chỗ cho những nước mới gần đây không ai để ý tới.
Chưa bao giờ con người phải đối mặt với những rủi ro quá lớn từ các thảm họa sinh thái và công nghệ. Chưa bao giờ môi trường thiên nhiên phải đối mặt với những nguy cơ nghiêm trọng đến như vậy nhưng khả năng của loài người lại cũng chưa bao giờ to lớn như hiện nay. Thắng lợi sẽ thuộc về ai sử dụng những khả năng mới đầy đủ hơn hoặc tốt hơn những người khác.
Một khu công nghệ cao ở Thủ đô Moscow của Nga
|
Trong điều kiện như vậy, điều quan trọng là phải bảo đảm sự phát triển ổn định và sự tịnh tiến của nền kinh tế Nga, bảo đảm tối đa cho các công dân Nga tránh được tác động của các cuộc khủng hoảng, đồng thời không ngừng và nhanh chóng đổi mới tất cả các viên gạch xây nên đời sống kinh tế, từ cơ sở vật chất kỹ thuật đến cách tiếp cận đối với chính sách kinh tế của nhà nước.
Vị trí của nước Nga trong sự phân công lao động quốc tế
Sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga cần tham gia vào quá trình phân công lao động trên phạm vi toàn cầu. Thị trường của các nước phát triển được ngăn cản bởi nhiều hàng rào khác nhau để bảo vệ các lợi ích của riêng họ, trong khi sự liên kết giữa các nền kinh tế của các nước lại bị hạn chế bởi sự khác nhau về các tiêu chuẩn công nghệ.
Trong điều kiện đó, chúng ta đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thế giới với hơn 1/4 tổng thu nhập quốc nội của nước Nga nhờ xuất khẩu khí đốt, dầu mỏ, kim loại, rừng, tài nguyên rừng và nhiều sản phẩm chế biến ra thị trường thế giới. Nước Nga hiện đang phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới và liên kết vào nền kinh tế đó một cách rất mạnh mẽ, thậm chí mạnh mẽ hơn, so với đa số các nước khác. Chúng ta đã quá phụ thuộc vào việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, công nghệ và sản phẩm phức tạp; phụ thuộc vào sự dao động về giá đối với những hàng xuất khẩu chủ yếu, nghĩa là phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà chúng ta không thể kiểm soát được.
Do đó chúng ta cần phải có một nền kinh tế mới, một nền công nghiệp và hạ tầng cơ sở có khả năng cạnh tranh với lĩnh vực dịch vụ phát triển, một nền nông nghiệp có hiệu quả, một nền kinh tế hoạt động trên cơ sở công nghệ hiện đại. Chúng ta cần phải xây dựng một cơ chế đổi mới kinh tế có hiệu quả, tìm được và thu hút được tài nguyên con người và vật chất to lớn để phát triển kinh tế.
Vượt qua sự lạc hậu về công nghệ
Cần tìm ra các giải pháp cho phép chúng ta vượt qua sự phụ thuộc công nghệ một chiều như hiện nay. Dĩ nhiên, không ai lặp lại kinh nghiệm “khép kín” của Liên Xô trong điều kiện đối đầu với phương Tây đã xây dựng nên một cơ sở công nghệ hoàn toàn độc lập bởi một phần lớn các công nghệ được cho là “độc đáo” trong điều kiện cô lập đã bị lạc hậu so với các đối thủ cạnh tranh mà chúng ta chỉ phát hiện ra điều này sau khi Liên Xô tan rã.
Chúng ta phải nỗ lực giành một vị trí xứng đáng trong sự phân công lao động quốc tế. Chúng ta không chỉ phấn đấu trở thành một quốc gia cung cấp tài nguyên và năng lượng mà còn như một quốc gia sở hữu những công nghệ tiên tiến luôn đổi mới, ít nhất là trong một số lĩnh vực. Nếu không chúng ta sẽ mất đi tài nguyên, và phải trả giá để mua những công nghệ mới ngày càng phức tạp và đắt tiền. Ở đây tỉ phần lớn trong tổng sản phẩm thế giới thuộc về công nghệ cao đó, còn tỉ phần của hàng hóa nguyên liệu và các dịch vụ truyền thống ngày một giảm.
Để giành lại vị thế dẫn đầu về công nghệ, nước Nga cần phải lựa chọn một số ưu tiên như công nghệ dược, công nghệ hóa học có trình độ cao, vật liệu tổng hợp, vật liệu phi kim loại, công nghiệp hàng không, công nghệ nano, công nghệ vũ trụ và nguyên tử. Tất nhiên, danh mục những lĩnh vực ưu tiên này không chỉ dừng lại ở đó.
Kinh nghiệm của quá trình hiện đại hóa nền kinh tế thắng lợi ở các nước như Hàn Quốc và Trung Quốc chứng tỏ rằng, cần phải có động lực từ phía nhà nước trong phát triển công nghệ cao. Nếu không nỗ lực có tác dụng định hướng từ phía nhà nước, sẽ rất khó khăn trong việc thực hiện quá trình đa dạng hóa nền kinh tế. Nhưng chúng ta cần phải làm cho chính sách lựa chọn cũng như ưu tiên cho sự hỗ trợ của nhà nước được minh bạch và công khai một cách tối đa.
Cạnh tranh là cơ sở của nền kinh tế hiện đại, xuất phát từ chỗ các công ty nghiên cứu thiết kế chế tạo và chủ nhân của các công nghệ tiên tiến không muốn để người sử dụng những công nghệ đó tiếp cận đến cái gọi là "hạt nhân công nghệ", nghĩa là những bí quyết công nghệ. Điều này không chỉ liên quan đến những cơ sở nghiên cứu và phát triển có kinh nghiệm mà là toàn bộ chu trình dịch vụ công nghệ. Nếu một nước nào đó chấp nhận đứng ngoài các giải pháp công nghệ tiên tiến thì nước đó sẽ luôn bị thiệt hại về mặt kinh tế.
Chu trình đổi mới nền kinh tế Nga
Điều kiện chủ yếu để nền kinh tế có nhu cầu đổi mới là tạo ra khả năng cạnh tranh. Chỉ có cạnh tranh mới buộc xí nghiệp tư nhân tìm ra các giải pháp công nghệ tốt nhất và đổi mới sản phẩm. Tôi nhìn thấy tất cả các thách thức đối với nhiều ngành của chúng ta khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Tôi bảo đảm sẽ làm tất cả để giảm bớt đến mức tối đa những khó khăn trong thời kỳ chuyển đổi, nhưng các nhà sản xuất hàng công nghiệp cần phải hiểu rõ một điều là thời gian của các thị trường trong nước không còn nữa và lúc này họ phải tiếp cận thị trường thế giới. Còn trong ngành sản xuất công nghệ cao chỉ có một thị trường toàn cầu. Chúng ta cần phải khai thác sử dụng tất cả những yếu tố như trình độ học vấn cao của dân chúng; di sản lớn của các ngành khoa học cơ bản; sự tồn tại của các trường phái kỹ thuật; cơ sở sản xuất thử nghiệm đang hoạt động trong rất nhiều ngành khác nhau.
Cần bắt đầu đổi mới nền kinh tế của chúng ta từ các trường đại học cũng như từ các trung tâm khoa học cơ bản và tiềm năng con người. Khả năng cạnh tranh quốc tế của các trường đại học Nga cần phải là một nhiệm vụ có tầm quốc gia. Chúng ta cần xây dựng nhiều trường đại học tầm cỡ thế giới trong tất cả các lĩnh vực công nghệ vật chất và xã hội hiện đại vào năm 2020. Điều đó có nghĩa là cần phải bảo đảm cung cấp tài chính ổn định cho các tập thể khoa học của các trường đại học và nâng tầm của các tập thể đó ngang với trình độ quốc tế. Chúng ta cần tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường đại học, đồng thời tiến hành quá trình tái cấu trúc toàn bộ lĩnh vực giáo dục chuyên nghiệp một cách có cân nhắc trên cơ sở phối hợp với cộng đồng chuyên gia cũng như dư luận xã hội.
Cần giao cho Viện Hàn lâm khoa học Nga, các trường đại học nghiên cứu và các trung tâm khoa học hàng đầu của nhà nước các chương trình nghiên cứu khoa học cơ bản và nghiên cứu thăm dò trong 10 năm. Nhưng những cơ sở đó phải bảo vệ luận chứng khi xây dựng và phải thường xuyên báo cáo kết quả không chỉ trước các quan chức của Bộ Khoa học, mà còn phải báo cáo trước những người đóng thuế và cộng đồng khoa học với sự tham gia của các chuyên gia quốc tế có uy tín. Còn các cơ sở thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học quốc phòng và các công trình khác mà trong đó nhà nước có lợi ích trực tiếp, cần phải báo cáo trước lãnh đạo của Chính phủ.
Đến năm 2018, Nga sẽ tăng 25 tỉ rúp, đầu tư cho các quỹ khoa học của nhà nước ủng hộ các sáng kiến nghiên cứu của các tập thể khoa học. Tỉ lệ của các khoản đầu tư đó phải tương đương với khoản đầu tư cho các nhà khoa học ở phương Tây. Vì vậy, cần nhanh chóng khai thác đến mức tối đa các công nghệ nhập khẩu, xây dựng tại Nga các trung tâm phát triển công nghệ. Các cơ sở dẫn đầu thị trường công nghệ trên thế giới đã trải qua giai đoạn 1 coi Nga như là một thị trường hấp dẫn và lớn, cũng như giai đoạn 2 là đầu tư để phát triển sản xuất tại Nga và hiện nay đang chuyển sang giai đoạn 3 là tạo ra những công nghệ mới và sản phẩm mới ngay trên lãnh thổ Nga. Nhưng họ chỉ đến Nga trong trường hợp nhìn thấy được các trường đại học kỹ thuật và các trung tâm khoa học có khả năng cạnh tranh ở cấp độ thế giới ngay tại Nga.
Nhà nước sẽ ủng hộ các đề án xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn, trước hết là những đề án bảo đảm sự liên kết giao thông vận tải của nước Nga, bảo đảm mối liên hệ tin cậy với các khu vực ở Siberia và Viễn Đông; tập trung phát triển mạng lưới đường giao thông ở các địa phương. Hiện nay chúng ta đang đứng trước một tình huống nghịch cảnh thực sự là nước Nga, với một lãnh thổ rộng lớn, lại đang thiếu các khu vực để xây dựng, do thiếu vắng cơ sở hạ tầng như đướng sá, điện, nước. Kinh doanh, trước hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ, sẽ nhanh chóng thực hiện những khả năng mới xuất hiện cùng với sự phát triển kết cấu hạ tầng, trước hết là mạng lưới giao thông. Nhưng chỉ có nhà nước có khả năng xây dựng mạng lưới đường sá trong điều kiện hiện đại, trong đó có sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân. Để làm điều đó chúng ta sẽ phải nâng cao vượt bậc hiệu quả chi phí.
Lĩnh vực nông nghiệp trong nền kinh tế của chúng ta đang thể hiện nhịp độ tăng trưởng tốt trong những năm gần đây. Trên thực tế, tất cả các nước phát triển ở hình thức này hay hình thức khác đều hỗ trợ hoặc tài trợ cho các nhà sản xuất nông nghiệp và do đó Nga không phải là trường hợp ngoại lệ. Trong điều kiện bất định của thị trường thế giới, giá cả dao động lớn đối với việc sản xuất, thì an ninh nông nghiệp và khả năng của đất nước tự nuôi sống mình là một điều kiện không kém phần quan trọng nhằm tạo ra sự ổn định về kinh tế và xã hội. Lĩnh vực nông nghiệp là một yếu tố quan trọng để duy trì môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế.
Chúng ta lấy vốn từ đâu?
Trong tình hình hiện nay, chúng ta cần làm gì để giải quyết vấn đề vốn?
Một là, tăng quy mô và phạm vi thị trường nội địa, làm cho nó hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đồng thời, Nga sẽ không ngừng nỗ lực tạo ra một thị trường thống nhất với các nước láng giềng, một thị trường mà ở đó sự thâm nhập của hàng hóa và dịch vụ không gặp phải bất kỳ cản trở nào, trong đó không gian năng lượng thống nhất sẽ nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư từ các nước.
Hai là, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo ra môi trường kinh doanh hấp dẫn trong nước đối với các khoản vốn đầu tư dài hạn. Trong những năm gần đây, theo sáng kiến của Tổng thống Nga Dmitry Medvedev, chúng ta đã bắt đầu tiến hành hàng loạt cải cách theo hướng này. Hạn chế hiện nay ở Nga là do còn thiếu hệ thống pháp lý đáp ứng được các yêu cầu hiện đại, sự thiếu tính minh bạch và thiếu tính kiểm soát từ phía xã hội đối với hoạt động của đại diện từ phía nhà nước, từ các dịch vụ hải quan và thuế đến hệ thống lập pháp và bảo vệ pháp luật. Đáng lo ngại là ở Nga hiện tượng tham nhũng ở các cơ quan công quyền còn mang tính hệ thống. Do đó, việc “dọn dẹp” môi trường kinh doanh để các doanh nghiệp sẵn sàng giành thắng lợi trong cạnh tranh trung thực là nhiệm vụ căn bản và mang tính hệ thống.
Ba là, cần thu hút tiền tiết kiệm của dân cư phục vụ cho thị trường vốn. Cần tạo điều kiện cho dân cư có được thu nhập từ sự tăng trưởng kinh tế bằng cách góp vốn đầu tư cho nền kinh tế. Chúng ta cần phải có các chương trình thu hút đầu tư vốn của nhân dân thông qua các quỹ hưu trí, quỹ tín nhiệm, quỹ đầu tư tập thể. Ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, đây là một phần đáng kể trong khoản vốn của nhà nước..
Giảm vai trò của nhà nước trong nền kinh tế
Cuộc khủng hoảng thế giới đã chứng tỏ vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế. Nhưng nước Nga khác với nhiều nước khác trên thế giới là nhà nước vẫn đóng vai trò còn lớn trong kinh tế và vẫn can thiệp một cách đáng kể hơn vào hoạt động quản lý. Tuy nhiên, các phương pháp quản lý của Nga đang lạc hậu so với các phương pháp tương tự của các nước khác. Do đó, một mặt chúng ta phải cải tiến phương pháp quản lý, mặt khác phải giảm phạm vi và quy mô quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế.
Điều kiện kinh tế vĩ mô của sự tăng trưởng
Điều kiện nhất thiết phải có hiện nay ở nước Nga là duy trì và củng cố sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Đây là thành tựu lớn nhất của nước Nga trong những năm gần đây. Chúng ta đã học được cách đánh giá sự ổn định kinh tế vĩ mô và sử dụng các công cụ để duy trì nó trong những điều kiện phức tạp nhất. Nhờ có các quỹ dự trữ được xây dựng từ trước, chúng ta đã chịu được áp lực của làn sóng thứ nhất từ cuộc khủng hoảng của thế giới.
Chúng ta sẽ tiếp tục đảm đương trách nhiệm bảo đảm ngân sách dài hạn khá lớn trong lĩnh vực xã hội, sẽ đầu tư đáng kể để hiện đại hóa các lực lượng vũ trang Nga, cần tăng đầu tư để phát triển y tế, giáo dục, xây dựng và sửa chữa đường giao thông.
Sẽ kiên quyết loại bỏ tất cả các dự án không hiệu quả, sẽ kiểm soát ngặt nghèo chi phí, chất lượng xây dựng và giá cả cho các hoạt động mua sắm công. Thực chất là nâng cao hiệu quả sử dụng tiền của nhà nước ở cấp độ liên bang cũng như cấp độ khu vực. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ cho phép tạo ra được ít nhất là 5%, hoặc cũng có thể là 10% ngân sách, nghĩa là từ 1-2% GDP hằng năm.
Thế nào là nền kinh tế mới của nước Nga?
Nền kinh tế mới của nước Nga là nền kinh tế đa dạng hóa mà ở đó ngoài tổ hợp nhiên liệu năng lượng hiện đại sẽ phát triển những lĩnh vực khác có khả năng cạnh tranh. Tỉ phần của các lĩnh vực công nghệ cao và có trí tuệ cao trong GDP cần phải tăng lên 1,5 lần đến năm 2020. Hiện nay, xuất khẩu công nghệ cao của Nga đã tăng lên gấp 2 lần.
Nền kinh tế mới của nước Nga là một nền kinh tế có hiệu quả, với năng suất lao động cao và chi phí năng lượng thấp. Chúng ta cần phải giảm đáng kể sự tụt hậu giữa Nga với các nước dẫn đầu thế giới. Điều đó có nghĩa là cần phải tăng năng suất lao động trong nền kinh tế lên 2 lần, còn trong các lĩnh vực then chốt phải đạt được năng suất lao động tương đương hoặc cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Trong trường hợp ngược lại, chúng ta sẽ không có hi vọng giành thắng lợi trong quá trình cạnh tranh toàn cầu.
Nền kinh tế mới của nước Nga sẽ hình thành dựa trên việc tạo ra việc làm năng suất cao và có thu nhập cao. Thu nhập trung bình của nền kinh tế cần phải tăng lên theo giá trị thực tế 1,6 - 1,7 lần, ước tính 40 ngàn rup theo thời giá của năm 2011. Định mức sẽ còn cao hơn nữa. Bên cạnh đó, nền kinh tế mới của nước Nga còn phải là nền kinh tế với những công nghệ không ngừng đổi mới. Tỉ phần của các xí nghiệp áp dụng những công nghệ đổi mới cần phải tăng lên 2,5 lần, từ 10,5% hiện nay lên 25% vào cuối thập niên sắp tới, nghĩa là đạt được mức trung bình hiện nay của các nước châu Âu.
Nền kinh tế mới của nước Nga sẽ là nền kinh tế mà ở đó xí nghiệp nhỏ chiếm không dưới một nửa việc làm trong nền kinh tế. Ngoài ra, phần đáng kể doanh nghiệp nhỏ vào năm 2020 phải là một lĩnh vực lao động có trí tuệ và tính sáng tạo cao, hoạt động trên thị trường toàn cầu thông qua việc xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ. Và đằng sau mỗi chỉ số vĩ mô, đằng sau mỗi một đề án cụ thể, chúng ta cần phải nhìn thấy có bao nhiêu việc làm mới sẽ đem lại cho nước Nga và sẽ thay đổi chất lượng việc làm như thế nào, cũng có nghĩa là thay đổi chất lượng cuộc sống của con người./.
Bài 4:
Dân chủ và chất lượng của Nhà nước
Sự phát triển ổn định của xã hội không thể thiếu một nhà nước có năng lực, và nền dân chủ thực sự là điều kiện cần thiết để xây dựng nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của xã hội. Không thể tạo dựng nền dân chủ thực sự ngay tức khắc, cũng như không thể sao chép dân chủ từ bên ngoài. Cần tạo điều kiện để xã hội sẵn sàng sử dụng các cơ chế dân chủ, để đa số người dân cảm thấy mình cần phải có nghĩa vụ công dân, sẵn sàng đầu tư trí tuệ, thời gian và sức lực tham gia quá trình quản lý đất nước. Nói cách khác, dân chủ sẽ phát huy hiệu quả ở những nơi con người sẵn sàng góp phần xây dựng cho nền dân chủ đó.
Vào đầu những năm 1990, xã hội chúng ta chứng kiến sự sụp đổ của hệ thống Xô-viết một đảng và được quản lý theo cơ chế mệnh lệnh - hành chính. Trong khi đó, ngay bên cạnh chúng ta đã sẵn có hình mẫu các nên dân chủ văn minh và lâu đời ở Mỹ cũng như các nước Tây Âu. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng các hình thức nhà nước dân chủ đã làm ngừng trệ các cải cách kinh tế cần thiết và sau đó những hình thức này đã bị các giới tài phiệt ở trung ương và địa phương sử dụng một cách trắng trợn để phục vụ cho mục đích chiếm đoạt tài sản của toàn xã hội.
Kết cục là trong những năm 1990, dưới ngọn cờ phát triển dân chủ, chúng ta đã không thể xây dựng được một nhà nước hiện đại mà chỉ là cuộc đấu tranh gay gắt giữa các phe nhóm và vô vàn các biểu hiện của chế độ nửa phong kiến. Chúng ta đã không tạo ra được chất lượng mới cho cuộc sống, không tạo ra sự công bằng và xã hội tự do mà chỉ để lại vô vàn các hạn chế về mặt xã hội, một sự vô lối của các giới tinh hoa tự phong, công khai bỏ mặc và không đếm xỉa đến lợi ích của những người dân bình thường.
Trong những năm 1990, xã hội của chúng ta bao gồm những con người vừa mới chia tay với chế độ Xô-viết, chưa học được cách trở thành chủ nhân của chính số phận mình, vẫn quen sống và chờ đợi vào Nhà nước, nhiều khi bị thất vọng và không có khả năng ứng phó trước mọi thủ đoạn lừa gạt. Trải qua một quá trình trưởng thành đầy khó khăn, chúng ta đã phục hồi lại Nhà nước và chủ quyền của nhân dân vốn là nền tảng của nền dân chủ đích thực. Nền chính trị được hình thành trong những năm 2000 đã từng bước thể hiện được ý chí của người dân. Điều này đã được khẳng định qua mỗi lần bầu cử và các cuộc thăm dò dư luận xã hội giữa các cuộc bầu cử. Hiện nay, xã hội Nga đã hoàn toàn khác so với đầu những năm 2000.
Về sự phát triển dân chủ
"Môi trường chính trị" cũng như môi trường đầu tư đòi hỏi không ngừng được hoàn thiện. Nhưng cùng với đó, điều đầu tiên chúng ta cần phải chú ý là làm thế nào cơ chế chính trị tính hết được lợi ích của các tầng lớp xã hội.
Chúng ta không cần phải làm ảo thuật và cạnh tranh trong việc tung ra những lời hứa không có cơ sở bảo đảm. Chúng ta không cần tạo ra tình trạng mà trong đó dân chủ chỉ là một tấm biển quảng cáo, “quyền lực của nhân dân” chỉ là trò thuyết giảng chính trị diễn ra một lần như một hình thức giải trí và là sự tung hứng của các ứng cử viên qua những lời cáo buộc lẫn nhau. Chúng ta cần phải tránh xa sự bế tắc này. Trong chính trị bao giờ cũng có một phần tất yếu của công nghệ chính trị nhưng những người tự tạo dựng hình ảnh cho mình và “các nhà sản xuất quảng cáo” thì không thể là những nhà chính trị.
Trung tâm thông tin quốc tế giám sát quá trình bầu cử Tổng thống Nga ngày 4-3-2012 nhằm bảo đảm tính minh bạch, công khai, dân chủ với sự tham gia của hàng ngàn quan sát viên đến từ nhiều nước. |
Nền chính trị không chỉ bảo đảm tính hợp pháp của bộ máy quyền lực mà còn tạo ra niềm tin ở con người vào sự công bằng trong quyền lực, kể cả khi con người thuộc thiểu số trong xã hội. Chúng ta cần phải có một cơ chế để bảo đảm cho nhân dân đề cử những người có trách nhiệm và có trình độ chuyên môn vào bộ máy quyền lực ở tất cả các cấp để suy nghĩ vì mục đích phát triển quốc gia. Chúng ta cần một cơ chế mở, rõ ràng và linh hoạt đối với xã hội để soạn thảo, thông qua và thực hiện các quyết định có ý nghĩa chiến lược cũng như chiến thuật.
Một điều quan trọng là chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống chính trị mà trong đó mọi người được và cần nói sự thật. Những ai đề xuất giải pháp và chương trình phải chịu trách nhiệm thực hiện những điều đó. Những ai bầu chọn những người ra quyết định phải hiểu rõ họ cần bầu chọn ai. Điều này sẽ đem lại niềm tin, sự đối thoại mang tính xây dựng cũng như sự tôn trọng lẫn nhau giữa xã hội và bộ máy quyền lực.
Cơ chế tham gia mới
Chúng ta cần phải có khả năng phản ứng trước nhu cầu của con người ngày càng trở nên phức tạp trong thế kỷ thông tin, khi nhu cầu của xã hội đang có những chất lượng mới. Do đó, một nền dân chủ hiện đại vốn là quyền lực của nhân dân không thể chỉ dẫn đến sự “vỗ tay hoan hô”. Dân chủ chính là quyền cơ bản của nhân dân để lựa chọn bộ máy quyền lực cũng như khả năng tác động đến bộ máy quyền lực và quá trình thông qua các quyết định của bộ máy quyền lực. Nghĩa là, dân chủ cần phải có những cơ chế tác động thường xuyên và tác động trực tiếp, có các kênh đối thoại hiệu quả, có cơ chế kiểm soát xã hội, truyền thông và mối liên hệ ngược. Trước hết, chính trị thể hiện ở chỗ toàn dân được thảo luận về các dự luật, các quyết định, các chương trình được thông qua ở tất cả các cấp của bộ máy quyền lực, đánh giá các bộ luật hiện hành và hiệu quả áp dụng các bộ luật đó.
Các công dân, các liên đoàn nghề nghiệp và xã hội cần có khả năng “kiểm nghiệm” trước các văn kiện của nhà nước. Ngay từ khâu đó, sự phê phán mang tính xây dựng từ phía các cộng đồng doanh nhân, giáo viên, bác sĩ, các nhà khoa học sẽ giúp chúng ta tránh được những quyết định không thành công và tìm ra được những giải pháp tốt nhất. Do đó, chúng ta phải cải thiện ngôn ngữ soạn thảo các văn bản luật sao cho người dân dễ hiểu, dễ nhớ và dễ đóng góp ý kiến.
Ngay từ bây giờ, chúng ta đang sử dụng hình thức giới thiệu các dự án luật trên mạng Internet để mỗi người đều có quyền đưa ra các đề nghị hoặc sửa đổi. Những đề nghị đó của người dân sẽ được xem xét và sẽ được tính đến trong phương án cuối cùng của dự luật. Nhưng ở đây chỉ mới thực hiện “quyền thụ động”, nghĩa là khả năng của công dân phản ứng trước những ý tưởng và đề án của bộ máy quyền lực, của các chủ thể đề xuất dự luật. Chúng ta đang cần đến một sự “tham gia chủ động” của công dân, nghĩa là tạo khả năng cho các công dân đóng góp vào nội dung dự luật, tự đề xuất phương án của mình và đề ra các hướng ưu tiên.
Do đó, tôi đề nghị đưa ra một quy định, nhà nước nhất thiết phải xem xét mọi sáng kiến của người dân một khi đã thu thập được trên 100.000 chữ ký trên mạng Internet để đưa ra xem xét tại Quốc hội. Cách làm đó đã từng được áp dụng ở Anh. Dĩ nhiên, chúng ta không thể chấp nhận những ý kiến nặc danh trên mạng Internet, do đó cần nghiên cứu soạn thảo chế độ đăng ký chính thức trên mạng Internet cho những ai muốn tham gia hệ thống góp ý này. Dân chủ trên Internet cần phải được kết hợp trong dòng chảy chung của sự phát triển các thể chế của nền dân chủ trưng cầu ý dân trực tiếp. Cách làm này cần phải được áp dụng rộng rãi ở cấp độ thành phố và khu vực.
Trang web chính thức của Chính phủ điện tử chứa đựng các thông tin về hoạt động chi tiêu của nhà nước là một cơ chế chống tham nhũng mạnh, do đó nhiều dịch vụ của nhà nước cũng cần phải được chuyển sang dưới dạng điện tử. Đây là một cách làm tốt, cần nghiên cứu áp dụng. Đặc biệt cần chú ý đến trang web của các cơ sở và chủ thể liên bang vì đó là nền tảng quyền lực điện tử.
Cần định hướng Đề án Chính phủ điện tử nhằm phục vụ nhu cầu và yêu cầu của các công dân, trong đó công khai tối đa thông tin về hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, trung ương và địa phương. Thông qua công nghệ điện tử, cần làm cho cơ chế của nhà nước trở lên dễ hiểu và dễ tiếp cận đối với công dân.
Tự quản địa phương là trường học của dân chủ
Hoạt động tự quản ở địa phương là trường học trách nhiệm của công dân. Đồng thời, đây cũng là một trường học chính trị - chuyên nghiệp, hình thành nên kinh nghiệm của một nhà chính trị trong sự nghiệp của họ. Đó là khả năng đối thoại với các tầng lớp xã hội khác nhau, biết cách đưa ý tưởng của mình đến với mọi người, bảo vệ quyền và lợi ích của các cử tri. Tôi cho rằng, sự trưởng thành về nghề nghiệp chính trị và những người quản lý trong bộ máy nhà nước cần phải được hình thành trong hệ thống tự quản ở cơ sở.
Việc gia tăng tính độc lập kinh tế là đặc biệt cần thiết đối với các thành phố lớn và trung bình. Ở đây tập trung chủ yếu tiềm lực kinh tế của đất nước và những công dân hoạt động tích cực nhất. Các thành phố phải là nguồn tăng trưởng kinh tế và sáng kiến công dân.
Một vấn đề bức xúc hiện nay là các thành phố nhỏ mà ở đó chỉ có ít công dân sinh sống. Đôi khi họ không có được nguồn thu nhập bình thường và buộc phải sống nhờ vào số tiền chuyển từ ngân sách khu vực. Trong khi đó, những thành phố nhỏ lại là môi trường tốt nhất cho hoạt động dân chủ ở địa phương. Ở đây mọi người thường biết nhau rất rõ và họ cũng biết rất rõ hoạt động của các cơ quan. Tôi cho rằng, cần phải bảo đảm cho những cơ sở này có được nguồn thu nhập lâu dài, ổn định giống như nguồn thu nhập trước đây nhận được từ khu vực.
Về Liên bang Nga
Trong giai đoạn phát triển mới, chúng ta quay trở lại chế độ bầu cử trực tiếp các thống đốc vùng, đồng thời, Tổng thống Nga vẫn nắm các công cụ kiểm soát, trong đó có quyền cách chức thống đốc vùng. Điều này bảo đảm hài hòa quyền lực của trung ương và địa phương.
Trung ương cần phải biết sử dụng quyền hạn đồng thời cũng phải thực hiện phân quyền. Đây không chỉ là quyền hạn mà còn là nguồn tài chính - ngân sách của địa phương và khu vực. Dĩ nhiên, Trung ương cũng không thể đánh mất khả năng quản lý đất nước nói chung; không thể chấp nhận sự phân bổ một cách cơ học nguồn lực và quyền hạn giữa các cấp trong bộ máy chính quyền. Sự phân bổ quyền lực nhà nước theo các cách khác nhau cần phải được thực hiện theo một tiêu chuẩn rõ ràng, nghĩa là cần giao phó chức năng cho cấp độ khu vực nào mà ở đó sẽ đem lại lợi ích tốt nhất cho các công dân Nga, cho hoạt động kinh doanh của họ, cũng như để phát triển đất nước nói chung.
Cần phải tính đến đặc điểm là các vùng lãnh thổ của Liên bang Nga đang ở trong mức độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau nhưng một giá trị quan trọng là tiếng Nga, văn hóa Nga, nhà thờ chính thống Nga và các tôn giáo truyền thống khác của Nga là các yếu tố liên kết, gắn kết mạnh mẽ. Dĩ nhiên, ngoài các yếu tố đó, còn là kinh nghiệm nhiều thế kỷ của các dân tộc khác nhau trong một nhà nước Nga thống nhất cùng những sáng tạo lịch sử và kinh nghiệm này rõ ràng nói lên một điều đất nước cần phải có một trung tâm liên bang mạnh, có năng lực và được tôn trọng. Đó sẽ là yếu tố chính trị có ý nghĩa then chốt để cân bằng mối quan hệ giữa các khu vực, giữa các sắc tộc và giữa các tôn giáo. Nhiệm vụ lịch sử của chúng ta chính là phát huy một cách đầy đủ nhất tiềm năng, tạo ra các yếu tố kích thích để phát triển hoạt động và tính tích cực của tất cả các khu vực trong nước.
Nhà nước có khả năng cạnh tranh
Thế giới trong thời đại toàn cầu hóa là thế giới vừa cạnh tranh, vừa hợp tác giữa các quốc gia. Để tạo điều kiện tốt nhất, khả năng cạnh tranh cao nhất cho đời sống, sự sáng tạo và kinh doanh của Nhà nước Nga, cần tập trung vào những ưu tiên chủ yếu sau đây.
Một là, phải loại bỏ mối quan hệ giữa quyền lực và sở hữu; phải xác định rõ ranh giới, giới hạn can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế.
Hai là, phải vận dụng một cách rộng rãi kinh nghiệm thực tiễn sống động trong hoạt động của các thể chế nhà nước ở những quốc gia dẫn đầu thế giới.
Ba là, phát triển sự cạnh tranh giữa các thống đốc, thị trưởng, các nhà quản lý ở tất cả các cấp và trong tất cả các trường hợp, khi các điều này là có lợi. Muốn vậy, cần phải thiết lập lại trật tự quản lý, phát hiện và vận dụng rộng rãi kinh nghiệm thực tiễn tốt nhất trong hoạt động quản lý nhà nước, đối với các quyết định ở cấp độ liên bang cũng như để thông tin cho các cử tri ở cấp độ khu vực và thành phố.
Bốn là, cần phải chuyển sang tiêu chuẩn dịch vụ nhà nước kiểu mới, không chỉ dựa trên quan điểm của người thực hiện mà còn phải dựa vào quan điểm của người sử dụng các dịch vụ đó.
Năm là, thông qua đạo luật quy định cách đánh giá thực tế về hoạt động và trách nhiệm của các quan chức dựa vào tiêu chuẩn dịch vụ công cho dân chúng cũng như cho các doanh nhân. Những ai không tuân thủ các tiêu chuẩn đó, vi phạm thô bạo hoặc vi phạm nhiều lần tiêu chuẩn dịch vụ công sẽ bị xử phạt như miễn nhiệm chức vụ.
Sáu là, phải tạo ra một đội ngũ quan chức nhà nước có trình độ chuyên môn phù hợp và có kinh nghiệm công tác. Vận dụng hệ thống trả công lao động mới để cải tiến chất lượng đội ngũ này. Thiếu điều đó sẽ không thể thu hút các nhà quản lý có hiệu quả và có trách nhiệm.
Bảy là, tiếp tục phát triển các thể chế thanh tra có chức năng bảo vệ pháp luật. Chúng ta sẽ phải đi theo hướng chuyên môn hóa và chuyên nghiệp hóa thể chế này.
Chúng ta cần phải chiến thắng tham nhũng
Trong lịch sử đã từng có người có tham vọng chiến thắng tham nhũng bằng các biện pháp trấn áp, tuy nhiên, vấn đề ở đây còn sâu sắc hơn nhiều. Đó là vấn đề minh bạch, các thể chế nhà nước nằm trong tầm kiểm soát của xã hội và vấn đề động cơ của các quan chức vốn là những người phục vụ Nhà nước.
Kết quả điều tra xã hội học cho thấy, trẻ vị thành niên ở Nga trong những năm 1990 đã từng mơ ước chọn nghề để trở thành tài phiệt, còn hiện nay đa số họ lại lựa chọn nghề nghiệp quan chức nhà nước vì đối với nhiều người, nghề quan chức nhà nước là một nguồn bóc lột nhanh chóng và dễ dàng. Do đó, sẽ không thể tiến hành thành công bất kỳ biện pháp thanh lọc nào một khi động cơ đó còn chiếm ưu thế trong xã hội. Nếu quan chức nhà nước không được nhìn nhận như một người phục vụ nhân dân mà chỉ là nơi để thu vén cá nhân thì khi thay người này, những kẻ khác lên thay thế sẽ vẫn tham nhũng.
Để chiến thắng nạn tham nhũng đã trở thành hệ thống, không chỉ phải tách quyền lực ra khỏi quyền chiếm hữu, mà còn phải tách quyền lực hành pháp và kiểm soát quyền lực đó. Trách nhiệm chính trị trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng cần phải thuộc về cả bộ máy quyền lực.
Cuộc đấu tranh chống tham nhũng cần phải là công việc đích thực của toàn dân và xã hội. Những ai kêu gào to hơn tất cả mọi người về sự trì trệ trong chống tham nhũng và đòi hỏi trấn áp đều không hiểu được một thực tế là trong điều kiện tham nhũng thì hành động đàn áp có thể trở thành đối tượng tham nhũng.
Chúng ta đề nghị một giải pháp thực tế và có hệ thống, cho phép làm trong sạch các thể chế nhà nước một cách có hiệu quả hơn. Chúng ta phải áp dụng các nguyên tắc mới trong chính sách cán bộ, trong hệ thống lựa chọn các quan chức, luân chuyển và trả công cho họ. Cụ thể là chúng ta cần để cho những kẻ muốn tham nhũng nhận thấy rằng, nếu làm thế họ sẽ mất uy tín trong xã hội, mất nguồn thu nhập về tài chính, vật chất và gặp các rủi ro khác nghiêm trọng hơn rất nhiều.
Tôi đề nghị xác định những chức vụ có nguy cơ tham nhũng trong bộ máy hành pháp cũng như trong bộ máy quản lý của các công ty nhà nước. Một quan chức cần phải có thu nhập cao nhưng cũng phải chấp nhận minh bạch tuyệt đối, kể cả chi tiêu và những mua sắm lớn của gia đình. Cần phải xem xét vấn đề như nơi cư trú thực tế, nguồn chi trả cho các hoạt động nghỉ ngơi. Ở đây nên nghiên cứu kinh nghiệm chống tham nhũng của các nước châu Âu để xử lý những vụ việc như vậy.
Về sự phát triển hệ thống tư pháp
Để phát triển hệ thống tư pháp, chúng ta cần thực hiện một số biện pháp cụ thể.
Một là, làm cho hệ thống tư pháp dễ tiếp cận đối với các công dân. Trong đó, sẽ áp dụng thực tế lập hồ sơ tư pháp không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn đối với các cuộc tranh chấp dân sự giữa công dân với quan chức. Lập hồ sơ tư pháp trước hết là nhằm bảo vệ quyền của công dân.
Hai là, các tổ chức xã hội được quyền thay mặt công dân kiện lên tòa án nhằm bảo vệ lợi ích của các thành viên của họ, tạo khả năng cho công dân có quyền được bảo vệ khi tranh chấp với thống đốc bang.
Ba là, cần công khai hóa hoạt động của tòa án trọng tài như truyền hình trực tiếp các buổi xét xử tại toà án qua mạng Inernet và công bố biên bản báo cáo về các phiên tòa đó.
Bốn là, cần phục hồi hoạt động báo chí tại tòa án, cho phép thảo luận rộng rãi hơn và sâu sắc hơn các vấn đề luật pháp của xã hội, nâng cao trình độ nhận thức về luật pháp của công dân.
Tóm lại, các biện pháp cải tiến dân chủ và chất lượng nhà nước sẽ phục vụ lợi ích của toàn xã hội, bảo đảm cho nước Nga và xã hội Nga phát triển theo hướng hiện đại và bền vững./.
Bài 5:
Tạo dựng công bằng, chính sách xã hội cho nước Nga
Nga là một quốc gia xã hội, có mức độ bảo đảm xã hội cao hơn so với những nước có năng suất lao động và thu nhập tương đương tính trên đầu người. Trong những năm gần đây, chi tiêu của hệ thống ngân sách cho lĩnh vực xã hội chiếm hơn một nửa tổng chi tiêu từ ngân sách. Chỉ tính trong 4 năm gần đây, khoản chi của Nga cho nhu cầu xã hội đã tăng 1,5 lần tính theo giá trị tuyệt đối, hoặc tăng từ 21% đến 27% GDP. Các bảo đảm xã hội không thay đổi ngay cả trong điều kiện khủng hoảng trong những năm 2008-2009. Tuy nhiên, công dân Nga vẫn chưa thoả mãn và sự không thoả mãn của họ là chính đáng.
Chính sách xã hội nhằm vào nhiều mục tiêu, nhiều khía cạnh. Đó là, giúp đỡ những người mà do nguyên nhân khách quan không thể có thu nhập đủ để nuôi sống mình. Đó là, bảo đảm tạo ra các động lực xã hội, tạo ra “sự khởi đầu bình đẳng” và khuyến khích từng con người trên cơ sở khả năng cũng như tài năng của họ. Hiệu quả chính sách xã hội được đo bằng ý kiến của người dân về một xã hội có công bằng hay không.
Các cựu chiến binh Nga trong Ngày Chiến Thắng. |
Chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong chính sách dân số, trong lĩnh vực bảo đảm chế độ hưu trí, khắc phục tình trạng nghèo đói, giáo dục, bảo hiểm y tế và văn hóa. Nhưng hiện nay, chúng ra cần phải nói tới những vấn đề chưa giải quyết được, về một số nhiệm vụ sẽ phải làm trong giai đoạn phát triển tiếp theo của nước Nga.
Một là, nhiều công dân Nga không thể sử dụng được những kiến thức nghề nghiệp của mình, không tìm được việc làm để có thu nhập xứng đáng, để phát triển và tạo dựng sự nghiệp. Hệ thống giáo dục còn có những hạn chế lớn.
Hai là, chúng ta không thể chấp nhận sự phân hóa thu nhập còn quá lớn. Hiện nay, trong số 8 công dân Nga thì có 1 người vẫn sống ở mức nghèo khổ.
Ba là, trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI đã thay đổi căn bản quan niệm về định mức nhu cầu và khả năng của gia đình trung lưu ở Nga. Hiện nay, bộ phận cơ bản của dân chúng lại có nhu cầu khác với cách đây 10-20 năm, nhưng chính sách xã hội chưa kịp đáp ứng nhu cầu này. Người dân Nga hiện nay, trước hết là tầng lớp trung lưu, có trình độ văn hóa và có thu nhập cao vẫn chưa hài lòng với mức độ dịch vụ xã hội hiện có.
Bốn là, trong điều kiện dân số giảm đáng kể ở độ tuổi lao động và tăng số lượng người cao tuổi, một vấn đề cấp thiết hiện nay là nếu chúng ta muốn cải thiện tình hình thì không có cách nào khác ngoài việc nâng cao hiệu quả các khoản chi giành cho các mục đích xã hội.
Khía cạnh xã hội của nền kinh tế
Một là, người kỹ sư, nhà nông học, nhà kinh tế, nhà thiết kế tùy thuộc vào nghề nghiệp của mình không chỉ cần có khả năng làm việc theo chuyên ngành mà còn cần có điều kiện để phát triển nghề nghiệp. Đến cuối năm 2012, Chính phủ cùng với các tổ chức kinh doanh chuyên nghiệp sẽ kết hợp với các trường đại học lớn của Nhà nước thông qua Kế hoạch quốc gia phát triển nghề nghiệp và xây dựng cơ sở dữ liệu mở cho các thành viên thuộc các hiệp hội nghề nghiệp.
Hai là, ở bất kỳ quốc gia nào, người giáo viên và bác sĩ, nhà khoa học và người hoạt động văn hóa không chỉ là xương sống của "giai cấp sáng tạo". Họ còn là người tạo ra sự phát triển ổn định trong xã hội và là trụ cột tinh thần trong xã hội. Do đó, trong khi xem xét các biện pháp xã hội, chúng ta không thể bỏ qua điều quan trọng nhất là động lực của con người. Chỉ có thể bàn về tất cả những cải cách trong giáo dục và y tế khi bác sĩ, giáo viên, giáo sư trên cơ sở hoạt động theo chuyên ngành phải có thu nhập xứng đáng để không phải làm thêm ở bên ngoài. Nếu không thực hiện được điều kiện đó thì mọi nỗ lực nhằm thay đổi cơ chế kinh tế - tổ chức, nhằm đổi mới những lĩnh vực này sẽ không đem lại kết quả.
Bắt đầu từ ngày 1-9-2012, thu nhập lao động cho giáo viên các trường đại học sẽ được nâng lên ngang với thu nhập trung bình trong khu vực. Trong giai đoạn từ năm 2013-2018, thu nhập trung bình của giáo sư và giáo viên các trường đại học cũng được nâng lên gấp 2 và đạt mức 200% thu nhập trung bình trong toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, khoản thu nhập được tăng lên cần được áp dụng ngay cho những người đạt được kết quả khoa học và nhận được sự tôn trọng và uy tín của sinh viên và học sinh. Sau một vài năm, chúng ta sẽ tiếp tục nâng cao thu nhập cho giáo viên các trường cao đẳng và chuyên nghiệp, các nhà giáo, bác sĩ, nhân viên y tế, cộng tác viên khoa học của Viện Hàn lâm khoa học Nga và các trung tâm khoa học của Nhà nước, nhân viên của các cơ quan văn hóa. Ngoài ra, đối với bác sĩ và nhân viên khoa học, đến năm 2018 sẽ có thu nhập giống như giáo viên các trường đại học, nghĩa là tăng lên 200% so với mức thu nhập trung bình trong khu vực.
Ba là, một vấn đề không kém quan trọng là trình độ chuyên nghiệp và sự tự tin xã hội đối với công nhân vốn là lực lượng nòng cốt của bất kỳ nền kinh tế nào. Người công nhân hiện nay là người chịu trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ kỹ thuật phức tạp và luôn thay đổi. Trong điều kiện các xí nghiệp có khả năng cạnh tranh luôn đổi mới công nghệ thì trình độ chuyên nghiệp của công nhân, tầm nhìn và niềm tự hào nghề nghiệp, khả năng của họ sẽ trở thành yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh. Thị trường lao động của công nhân có trình độ chuyên nghiệp cần phải thay đổi đáng kể, cần tạo dựng một tầng lớp “công nhân quý tộc” ở Nga và đến năm 2020, số công nhân này sẽ chiếm không ít hơn 1/3 công nhân chuyên nghiệp, nghĩa là khoảng 10 triệu người. Nếu tính tới gia đình của họ thì con số này sẽ lên đến 25 triệu.
Bốn là, chúng ta sẽ phải quan tâm đến những khả năng mà thị trường lao động đem lại cho công dân có tài năng và có nguyện vọng lao động nhưng lại không được xếp vào danh sách những người lao động. Họ là những người khuyết tật, hạn chế về sức khoẻ, những người đi xe lăn, những người khiếm thị, khiếm thính và nhiều loại khuyết tật khác. Trong những năm gần đây chúng ta đã đưa ra nhiều quyết định về giảm thuế cho những nhà tuyển dụng sử dụng lao động là người khuyết tật. Đến cuối năm 2012, Chính phủ cùng với các tổ chức xã hội có liên quan sẽ đánh giá lại hiệu quả của những quyết định này và nếu cần sẽ áp dụng các biện pháp bổ sung để cải thiện tình hình trong các lĩnh vực trên. Trong những năm tới, Nga sẽ xây dựng hệ thống giúp từng người tàn phế có khả năng và nguyện vọng học tập, lao động tìm được cơ hội để được học tập, huấn luyện nghề nghiệp nhằm tự nâng cao đời sống.
Năm là, hiện nay các doanh nhân trong xã hội Nga vẫn chưa cảm thấy tự tin. Đó là do hậu quả của những năm 1990, doanh nhân thường được xem như là “kẻ chiếm đoạt tài sản của Nhà nước” và vì vậy nhiều công nhân không tin vào doanh nhân, còn nhiều doanh nhân không tin vào xã hội và Nhà nước. Nhiều công dân Nga đôi khi vẫn coi các tài sản lớn của một số người là do chiếm đoạt phi pháp và nhìn nhận các doanh nhân lớn không phải là người sáng tạo chính tạo nên động lực cho sự phát triển của đất nước.
Trong doanh nghiệp Nga có không ít những con người muốn sống theo lối mới. Họ là chủ nhân của doanh nghiệp nhỏ và vừa, là những nhà quản lý, là những người hiện nay đang ở tầng thứ 3 của cấp độ quản lý. Đây là những người hiểu rất rõ mô hình quản lý hiện nay kém hiệu quả. Ở Nga, sự giãn cách về thu nhập giữa các tầng lớp trong xã hội tương đương với mức độ ở Mỹ, nhưng lớn hơn rất nhiều so với Tây Âu. Đối với một nền kinh tế thị trường phát triển thì sự phân hóa thu nhập ở mức độ nhất định là lẽ tự nhiên, tuy nhiên sự giãn cách như hiện nay được coi là không công bằng và là nguồn gốc tạo nên sự căng thẳng trong xã hội. Do đó, nhiệm vụ quan trọng nhất hiện giờ là giảm sự bất bình đẳng về vật chất thông qua chính sách xã hội theo địa chỉ rõ ràng hơn, hiệu quả hơn, trước hết là thông qua khả năng mỗi người tự có việc làm và thu nhập, bảo đảm cho bản thân mình mức độ thu nhập đáng kể.
Hưu trí và trợ cấp xã hội
Nhà nước trợ cấp và ưu đãi cho khoảng 60% gia đình Nga, nâng cao đáng kể lương hưu và hiện nay sẽ tiếp tục nâng lên nữa sao cho sự điều chỉnh đó không bị vô hiệu hóa do việc tăng giá hàng hóa tiêu dùng. Trước hết, cần chú ý đến vấn đề trợ cấp cho các gia đình có con. Nhà nước Nga đang áp dụng các biện pháp nhằm khuyến khích nguyện vọng của các gia đình sinh con thứ hai và những con tiếp theo. Chúng ta không thể chấp nhận tình trạng việc sinh con sẽ khiến gia đình phải rơi vào tình trạng nghèo khổ. Nhà nước sẽ khắc phục tình trạng này trong 3-4 năm tới. Tôi đề nghị ở những chủ thể liên bang nào, tỷ lệ tăng trưởng dân số thấp, cần áp dụng khoản trợ cấp đặc biệt cho các gia đình sinh từ con thứ 3 trở lên cho tới khi trẻ em được 3 tuổi, với mức trợ cấp tối thiểu cho trẻ vào khoảng 7.000 rúp hằng tháng.
Việc bảo đảm chế độ hưu trí là thành tựu lớn nhất và cũng là vấn đề lớn nhất hiện nay đối với Nga. Chúng ta đã chi tiêu trên 10% GDP cho chế độ hưu trí, chiếm 1/4 tổng ngân sách mở rộng của Chính phủ.
Lĩnh vực giáo dục và văn hóa
Hệ thống giáo dục Nga cần phải đáp ứng thách thức của thời đại mới. Nga sẽ không từ bỏ thành tựu chủ yếu là giáo dục toàn dân và trong số những nhiệm vụ có tầm quan trọng quốc gia hàng đầu, phải kể đến những nhiệm vụ sau đây:
Một là, trong 4 năm sắp tới cần phải khắc phục tình trạng các bậc cha mẹ xếp hàng gửi con vào nhà trẻ. Cần phải đưa các nhà giáo dục ở các nhà trẻ dân lập vào hệ thống hỗ trợ tài chính từ ngân sách địa phương.
Hai là, cần bảo đảm sự bình đẳng xã hội trong việc tiếp nhận giáo dục. Chúng ta đã quen với cách lựa chọn trẻ em vào các trường ưu tiên và do đó tạo ra sự cạnh tranh giữa các bậc cha mẹ ngay từ khi đưa con vào lớp 1. Vì vậy, trong nhiều thành phố lớn của chúng ta đã hình thành các trường phổ thông luôn có chất lượng và kết quả giáo dục thấp. Trường học không còn thực hiện chức năng là một động lực phát triển xã hội mà bắt đầu tạo ra sự phân hóa xã hội. Không được để trẻ em trở thành con tin cho vị thế xã hội hoặc văn hóa của gia đình mình.
Ba là, trong những thập kỷ gần đây, hệ thống giáo dục ngoại khóa cho trẻ em đã không còn tiềm năng. Một lĩnh vực xã hội hóa đáng kể như thể thao trẻ em đã bị biến dạng sâu sắc. Số lượng các trường thể thao tăng lên nhưng đôi khi lại chỉ định hướng cho trẻ em chuyển sang nền thể thao lớn. Điều này sẽ tạo ra sự chọn lọc trẻ em ngay từ khi còn ít tuổi. Cần phải phục hồi hệ thống giáo dục ngoại khóa từ lĩnh vực trách nhiệm của Nhà nước sang cấp độ khu vực, khi cần thiết thì hỗ trợ từ ngân sách liên bang.
Bốn là, cần đổi mới đáng kể phương pháp hoạt động của trường học mà hiện nay chúng ta phải công nhận là lạc hậu đáng kể. Theo truyền thống, ở Nga có các trường chuyên toán mạnh tại các trường đại học và Viện Hàn lâm khoa học. Chúng ta có thể đề ra nhiệm vụ sau 10 năm nữa làm thế nào để đưa nền giáo dục toán học phổ thông trở thành tốt nhất thế giới. Điều này sẽ đem lại cho đất nước khả năng cạnh tranh đáng kể.
Năm là, đã đến lúc phải lập lại trật tự trong chế độ cấp học bổng. Cần cấp học bổng cho những ai thực sự cần thiết, những ai mà thiếu học bổng không thể tiếp tục học tập và dĩ nhiên cần cấp học bổng cho những ai có kết quả học tập tốt và phải tăng học bổng lên khoảng 5.000 rúp mỗi tháng.
Sáu là, cần đổi mới kỳ thi quốc gia thống nhất cả về phương pháp luận cũng như tổ chức. Huy động các quan sát viên độc lập từ các tổ chức xã hội để giám sát quá trình thực hiện kỳ thi, chống lại mọi biểu hiện lạm dụng và làm sai kết quả, duy trì ưu việt rõ ràng của kỳ thi này và hạt nhân hợp lý của nó.
Bảy là, tăng chỉ tiêu số lượng sinh viên tiếp nhận vào các trường đại học, đồng thời có các biện pháp giành lại uy tín và chất lượng cao cho giáo dục đại học của Nga. Cần phải xây dựng hệ thống tuyển chọn sao cho những người thi tuyển theo chỉ tiêu ngân sách là những người đã có kết quả học tập tốt nhất theo các chuyên ngành đào tạo hoặc là những người đã từng giành được danh hiệu cao trong các kỳ thi Olympic.
Tám là, lập lại trật tự tối thiểu trong hệ thống giáo dục đại học. Hiện nay có rất nhiều các trường đại học, trong đó có cả các trường đại học quốc gia vi phạm quyền của sinh viên được đào tạo kiến thức chuyên nghiệp. Trong những năm 2012-2014, các trường đại học sẽ huy động các nhà khoa học của Viện Hàn lâm khoa học Nga và các chuyên gia quốc tế tham gia giảng dạy theo các chương trình giáo dục chuyên ngành kinh tế, luật pháp, quản lý và xã hội học.
Chín là, khôi phục uy tín và tính cấp thiết của hoạt động đào tạo theo các chuyên ngành ứng dụng, gắn kết chuyên ngành ứng dụng vào các công nghệ cụ thể theo yêu cầu thị trường. Tăng tỷ lệ khoa học ứng dụng và từ năm 2018, tỉ lệ các cử nhân khoa học ứng dụng phải chiếm ít nhất 30-40% số sinh viên tốt nghiệp các trường đại học.
Bên cạnh đó, đầu tư cho giáo dục sẽ là một ưu tiên có ý nghĩa then chốt trong chính sách của chúng ta. Bởi lẽ đây không chỉ đào tạo cán bộ cho ngành kinh tế mà còn là yếu tố quan trọng nhất để phát triển về mặt xã hội học, hình thành các giá trị liên kết chúng ta. Về phương diện này vai trò của giáo dục thường kết hợp với vai trò của văn hóa. Về phát triển văn hóa, cần chú ý một số biện pháp sau.
Một là, cần bảo đảm cho từng công dân có khả năng tiếp cận rộng rãi mà không bị hạn chế đối với các giá trị văn hóa của đất nước cũng như của thế giới. Nhà nước sẽ ủng hộ việc hình thành các thư viện điện tử công cộng, các hệ thống viện bảo tàng và nhà hát trên mạng Internet, sẽ tạo khả năng pháp lý để đưa các phim ảnh và các vở kịch nổi tiếng phục vụ miễn phí trên mạng Internet.
Hai là, hoạt động thực tiễn văn hóa cần phải đóng vai trò then chốt trong việc tổ chức phục vụ nhu cầu thưởng thức của người dân. Chúng ta sẽ phát triển hệ thống sáng tạo nghệ thuật quần chúng, bắt đầu từ trường phổ thông, ở đó cần có vai trò của nhà tổ chức hoạt động sáng tạo cho trẻ em như nhà đạo diễn, họa sĩ, biên đạo múa hoặc nhạc công. Điều quan trọng là làm thế nào để trẻ em trong các trường phổ thông có quyền và điều kiện để tiếp cận nền văn hóa quốc gia của dân tộc Nga.
Nhà nước đặc biệt chú ý đến hoạt động của viện bảo tàng, nhà hát, thư viện và câu lạc bộ sáng tạo ở các thành phố nhỏ. Hiện nay, ở những thành phố này đang thiếu vắng các hoạt động văn hóa. Bộ văn hóa sẽ cùng với các lãnh đạo khu vực xây dựng đề án chương trình quốc gia phát triển văn hóa trong các thành phố nhỏ sau khi thảo luận rộng rãi với giới tri thức, khắc phục tình trạng phần lớn các giá trị bảo tàng hiện nay đang nằm bất động trong các kho dự trữ chứ không phải tại các phòng trưng bày. Chúng ta phải tạo ra quỹ bảo tàng quốc gia di động để trình bày các tác phẩm nghệ thuật tại các thành phố nhỏ và vừa của Nga, tạo khả năng cho nhiều người có khả năng tiếp cận với nền văn hóa cấp cao.
Ba là, cung cấp tài chính cho các chương trình học bổng trên cơ sở các cuộc thi chọn cho các nhà hoạt động nghệ thuật, các tập thể hoạt động nghệ thuật, trong đó có cả các tổ chức thanh niên. Mời các nhà hoạt động nghệ thuật trẻ của các nước khác nhau, cấp học bổng cho họ và tạo điều kiện sáng tạo nghệ thuật và giao tiếp giữa các nhà hoạt động nghệ thuật trẻ tuổi.
Bốn là, truyền hình số sẽ tạo khả năng xây dựng các kênh chuyên ngành có ý nghĩa quốc gia. Vì vậy, chúng ta cần phải có những kênh truyền hình dành cho nhạc cổ điển, nhà hát, nghệ thuật, hội họa và kiến trúc, các kênh văn học và lịch sử. Tất nhiên, còn có một số kênh dành cho nhạc cổ điển của trẻ em đối với từng lứa tuổi cụ thể.
Chăm sóc con người
Trong năm 2011 Nga đã xây dựng cơ sở pháp lý hoàn toàn mới để phát triển hệ thống y tế. Với sự giúp đỡ của hệ thống này chúng ta sẽ phân cấp kinh phí một cách rõ ràng hơn và công bằng hơn cho hoạt động y tế mà ở đó bệnh nhân sẽ có nhiều khả năng hơn để lựa chọn bác sĩ và cơ sở điều trị. Chúng ta sẽ phải mất một số năm để xây dựng một hệ thống pháp lý nhằm thực hiện đầy đủ những khả năng này. Trong khi đó, chúng ta sẽ phải giải quyết nhiều vấn đề về y tế của Nhà nước.
Một là, tạo điều kiện cho các bệnh nhân được đáp ứng dịch vụ y tế có chất lượng. Trước hết, liên quan đến trình độ chuyên nghiệp của bác sĩ và y tá. Đồng thời với việc trả lương có tính cạnh tranh cho các thầy thuốc trong 4 năm tới, cần tiến hành đánh giá trình độ chuyên môn của bác sĩ, kết hợp với việc đổi mới các chương trình nâng cao trình độ chuyên nghiệp.
Hai là, chú ý mở rộng hình thức điều trị ngoại trú. Đây là hình thức thuận lợi hơn đối với bệnh nhân và tiết kiệm hơn đối với Nhà nước. Không phải ngẫu nhiên mà ở các nước phát triển kinh tế cao, tỉ phần điều trị ngoại trú trong thành phần trợ giúp y tế thường cao so với ở Nga.
Ba là, cần nâng cao trách nhiệm của mỗi người đối với tình hình sức khoẻ của bản thân mình. Hiện nay chúng ta có tới 80% số người không tập thể dục, thể thao và 65% số người thường xuyên sử dụng các loại nước uống có chất cồn cao hoặc hút thuốc lá. Có 60% số người chỉ đến cơ sở y tế để kiểm tra sức khỏe khi bị đau ốm.
Bốn là, tạo ra một lối sống lành mạnh để bảo vệ sức khoẻ, trước hết là ngăn ngừa bệnh tật. Chúng ta sẽ tạo điều kiện để tiến hành hoạt động thể dục, thể thao miễn phí ngay tại nơi cư trú của người dân, tại nơi làm việc và kiên quyết chống lại việc sử dụng chất ma túy và cần áp dụng các biện pháp nhằm giảm việc sử dụng chất có độ cồn cao và thuốc lá.
Nhà ở
Hiện nay các công dân Nga được bảo đảm nhà ở với mức độ tăng 40% so với từ thời Liên Xô, tính trung bình 22 m2 cho một đầu người. Tỉ lệ nhà ở công vụ giảm 4 lần nhưng nếu so với các nước châu Âu và so với Mỹ thì chúng ta chỉ mới đạt được kết quả khiêm tốn. Điều không thể tin được là giá nhà ở tại Nga lại tăng đến mức đột biến. Hiện nay, chúng ta có tới 1/4 số công dân có khả năng xây nhà hoặc mua nhà mới. Theo tính toán của các chuyên gia, nếu tiết kiệm tiền lương thì người lao động phải sau 2,5 năm mới có thể mua được một căn hộ 54m2 trong năm 1989, còn hiện nay phải cần 4,5 năm (trong điều kiện giá tương đối của phần lớn hàng hóa giảm đột biến và trở lên dễ tiếp cận hơn). Hiện nay chúng ta đang giúp đỡ các cựu chiến binh, các sĩ quan quân đội và các gia đình trẻ có được nhà ở. Chúng ta đang di chuyển người dân từ những khu nhà không có đủ điều kiện sinh sống đến nơi ở mới, sẽ dành thêm 30 tỉ rúp để chi cho việc xây dựng nhà ở đến cuối năm 2012.
Để tạo ra quỹ nhà ở, chúng ta sẽ giảm chi phí xây dựng thông qua việc giảm giá vật liệu xây dựng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh doanh xây dựng. Chúng ta đang thực hiện chế độ thẩm định cạnh tranh các đề án xây dựng vì nhiều đề án hiện nay đang nằm chờ cấp thủ tục tới hàng năm. Những người xây dựng có thể trông cậy vào sự thẩm định không chỉ của Nhà nước mà cả của tư nhân. Chúng ta đang chuyển các thủ tục phê duyệt quá rườm rà và giám sát xây dựng sang các cơ quan chuyên trách cho phép người xây dựng có thể tiết kiệm được nhiều nguồn lực. Tổng cộng, chúng ta sẽ giảm giá nhà xây dựng hiện đại ít nhất 20%, trong một số khu vực sẽ giảm tới 30%.
Hai là, chúng ta sẽ đưa vào sử dụng nhiều khu vực đất đai để phục vụ hoạt động kinh tế trong quá trình mở rộng bán kính xây dựng các thành phố lớn, xây dựng mạng lưới kết cấu hạ tầng và giao thông địa phương. Điều này tôi đã đề cập đến trong bài báo nói về vấn đề kinh tế, hoặc là bằng cách tịch thu đất đai từ các cơ quan và ban, ngành của Nhà nước hiện đang ở tình trạng bỏ trống. Chúng ta không thể để tình trạng các khu vực không ai dùng đến. Đất đai cần phải được trao lại cho những ai xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở tiết kiệm và các công trình phục vụ xã hội miễn phí (đổi lại việc hạn chế giá bán đất). Chính phủ sẽ đề xuất các chương trình thích hợp trước mùa thu năm nay.
Ba là, giá thế chấp cần phải giảm xuống cùng với việc giảm lạm phát. Chúng ta cần phát triển cơ chế tích lũy để tiết kiệm, giống như cơ chế tiết kiệm xây dựng ở Đức. Chúng ta đã bắt đầu hàng loạt đề án xây dựng ở các khu vực trong lĩnh vực này và thời gian tới sẽ tiếp tục mở rộng. Cuối cùng, chúng ta sẽ mở rộng chương trình hỗ trợ lãi suất cho những gia đình trẻ, cũng như cho các nhân viên thuộc lĩnh vực ngân sách. Chúng ta có thể cung cấp kinh phí cho mục đích này sau khi đã hoàn thiện các công trình xây dựng phục vụ Đại hội Olympic ở Sochi, các công trình xây dựng nhà máy điện nguyên tử ở Viễn Đông cũng như sau khi hoàn thiện công trình nhà ở cho các sĩ quan quân đội.
Cùng với việc mở rộng khả năng mua nhà ở, cần phải tạo ra thị trường nhà thuê một cách văn minh. Ở nhiều nước châu Âu, có tới 1/3 đến một nửa gia đình thuê nhà cả đời mà không cảm thấy bất kỳ một sự khó khăn và bất tiện nào. Sắp tới, chúng ta cần khuyến kích và tạo điều kiện cho các công dân thuê nhà ở theo hợp đồng. Đây là một điều quan trọng bởi nhà thuê có thể chấp nhận được là điều kiện cần thiết để tăng khả năng cơ động của các công dân trên nhiều khu vực và tăng khả năng cạnh tranh về mặt kinh tế của các thành phố cũng như các khu vực.
Các biện pháp trên đây sẽ tạo khả năng đến năm 2020 nâng cao khả năng cho 60% gia đình Nga có nhà ở mới. Đến năm 2030, tất cả các gia đình Nga đều có nhà.
Giữ gìn nước Nga
Trên lãnh thổ của chúng ta tập trung khoảng 70% tổng số tài nguyên thiên nhiên của thế giới, còn dân số chỉ chiếm 2% tổng dân số toàn cầu. Nếu không thực hiện được đề án phát triển dân số dài hạn với quy mô lớn, không gia tăng tiềm năng con người và khai thác lãnh thổ thì chúng ta sẽ có nguy cơ trở thành một "không gian trống vắng" theo ý nghĩa toàn cầu mà tình hình đó tự bản thân chúng ta không thể khắc phục được.
Hiện nay, ở Nga có 143 triệu công dân. Theo đánh giá của các chuyên gia, theo kịch bản quán tính, nghĩa là duy trì các biện pháp hiện nay và không có các biện pháp mới, thì đến năm 2050 dân số Nga chỉ còn vào khoảng 107 triệu người. Nếu chúng ta xây dựng và thực hiện được một chiến lược bảo vệ dân số có hiệu quả và mang tính tổng hợp thì dân số Nga sẽ tăng lên 154 triệu người. Như vậy, cái giá lịch sử của việc lựa chọn giữa hành động và không hành động là vào khoảng 50 triệu con người trong 40 năm tới. Do đó, chúng ta sẽ phải thực hiện nhiều biện pháp để phát triển dân số.
Một là, giúp đỡ những gia đình đông con. Trên đây tôi đã nói về các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng nghèo đói tạm thời liên quan đến việc sinh con thứ ba. Bổ sung vào biện pháp này, chúng ta phải thực hiện một chương trình đặc biệt nhằm trước hết là cải thiện điều kiện sống cho các gia đình có từ 3 con trở lên, sẽ phải đưa ra các giải pháp mới để tạo ra công ăn việc làm cho các phụ nữ có con, nhất là phụ nữ đi làm sau khi nghỉ sinh con. Những nhà tuyển dụng tiếp nhận họ làm việc cần phải nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước.
Hai là, để giải quyết vấn đề dân số, một nhu cầu khách quan là cần phải có chính sách “di cư thông minh” dựa trên những yêu cầu và tiêu chuẩn rõ ràng, loại trừ nguy cơ sắc tộc tiềm tàng và các nguy cơ khác. Chúng ta sẽ phải bảo đảm dòng người nhập cư ở mức độ khoảng 300 nghìn người mỗi năm. Trước hết là bằng cách huy động các công dân của chúng ta đang sống ở nước ngoài và các chuyên gia nước ngoài có tay nghề cao cũng như tầng lớp thanh niên có triển vọng đến cư trú thường xuyên ở nước Nga.
Tôi đề nghị loại bỏ mọi rào cản đối với các công dân nước ngoài có những nền tảng chung với công dân Nga (nghĩa là đã qua các kỳ thi và được đào tạo tiếng Nga) muốn vào học tại các trường huấn luyện tay nghề của chúng ta. Cần phải đơn giản hóa một cách đáng kể mọi thủ tục hành chính để mọi người có được quyền sống và sau đó là quyền công dân Nga đối với những người đã từng tốt nghiệp các trường đại học của Nga và muốn được làm việc theo chuyên ngành.
Xung quanh nhiệm vụ phát triển tiềm năng con người của Nga, chúng ta cần phải xây dựng một chính sách xã hội, kinh tế, kiều dân, nhân đạo, văn hóa giáo dục, sinh thái và luật pháp. Trong thập kỷ tới chúng ta cần phải thay đổi tình hình. Mỗi một đồng rúp đầu tư vào lĩnh vực xã hội cần phải tạo ra sự công bằng. Thế chế công bằng của xã hội và nền kinh tế là điều kiện chủ yếu để phát triển bền vững trong những năm tới./.
Bài 6:
Chúng ta cần phải mạnh để bảo vệ an ninh quốc gia Nga
Thế giới đang thay đổi. Các quá trình chuyển hóa toàn cầu diễn ra trên thế giới tiềm ẩn trong đó những nguy cơ hết sức đa dạng, đôi khi không thể dự báo trước được. Trong khi những biến động kinh tế và những biến động khác trên phạm vi thế giới đang diễn ra, thường có những lực lượng theo đuổi tham vọng giải quyết các vấn đề của họ làm phương hại đến lợi ích của những người khác bằng cách sử dụng sức mạnh quân sự. Chúng ta không bao giờ cho phép mình trở nên yếu đuối để ai đó có thể dễ dàng “bắt nạt”.
Chính vì vậy, trong bất kỳ điều kiện nào, chúng ta cũng không được lơ là, càng không được từ bỏ, việc xây dựng tiềm lực chiến lược có khả năng răn đe, kiềm chế các thế lực thù địch. Chính tiềm lực chiến lược đó đã từng bảo vệ chủ quyền quốc gia chúng ta giữa thời kỳ phức tạp nhất trong những năm 1990 khi nước Nga không có được các yếu tố vật chất khác cần thiết, ngoài tiềm lực quân sự. Rõ ràng, chúng ta không thể củng cố vị thế quốc tế của nước Nga, không thể phát triển kinh tế, không thể xây dựng thể chế dân chủ, nếu không có khả năng bảo vệ chính mình.
Nếu không tính đến nguy cơ các cuộc xung đột có thể xảy ra, chúng ta sẽ không bảo đảm được tính độc lập về công nghệ - quân sự và không chuẩn bị đáp trả một cách đích đáng về mặt quân sự như một biện pháp tối cần thiết để hóa giải những thách thức này hay thách thức khác. Chúng ta đã và đang thực hiện các chương trình chưa có tiền lệ nhằm phát triển các lực lượng vũ trang Nga và hiện đại hóa tổ hợp công nghiệp quốc phòng của Nga. Tính tổng cộng trong thập kỷ tới đây, chúng ta sẽ chi khoảng 23.000 tỉ rúp cho những mục tiêu này.
Tên lửa đạn đạo hạt nhân tầm bắn vượt đại châu “Topol-M” của Nga có thể vượt qua bất kỳ lá chắn tên lửa nào. |
Nền quốc phòng “thông minh” nhằm hóa giải những nguy cơ mới
Chúng ta không chỉ cần xây dựng các cơ chế phản ứng nhằm hóa giải những nguy cơ hiện hữu, mà còn phải học cách nhìn về phía trước, đánh giá đúng tính chất các mối nguy cơ trước 30-50 năm. Đây là nhiệm vụ rất nghiêm túc, đòi hỏi phải huy động khả năng của cả nền khoa học dân dụng và khoa học quân sự, trình tự dự báo dài hạn và tin cậy cho những vấn đề cấp bách. Chúng ta cần tạo ra một hệ thống phân tích và lập kế hoạch chiến lược quân sự mới "thông minh", chuẩn bị trước các "công thức" và thực hiện những "công thức" đó.
Thế kỷ sắp tới yêu cầu chúng ta điều gì?
Trong thời gian tới, xác suất xảy ra chiến tranh toàn cầu giữa các quốc gia hạt nhân là không cao, bởi cuộc chiến tranh đó sẽ hủy diệt nền văn minh nhân loại. Chừng nào kho vũ khí hạt nhân chiến lược vẫn “nằm im sẵn sàng” trong các kho vũ khí thì không ai dám cả gan phát động cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn chống lại chúng ta. Tuy nhiên, tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong các lĩnh vực khác nhau, từ việc hình thành các loại vũ khí trang bị mới đến công nghệ thông tin truyền thông đã tạo ra những thay đổi về chất trong cuộc đấu tranh vũ trang. Ví dụ, do các phương tiện công nghệ cao phi hạt nhân có bán kính tác động lớn được đưa vào trang bị hàng loạt sẽ dẫn tới xu hướng tăng cường vai trò của vũ khí thông thường quyết định chiến thắng trước đối phương trong các cuộc xung đột trên phạm vi toàn cầu. Khả năng quân sự của các nước trong không gian vũ trụ, trong lĩnh vực đối đầu thông tin, trước hết là trong không gian ảo, có giá trị rất lớn, nếu không nói là quyết định, khi xác định tính chất cuộc đấu tranh vũ trang. Trong tương lai xa hơn, việc chế tạo vũ khí dựa trên các nguyên tắc vật lý mới như vũ khí chùm tia, vũ khí địa - vật lý, vũ khí bức xạ, vũ khí gen, vũ khí thần kinh v.v.. cùng với vũ khí hạt nhân sẽ tạo ra những phương tiện có chất lượng mới nhằm vào mục đích chính trị và chiến lược. Các hệ thống trang bị dựa trên các nguyên tắc vật lý mới sẽ có hiệu quả tương đương với việc sử dụng vũ khí hạt nhân nhưng lại dễ được chấp nhận hơn về mặt chính trị và quân sự.
Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến các cuộc chiến tranh cục bộ và khu vực bùng phát với một tần suất ngày càng lớn. Trên thế giới đang hình thành những khu vực bất ổn và trạng thái “hỗn loạn có điều khiển” đang bị kích động và mở rộng. Âm mưu kích động các cuộc xung đột đó trong những khu vực gần biên giới của Nga và đồng minh của Nga đang có xu hướng gia tăng.
Chúng ta đang chứng kiến sự mất hiệu lực và bị chà đạp của những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh quốc tế. Trong những điều kiện đó, nước Nga không thể chỉ trông chờ vào các phương tiện ngoại giao và kinh tế để loại bỏ mâu thuẫn trong việc giải quyết xung đột. Nước Nga đang đứng trước nhiệm vụ xây dựng và phát triển tiềm lực quân sự trong khuôn khổ chiến lược răn đe và kiềm chế sao cho ngang tầm với khả năng đủ để phòng thủ. Còn các lực lượng vũ trang, các cơ quan tình báo và nhiều cơ quan sức mạnh khác của Nga cần sẵn sàng nhanh chóng phản ứng có hiệu quả đối với những thách thức mới. Đây là điều kiện cần thiết để nước Nga được an toàn, còn các quan điểm và lập luận của Nga sẽ được các đối tác chấp nhận trên các diễn đàn quốc tế khác nhau.
Cùng với các đồng minh của Nga, chúng ta cũng cần củng cố khả năng của Tổ chức Hiệp ước an ninh tập thể bao gồm lực lượng phản ứng tập thể, sẵn sàng thực hiện sứ mệnh bảo đảm ổn định trên Không gian Á-Âu. Ưu tiên quan trọng nhất trong chính sách quốc gia của Nga trong tương lai sẽ là bảo đảm sự phát triển năng động của các lực lượng vũ trang Nga, công nghiệp nguyên tử và vũ trụ, tổ hợp công nghiệp quốc phòng, giáo dục quân sự, khoa học quân sự cơ bản và các chương trình nghiên cứu ứng dụng.
Các lực lượng vũ trang sẽ che chở nước Nga
Sự tan rã một quốc gia thống nhất, các xung động về kinh tế và xã hội những năm 1990 đã tác động mạnh mẽ tới tất cả các thể chế nhà nước, trong đó các lực lượng vũ trang Nga đã phải trải qua những thử thách khốc liệt nhất. Hoạt động huấn luyện chiến đấu bị ngừng trệ, các đơn vị thuộc đội chiến lược trên tuyến đầu từ khu vực Đông Âu được điều về Nga. Những năm đó, các sĩ quan Nga không nhận được tiền lương hằng tháng, thậm chí họ cũng không được cung cấp đầy đủ khẩu phần ăn. Hàng chục nghìn quân nhân rời quân ngũ. Số tướng lĩnh, đại tá, trung tá và thiếu tá nhiều hơn số lượng đại úy và trung úy. Các xí nghiệp quốc phòng bị đình đốn trong trạng thái mắc nợ triền miên, số chuyên gia có trình độ cao có thể đếm trên đầu ngón tay. Một cuộc chiến tranh thông tin phá hoại nhằm vào các lực lượng vũ trang Nga. Một số “nhà hoạt động xã hội” đã sống nhờ vào các hoạt động hèn hạ nhằm hạ thấp vai trò của quân đội và phủ nhận tất cả những gì liên quan đến những khái niệm thiêng liêng như lời thề quân nhân, nghĩa vụ đối với Tổ quốc, chủ nghĩa yêu nước, lịch sử anh hùng của nước Nga.
Chúng ta đã phải trả một giá rất đắt cho những sai lầm trong nhiều cuộc cải cách không kiên quyết, mà kết quả thu lại chỉ là việc cắt giảm quân số một cách máy móc. Năm 1999, các lực lượng khủng bố quốc tế đã mở một cuộc tiến công xâm lược trực tiếp chống lại Nga, khi đó chúng ta đã vấp phải một tình huống mang tính thảm họa: cần phải gấp rút thu gom được 66.000 quân từ những đơn vị phân tán, rời rạc, bao gồm các tiểu đoàn và các đội độc lập. Vào thời điểm đó, quân số trong biên chế của các lực lượng vũ trang Nga là trên 1 triệu 360 nghìn người.
Trên thực tế, các đơn vị không đủ biên chế, không có khả năng thực hiện nhiệm vụ chiến đấu ngay mà phải được huấn luyện bổ sung nhưng các lực lượng vũ trang Nga đã khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu được giao. Chúng ta đã bắt đầu từ những việc làm khẩn thiết nhất như khôi phục hệ thống bảo đảm xã hội tối thiểu và thanh toán nợ lương cho quân nhân, hằng năm tăng cường ngân sách quốc phòng để phát triển các lực lượng vũ trang Nga. Trên tất cả các hướng chiến lược đã xây dựng các đơn vị sẵn sàng chiến đấu. Chính những lực lượng này đã hoàn thành nhiệm vụ cưỡng chế hòa bình đối với Gruzia trong chiến dịch quân sự tháng 8-2008, bảo vệ nhân dân Nam Ossetia và Abkhazia.
Trong tình hình hiện nay, sẽ là vô nghĩa nếu đem lực lượng và vũ khí trang bị mới “nạp” vào cơ cấu quân sự cũ vì làm như thế chúng ta sẽ không có đủ tiềm lực tài chính và nhân lực. Sẽ không thay đổi được gì nếu chỉ dừng lại ở những cải cách từng bước và mang tính chất nửa vời. Chúng ta sẽ không xây dựng được tiềm lực quân sự mới và sẽ không thể xây dựng được các lực lượng vũ trang Nga có đủ khả năng chiến đấu.
Lối thoát ở đây chỉ có một: đó là phải xây dựng quân đội kiểu mới, một đội quân hiện đại, cơ động, luôn luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Đây là một quá trình khó khăn và ảnh hưởng đến hàng chục nghìn con người nhưng cần phải làm. Chúng ta cần thay đổi thể chế quân sự vô cùng phức tạp mà trong đó đã tích tụ rất nhiều khiếm khuyết, hạn chế về kỹ thuật, không có sự đồng thuận của những người thực hiện, hoạt động thông tin yếu kém và không có kênh thông tin ngược, việc thực hiện chỉ mang tính hình thức. Đó chính là những điểm yếu thực tế của công cuộc cải cách đang được tiến hành và nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là phát hiện ra được những điểm yếu đó và khắc phục.
Những gì đã làm được
Hiện nay, những đơn vị quân đội thuộc diện cắt giảm biên chế đã không còn nữa. Trong Lục quân Nga đã triển khai trên 100 lữ đoàn binh chủng hợp thành và chuyên môn. Đó là những binh đoàn chiến đấu được trang bị đủ và sẵn sàng hành động khi được lệnh báo động chiến đấu là một giờ, thời gian để chuyển lực lượng đến chiến trường tiềm tàng là một ngày.
Quân đội Nga ngày nay sẽ không còn đảm nhận những chức năng bảo đảm không thuộc hoạt động quân sự như làm kinh tế và bảo đảm đời sống. Sẽ hạn chế đến mức tối thiểu các hoạt động không liên quan tới huấn luyện chiến đấu. Do đó, người lính và sĩ quan cần phải thực hiện nhiệm vụ trực tiếp của họ là huấn luyện chiến đấu và học tập quân sự với cường độ cao, tác động tích cực đến kỷ luật trong quân đội.
Hiện nay ở Nga đang diễn ra quá trình cải cách nghiêm túc trong lĩnh vực giáo dục quân sự. Khoảng 10 trung tâm nghiên cứu khoa học lớn sẽ được xây dựng trong thời gian tới và các sĩ quan cũng sẽ được tạo điều kiện để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn tùy thuộc vào quá trình phục vụ của họ trong quân đội. Chúng ta cần phải khôi phục lại thẩm quyền của các trường đại học quân sự, liên kết các thể chế đó với hệ thống giáo dục quân sự đang hình thành cả trong lĩnh vực dân dụng của nền kinh tế. Khoa học quân sự cần phải có tác động quyết định đến việc hoạch định nhiệm vụ của tổ hợp công nghiệp quốc phòng.
Rõ ràng, sẽ không thể tạo ra sự phát triển bình thường trong hoạt động nghiên cứu quân sự nếu thiếu sự kết hợp với khoa học dân dụng, nếu không sử dụng tiềm lực của các trường đại học và các trung tâm nghiên cứu khoa học của Nhà nước Nga. Các nhà khoa học cần phải được cung cấp thông tin đầy đủ về hiện trạng và triển vọng phát triển quân đội và các hệ thống trang bị để có khả năng định hướng các công trình nghiên cứu trong tương lai có khả năng áp dụng trong lĩnh vực quân sự.
Các cơ quan chỉ huy trong các lực lượng vũ trang Nga sẽ cắt giảm 2 lần. Nga sẽ xây dựng 4 Quân khu lớn là Quân khu miền Tây, Quân khu miền Nam, Quân khu trung tâm, Quân khu miền Đông và sẽ chuyển về đó các lực lượng của không quân, phòng không, hải quân. Thực chất là xây dựng các bộ chỉ huy chiến dịch-chiến lược. Từ ngày 01-12-2011, Quân chủng Phòng thủ đường không - vũ trụ của Nga, một quân chủng mới, sẽ chuyển vào trạng thái thường trực chiến đấu. Trong Không quân Nga sẽ thành lập 7 căn cứ không quân có hạ tầng cơ sở mạnh, mạng lưới sân bay được hiện đại hóa.
Tất cả các lữ đoàn thuộc Quân chủng Phòng thủ đường không - vũ trụ được trang bị các tổ hợp tự động hóa hiện đại, đã triển khai hệ thống dẫn đường và định vị toàn cầu đầy đủ GLONASS. Hiện nay chúng ta đã bảo đảm độ ổn định tin cậy và đầy đủ cho thành phần trên bộ, trên biển và trên không của các lực lượng hạt nhân chiến lược của Nga. Tỷ lệ các tổ hợp tên lửa hiện đại bố trí trên mặt đất trong 4 năm gần đây đã tăng 13-25%. Chúng ta sẽ tiếp tục trang bị lại 10 trung đoàn tên lửa chiến lược “Topol” và “Yars”.
Trong không quân tầm xa sẽ giữ nguyên toàn bộ các máy bay chiến lược phóng tên lửa Tu-160 và Tu-95. Hiện nay, Nga đang tiến hành các hoạt động nhằm hiện đại hóa các phương tiện chiến đấu này. Các máy bay ném bom chiến lược của Nga sẽ được trang bị tên lửa hành trình thế hệ mới phóng từ trên không và có tầm hoạt động xa. Hiện nay, Nga bắt đầu nghiên cứu chế tạo tổ hợp máy bay tầm xa thế hệ mới. Các tàu ngầm trang bị tên lửa chiến lược thế hệ mới “Borey” đã được đưa vào thường trực chiến đấu. Các tàu ngầm “Yury Dolgoruky” và “Alexander Nevsky” đã được thử nghiệm ở cấp độ quốc gia. Hạm đội của Nga đã bắt đầu hiện diện tại các khu vực chiến lược trên đại dương thế giới, trong đó có Địa Trung Hải. Sắp tới đây, sự hiện diện đó của hạm đội Nga sẽ trở nên thường xuyên.
Nhiệm vụ của thập kỷ sắp tới
Chúng ta đã chuyển sang quá trình trang bị lại trên phạm vi lớn và đồng bộ cho quân đội và hạm đội cũng như nhiều cơ quan sức mạnh khác để bảo đảm an ninh quốc gia. Ưu tiên trang bị lại các lực lượng hạt nhân, hệ thống phòng thủ đường không - vũ trụ, hệ thống truyền thông, trinh sát và chỉ huy, vô tuyến điện tử, máy bay không người lái và các tổ hợp rô-bốt tiến công, không quân vận tải hiện đại, hệ thống bảo vệ người lính trên chiến trường, vũ khí công nghệ cao và các phương tiện đối phó. Hệ thống huấn luyện các đơn vị chỉ huy và bộ đội sẽ có chất lượng cao hơn, sẽ hoạt động với cường độ cao và toàn diện. Chúng ta sẽ tập trung nỗ lực chủ yếu vào việc xây dựng các lực lượng liên quân hoạt động có hiệu quả; nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị và phân đội.
Tình hình hiện nay yêu cầu Nga phải có các biện pháp quyết liệt nhằm củng cố hệ thống phòng thủ đường không vũ trụ thống nhất của quốc gia. Kế hoạch của Mỹ và NATO triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa đã buộc Nga phải hành động như vậy. Việc xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa riêng rất tốn kém và hiện nay vẫn chưa có hiệu quả cao. Trong khi đó, việc tạo dựng khả năng vượt qua bất kỳ hệ thống phòng thủ tên lửa nào của đối phương và bảo vệ tiềm lực đáp trả của Nga lại mang tính hiệu quả hơn. Đây chính là sự bảo đảm để duy trì sự cân bằng chiến lược trên phạm vi toàn cầu.
Nhiệm vụ của chúng ta là phục hồi hạm đội hải quân đại dương Nga, trước hết là ở Biển Bắc và Viễn Đông. Các nước hàng đầu thế giới hiện nay đang tích cực hoạt động trên các vùng biển ở Bắc Cực, buộc Nga phải bảo đảm lợi ích của mình ở khu vực này. Trong thập kỷ tới, các lực lượng vũ trang Nga sẽ trang bị hơn 400 tên lửa đường đạn vượt đại châu hiện đại bố trí trên mặt đất và trên biển, 8 tàu ngầm tuần dương trang bị tên lửa chiến lược, khoảng 20 tàu ngầm đa năng và trên 50 tàu nổi chiến đấu, khoảng 100 khí tài vũ trụ quân sự, trên 600 máy bay chiến đấu, bao gồm máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5, trên 1.000 trực thăng, 28 trung đoàn tổ hợp tên lửa phòng không S-400, 38 tiểu đoàn tổ hợp tên lửa phòng không cấp sư đoàn “Vichiaz”, 10 lữ đoàn tổ hợp tên lửa phòng không “Iskander”, trên 2.300 xe tăng hiện đại, khoảng 2.000 tổ hợp pháo tự hành, trên 17.000 xe ô tô quân sự. Hiện nay, 250 đơn vị và binh đoàn trong đó có 30 phi đoàn không quân đã được trang bị hiện đại. Đến năm 2020, tỷ lệ các loại vũ khí trang bị mới sẽ chiếm 70%, các hệ thống còn lại trong trang bị sẽ được hiện đại hóa một cách căn bản.
Như vậy, nhiệm vụ của thập kỷ tới sẽ là đưa cơ cấu các lực lượng vũ trang Nga dựa trên cơ sở các hệ thống vũ khí trang bị mới về nguyên lý. Vũ khí trang bị mới sẽ ''nhìn" xa hơn, bắn chính xác hơn, phản ứng nhanh hơn so với các hệ thống tương tự của bất kỳ đối thủ tiềm tàng nào.
Bảo đảm xã hội cho các lực lượng vũ trang Nga
Quân đội hiện đại trước hết là những con người có trình độ cao, được huấn luyện tốt, có khả năng sử dụng các loại vũ khí hiện đại nhất, trong đó có các chuyên gia có hiểu biết sâu sắc và trình độ học vấn cao cũng như trình độ văn hóa cao. Hiện nay, yêu cầu cá nhân đối với từng sĩ quan và người lính đã tăng lên đáng kể.
Đến lượt mình, các quân nhân cũng cần phải có được một hệ thống các bảo đảm xã hội phù hợp với trách nhiệm lớn của họ. Đó là dịch vụ bảo đảm y tế, hệ thống nghỉ dưỡng và điều dưỡng, hệ thống bảo hiểm, chế độ hưu trí thích đáng và khả năng được bố trí việc làm sau khi giải ngũ. Tất nhiên, mức lương của sỹ quan quân đội phải cao hơn mức thu nhập của các chuyên gia có trình độ và các nhà quản lý trong các ngành kinh tế hàng đầu. Từ năm 2007, Chính phủ Nga đã quyết định cải tiến và nâng cao đáng kể lương và phụ cấp hưu trí cho các quân nhân. Trong giai đoạn 1 của năm 2009, Nga đã tiến hành thử nghiệm trên quy mô lớn để nâng cao thu nhập lao động cho quân nhân, nghĩa là cho những ai gánh vác trọng trách đặc biệt về bảo đảm khả năng quốc phòng của đất nước.
Nga sẽ thực hiện bước tiếp theo là tăng thu nhập bằng tiền của quân nhân lên gấp 3 lần. Các lực lượng vũ trang với vai trò là một người lao động sẽ có khả năng cạnh tranh hơn. Điều này sẽ thay đổi tình hình, tạo ra những động lực mới cho nghề nghiệp quân sự.
Từ ngày 01-01-2012, Nga nâng cao thu nhập bằng tiền trong hệ thống của Bộ Nội vụ. Còn từ ngày 01-01-2013, lương của những người làm việc trong tất cả các lực lượng vũ trang còn lại cũng như trong các cơ quan bảo vệ pháp luật và trong các cơ quan phục vụ đặc biệt sẽ tăng lên đáng kể. Lương hưu của tất cả các quân nhân không phụ thuộc vào đơn vị sẽ tăng lên 1,6 lần từ ngày 01-01-2012. Sắp tới, các quân nhân nghỉ hưu hằng năm sẽ được tăng phụ cấp không ít hơn 2% trên mức lạm phát. Ngoài ra, sẽ áp dụng chứng chỉ học vấn chuyên môn cho phép quân nhân sau khi giải ngũ sẽ có được trình độ hoặc sẽ được đào tạo lại ở bất kỳ một trường đại học nào của Nhà nước.
Về vấn đề xây dựng nhà ở, trong nhiều năm trên thực tế vấn đề này chưa giải quyết xong. Trong những năm 1998, từ tất cả các nguồn đầu tư, chúng ta mới xây dựng được 6.000-8.000 căn hộ hoặc giấy phép cấp nhà ở hằng năm. Do đó, nhiều người sau khi giải ngũ vẫn chưa có nhà, gây nên những khó khăn cho chính quyền khu vực. Từ năm 2000, chúng ta đã tăng đáng kể khối lượng nhà ở, đạt đến mức trung bình 25.000 căn hộ trong một năm. Trong những năm 2008-2011, chỉ tính riêng các quân nhân trong Bộ Quốc phòng đã được cấp hoặc xây dựng khoảng 140.000 căn hộ cư trú thường xuyên và 46.000 căn hộ công vụ. Trước đây, nước Nga chưa bao giờ có được một thành tích như vậy.
Chúng ta đã đầu tư một khoản tiền lớn như vậy ngay cả trong điều kiện khủng hoảng. Mặc dù chương trình có quy mô lớn hơn so với dự kiến trước đây nhưng vấn đề nhà ở cho quân nhân hiện nay vẫn chưa được giải quyết xong. Trong hai năm 2012-2013, chúng ta cần phải bảo đảm cho các quân nhân có nhà ở để cư trú cố định. Ngoài ra, từ năm 2014 sẽ hoàn thành quỹ nhà ở công vụ hiện đại. Như vậy, vấn đề về nhà ở của các quân nhân sẽ được giải quyết.
Hệ thống tuyển quân của các lực lượng vũ trang Nga đang có những thay đổi đáng kể. Hiện nay, trong quân đội có đến 220.000 sĩ quan và 186.000 hạ sĩ quan và chiến sĩ phục vụ theo hợp đồng. Dự kiến, trong vòng 5 năm tới, hằng năm, Nga sẽ tuyển chọn trên 50.000 quân nhân theo hợp đồng và sẽ được bố trí vào vào cương vị hạ sĩ quan, chuẩn úy cũng như các chuyên gia kỹ thuật quân sự. Đến năm 2017, tổng biên chế của các lực lượng vũ trang Nga là 1 triệu người, trong đó có 700.000 người chuyên nghiệp, gồm sĩ quan, học viên các trường quân sự, hạ sĩ quan và chiến sĩ hợp đồng. Đến năm 2020, số quân nhân điều động theo chế độ nghĩa vụ quân sự sẽ giảm xuống còn 145.000 người. Để duy trì kỷ luật trong các tập thể quân nhân sẽ thành lập lực lượng cảnh sát quân sự.
Chúng ta cần phải áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao uy tín của hoạt động phục vụ quân đội theo nghĩa vụ. Trên thực tế, biến chế độ phục vụ theo nghĩa vụ quân sự thành một hoạt động được xã hội đánh giá cao và được ưu tiên, trong đó cần phải ưu tiên cho những quân nhân đã hết hạn phục vụ trong quân đội được tuyển vào các trường đại học tốt nhất. Nhà nước cần phải tạo điều kiện để các quân nhân được đào tạo thêm trước khi thi tuyển vào các trường chuyên nghiệp. Đối với những quân nhân đã tốt nghiệp các trường đại học trước khi gia nhập quân đội, cần bảo đảm ngân sách để họ được đào tạo tại môi trường tốt nhất ở trong nước và nước ngoài. Các quân nhân sau khi giải ngũ sẽ được ưu tiên tiếp nhận vào các cương vị công tác trong các cơ quan dân sự của nhà nước và đưa vào lực lượng dự bị. Quân đội cần phải khôi phục lại vai trò truyền thống như là một tổ chức xã hội quan trọng nhất.
Yêu cầu đối với tổ hợp công nghiệp - quốc phòng Nga
Tổ hợp công nghiệp - quốc phòng Nga là niềm tự hào, tập trung tiềm năng trí tuệ và khoa học - kỹ thuật mạnh nhất của cả nước nhưng tại đây cũng đang tích tụ nhiều vấn đề. Trên thực tế, trong 30 năm gần đây các trung tâm công nghiệp - quốc phòng và các xí nghiệp của các nước đã bỏ lỡ nhiều chương trình hiện đại hóa. Trong thập niên sắp tới chúng ta sẽ phải khắc phục sự tụt hậu này một cách toàn diện. Chúng ta sẽ phải giành lại vị trí dẫn đầu trong toàn bộ các công nghệ quân sự cơ bản.
Chúng ta sẽ phải dựa vào tổ hợp công nghiệp - quốc phòng của Nga để tái trang bị quân đội, gia tăng nhiều lần việc đưa vào trang bị các loại phương tiện hiện đại thế hệ mới; xây dựng lĩnh vực khoa học - công nghệ vượt lên trước; nghiên cứu chế tạo và áp dụng những công nghệ then chốt để sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh ứng dụng trong quân sự.
Về việc mua sắm vũ khí trang bị ở nước ngoài, thực tiễn thế giới đã chứng tỏ, ngay cả các nhà cung cấp trang bị then chốt trên thị trường thế giới, những quốc gia phát triển nhất về công nghệ và công nghiệp cũng phải mua sắm một số hệ thống trang bị riêng lẻ, vật liệu và công nghệ. Điều này cho phép họ nhanh chóng giải quyết được những nhiệm vụ cấp thiết trong lĩnh vực quốc phòng, kích thích nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, bất kỳ một sự mua sắm vũ khí trang bị quân sự nào cũng không thể thay thế được sự sản xuất vũ khí trang bị trong nước mà chỉ là tạo điều kiện để tiếp thu công nghệ và tri thức.
Để thực sự nâng cao khả năng quốc phòng của đất nước, chúng ta cần các loại phương tiện kỹ thuật hiện đại nhất và tốt nhất thế giới. Không thể chấp nhận tình trạng quân đội trở thành thị trường tiêu thụ các loại vũ khí trang bị, công nghệ cũng như các công trình nghiên cứu phát triển từ ngân sách của Nhà nước đã bị lạc hậu. Hoạt động của các xí nghiệp tổ hợp công nghiệp - quốc phòng cần phải tập trung vào việc sản xuất hàng loạt các loại vũ khí trang bị có chất lượng ở trong nước có tính năng kỹ - chiến thuật tốt nhất, đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng hiện nay và trong tương lai.
Để các xí nghiệp tổ hợp công nghiệp - quốc phòng có thể hoạt động nhịp nhàng, chúng ta đã thông qua quyết định xây dựng đơn đặt hàng quốc phòng không phải cho 1 năm mà là cho 3 đến 5 năm, thậm chí là 7 năm. Tổ hợp công nghiệp - quốc phòng không có khả năng tuần tự tiến kịp một ai đó, vì thế chúng ta cần phải tạo ra sự đột phá để trở thành cơ sở sáng chế và sản xuất hàng đầu. Ở tất cả các nước có tổ hợp công nghiệp - quốc phòng phát triển, những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực quốc phòng bao giờ cũng là một trong những động lực mạnh mẽ nhất để tạo ra sự đổi mới. Những công trình nghiên cứu và thiết kế thử nghiệm dùng cho quốc phòng đều được nhà nước đầu tư ngân sách mạnh và ổn định, cho phép áp dụng nhiều công nghệ đột phá mà trong lĩnh vực dân dụng không thể vượt qua được "ngưỡng lợi nhuận". Sau đó, dưới dạng sản phẩm sẵn có, những công nghệ đó lại được tiếp thu và áp dụng trong lĩnh vực dân sự. Chúng ta cần phải có cơ cấu hiện đại hoạt động với tư cách là cầu nối giữa giới quân sự, công nghiệp, khoa học và chính trị. Bằng cách đó chúng ta mới có khả năng phát hiện và ủng hộ những gì tốt nhất trong môi trường đổi mới trên phạm vi quốc gia và vượt qua được các quá trình quan liêu trong vô vàn các thỏa thuận và hoạt động phối hợp.
Việc đổi mới tổ hợp công nghiệp - quốc phòng sẽ là động lực kéo theo sự phát triển những lĩnh vực khác nhau như luyện kim, chế tạo máy, công nghiệp hóa học, vô tuyến điện tử, công nghệ thông tin và viễn thông. Cần cho phép các xí nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực này có tiềm năng để đổi mới cơ sở công nghệ và các giải pháp công nghệ mới. Sẽ phải bảo đảm sự ổn định cho nhiều tập thể khoa học và thiết kế, nghĩa là sự hiện diện của họ trên thị trường nghiên cứu phát triển phục vụ lĩnh vực dân sự.
Chúng ta phải kiên quyết chống tham nhũng trong lĩnh vực công nghiệp - quốc phòng và các lực lượng vũ trang, kiên quyết áp dụng nguyên tắc trừng phạt thích đáng. Bởi tham nhũng trong lĩnh vực an ninh quốc gia về thực chất là tội phản bội Tổ quốc.
Sự phát triển tổ hợp công nghiệp - quốc phòng nếu chỉ dựa vào sức lực của Nhà nước là không có hiệu quả ngay cả trong thời điểm hiện nay, còn trong tương lai trung hạn sẽ không thể thực hiện được xét về mặt kinh tế. Một điều quan trọng là phải tăng cường sự phối hớp giữa Nhà nước và tư nhân trên lĩnh vực quốc phòng, trong đó có việc đơn giản hóa thủ tục xây dựng các xí nghiệp quốc phòng mới. Các hãng tư nhân sẵn sàng đầu tư tiền bạc và kinh nghiệm, công nghệ vào các xí nghiệp của tổ hợp công nghiệp - quốc phòng. Tất cả các nhà sản xuất vũ khí trang bị và kỹ thuật quân sự hàng đầu của Mỹ và châu Âu đều không phải là của Nhà nước. Kinh nghiệm mới nhất về lĩnh vực này là cách tiếp cận kiểu doanh nghiệp đối với việc tổ chức sản xuất sẽ tạo ra một luồng gió mới nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của vũ khí Nga trên thị trường thế giới.
Cần phải đặc biệt chú ý hệ thống giáo dục và đào tạo cán bộ mới trong sản xuất. Nhiều xí nghiệp hiện nay đang vấp phải một tình trạng là bị thiếu hụt nghiêm trọng kỹ thuật viên và công nhân có tay nghề cao, hạn chế việc kịp thời thực hiện đơn đặt hàng của nhà nước chứ chưa nói đến việc tăng cường công suất sản xuất. Vai trò then chốt trong việc giải quyết vấn đề này phải là các trường đại học chuyên ngành, trong đó có các chương trình ứng dụng đào tạo cử nhân và các trường trung cấp kỹ thuật, cũng như các trường cao đẳng kỹ thuật chuyên ngành chung mà từ đó học viên tốt nghiệp thường đi vào phục vụ lĩnh vực quốc phòng.
Trong khi điều chỉnh lại chính sách quốc phòng và hiện đại hóa các lực lượng vũ trang, chúng ta cần định hướng vào xu hướng hiện đại nhất trong nghệ thuật quân sự. Tách rời các xu hướng đó cũng có nghĩa là chúng ta tự đưa mình vào một tình trạng dễ bị tổn thương, đưa đất nước và sinh mệnh của người lính và sĩ quan trước khả năng bị tiến công.
Quy mô chưa từng có của chương trình trang bị và hiện đại hóa tổ hợp công nghiệp - quốc phòng khẳng định toàn bộ tính chất nghiêm túc các ý định của chúng ta. Chúng ta hiểu rằng, nước Nga sẽ phải đầu tư nguồn tài lực rất lớn để thực hiện các kế hoạch đó. Nhiệm vụ còn lại là không được làm tiêu hao mà là tăng cường hơn sức mạnh kinh tế của đất nước, tạo ra một quân đội và tổ hợp công nghiệp-quốc phòng có khả năng bảo đảm chủ quyền cho nước Nga, tôn trọng các đối tác và hòa bình bền vững./
Bài 7:
Nước Nga và thế giới đang thay đổi
Nước Nga là một phần của thế giới lớn xét về phương diện kinh tế, phổ biến thông tin và văn hóa. Chúng ta không thể và không muốn bị cô lập. Nước Nga mở cửa sẽ đem lại cho công dân Nga sự phát triển thịnh vượng, phát triển văn hóa và củng cố niềm tin hiện đang bị xói mòn.
Nhưng chúng ta sẽ phải phấn đấu kiên trì xuất phát từ những mục đích của quốc gia chứ không phải do ai đó áp đặt từ bên ngoài. Nước Nga cần phải được tôn trọng khi và chỉ khi nước Nga mạnh và đứng vững trên đôi chân của mình. Trên thực tế, nước Nga bao giờ cũng sử dụng ưu thế của mình để thực hiện chính sách đối ngoại độc lập. Ngoài ra, tôi tin rằng nền an ninh trên thế giới chỉ có thể được bảo đảm với sự hợp tác với Nga chứ không thể bằng cách làm suy yếu vị thế địa chính trị và gây thiệt hại đối với nền quốc phòng của Nga.
Trung tâm thương mại ở thủ đô Moscow của Nga. |
Mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Nga mang tính chiến lược chứ không mang tính tình thế, phản ánh vị trí đặc biệt của Nga trong nền chính trị toàn cầu, vai trò của Nga trong lịch sử cũng như trong sự phát triển của thế giới. Chúng ta sẽ tiếp tục chủ trương tích cực xây dựng để củng cố nền an ninh chung, từ chối đối đầu, đối phó có hiệu quả với những thách thức như phổ biến vũ khí hạt nhân, xung đột và khủng hoảng khu vực, chủ nghĩa khủng bố và nguy cơ buôn lậu ma túy. Nước Nga sẽ làm tất cả để bảo đảm cho Nga có được những thành tựu trong tiến bộ khoa học và công nghệ, để cho các doanh nhân của Nga có được vị trí xứng đáng trên thị trường toàn cầu. Chúng ta sẽ nỗ lực xây dựng một hệ thống trật tự thế giới mới dựa trên thực tế địa chính trị hiện nay, trên cơ sở ổn định và không bị xáo trộn.
Ai làm mất niềm tin
Một số định đề quan trọng nhất mà nếu bỏ qua sẽ gây bất ổn trong quan hệ quốc tế là nền an ninh không tách rời của tất cả các quốc gia; không cho phép sử dụng sức mạnh một cách vô lối; tuân thủ vô điều kiện các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Chính thông qua lăng kính này mà chúng ta coi một số động thái ứng xử của Mỹ và NATO chỉ xuất phát từ lối tư duy khối liên minh trong khi tư duy này không còn phù hợp với logic của sự phát triển thế giới đương đại. Theo tư duy khối liên minh, NATO vẫn tiếp tục mở rộng và xây dựng hạ tầng cơ sở quân sự mới, triển khai kế hoạch xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa ở châu Âu ngay sát biên giới Nga. Thiết nghĩ, tôi đã có thể không đề cập tới chủ đề này nếu như những “kiểu chơi” như thế không diễn ra sát nách nước Nga, không đe dọa nền an ninh của Nga, không gây bất ổn trên thế giới.
Một điều đáng lo ngại là, trong khi khuôn khổ quan hệ hợp tác mới giữa Nga và NATO vẫn chưa hình thành rõ nét thì liên minh này đã tạo ra “những chuyện đã rồi” và trên thực tế không góp phần xây dựng niềm tin. Đến lượt nó, cách ứng xử như vậy trong quan hệ Nga-NATO đã không thể giải quyết được các nhiệm vụ có quy mô toàn cầu, cản trở việc xây dựng chủ đề tích cực trong các quan hệ quốc tế, làm chậm lại quá trình tái cấu trúc mang tính xây dựng các quan hệ đó.
Lúc này, trên thế giới đang diễn ra hàng loạt các cuộc xung đột vũ trang mượn cớ thực hiện mục đích nhân đạo nhưng lại vi phạm các nguyên tắc cơ bản có ý nghĩa thiêng liêng hàng thế kỷ nay về chủ quyền quốc gia. Trong các quan hệ quốc tế đang hình thành khoảng trống về pháp lý và đạo đức.
Hiện nay người ta đang nói về cái gọi là “quyền con người cao hơn chủ quyền quốc gia”. Và khi người ta sử dụng quyền bảo vệ nhân quyền để vi phạm chủ quyền quốc gia, khi quyền con người được bảo vệ từ bên ngoài quốc gia và trên cơ sở phân biệt đối xử, khi người ta “bảo vệ nhân quyền” nhưng những quyền rất cơ bản của con người như quyền được sống lại bị chà đạp, thì đó không còn là việc làm nhân đạo mà chỉ là sự mị dân.
Một điều quan trọng là làm thế nào để Liên hợp quốc và Hội đồng Bảo an có thể đối phó có hiệu quả với sự chuyên quyền từ nhiều nước và chống lại sự vô lối trên trường quốc tế. Không ai có quyền tự cho phép mình lạm dụng quyền hạn của Liên hợp quốc, đặc biệt trong trường hợp sử dụng sức mạnh để vi phạm chủ quyền của các quốc gia. Điều đáng nói ở đây là NATO đang tự cho mình quyền hoàn toàn không phù hợp với một liên minh mang tính chất phòng thủ. Đây là một điều hết sức nghiêm trọng. Nhân đây chúng ta nhớ lại, chính những quốc gia khẩn thiết yêu cầu tiêu chuẩn pháp lý và quyền sơ đẳng của con người lại trở thành nạn nhân của các “chiến dịch nhân đạo” và hành động xuất khẩu “nền dân chủ dựa trên bom đạn và tên lửa”.
Dường như NATO, trước hết là Mỹ, đang có một cách hiểu riêng về an ninh, khác căn bản với cách hiểu của Nga. Người Mỹ luôn muốn bảo đảm cho mình sự an toàn tuyệt đối, nhưng đó chỉ là ảo tưởng và không thể thực hiện được xét về mặt công nghệ cũng như về địa chính trị.
Sự an toàn tuyệt đối của một quốc gia cũng có nghĩa là khả năng bị tổn thương tuyệt đối của các quốc gia khác, ngoài Mỹ. Chúng ta không thể chấp nhận một triển vọng như vậy. Còn một vấn đề nữa là, nhiều quốc gia do những nguyên nhân mà ai cũng biết lại không muốn nói thẳng ra điều đó, còn người Nga thì bao giờ cũng muốn gọi mọi sự việc bằng chính tên của nó. Một lần nữa, tôi nhấn mạnh rằng, việc vi phạm nguyên tắc an ninh thống nhất và không chia sẻ đi ngược lại nhiều tuyên bố về việc tuân thủ các nguyên tắc đó, đang tạo ra những nguy cơ cực kỳ nghiêm trọng ngay cả đối với những quốc gia đã từng vi phạm điều đó theo những nguyên nhân khác nhau
“Mùa xuân Arập”: những bài học và kết luận
Một năm về trước, "Mùa xuân Arập" ban đầu được thế giới tiếp nhận với niềm hy vọng hướng tới những biến đổi tích cực. Người Nga giành cảm tình cho những ai nỗ lực hướng tới những cải cách dân chủ. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, người ta thấy rõ rằng thay vì khẳng định nền dân chủ, bảo vệ quyền của người thiểu số là sự tẩy chay đối phương, lật đổ, trong đó ưu thế của một bên được thay bằng ưu thế mang tính xâm lược hơn của một bên khác. Kết quả là, nhiều quốc gia núp dưới các khẩu hiệu “nhân đạo” đã sử dụng không quân ném bom để lật đổ chế độ cầm quyền ở Libya, trong đó kịch bản tàn khốc đã diễn ra đối với nhà lãnh đạo Libya Muammar Gaddafi.
Không thể chấp nhận để ai đó có thể lặp lại “kịch bản Libya” ở Syria. Cộng đồng quốc tế cần phải nỗ lực để đạt được sự đồng thuận giữa các lực lượng ở Syria. Điều quan trọng là phải nhanh chóng chấm dứt bạo lực xuất phát từ bất cứ bên nào, khởi động tiến trình đối thoại giữa các bên mà không có bất kỳ điều kiện tiên quyết nào, không có sự can thiệp từ bên ngoài và phải tôn trọng chủ quyền quốc gia. Nền ngoại giao của Nga đã và sẽ hoạt động theo tinh thần đó.
Học được kinh nghiệm cay đắng, Nga chống lại bất kỳ một nghị quyết nào của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc có thể bị giải thích là cho phép can thiệp quân sự vào công việc nội bộ của Syria. Tuân theo cách tiếp cận có tính nguyên tắc này, Nga và Trung Quốc sử dụng quyền phủ quyết đối với dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vào đầu tháng 2-2011-một nghị quyết sẽ được hiểu không thống nhất sẽ khuyến khích hành động bạo lực của một trong các bên xung đột.
Liên quan tới phản ứng thái quá, thậm chí là hoảng loạn trước hành động phủ quyết của Nga và Trung Quốc, tôi muốn cảnh báo các đồng nghiệp ở phương Tây không nên có ảo vọng sử dụng công thức đáng buồn trước đây: nếu có được sự chấp nhận của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tiến hành một hành động nào đó thì tốt, còn không sẽ tự thành lập một liên minh các quốc gia có liên quan và sẵn sàng tiến hành các hoạt động quân sự. Lôgic của hành vi đó là phản tác dụng và rất nguy hiểm, sẽ không dẫn tới bất kỳ kết cục tốt đẹp nào, không góp phần ổn định tình hình bên trong mỗi quốc gia đang trải qua xung đột, làm mất cân đối toàn bộ hệ thống an ninh quốc tế, làm băng hoại uy tín và vai trò trung tâm của Liên hợp quốc. Quyền phủ quyết không phải là một sự tùy tiện mà là một phần không thể tách rời của trật tự thế giới được khẳng định tại Hiến chương của Liên hợp quốc. Ý nghĩa của quyền hạn này là ở chỗ, mọi nghị quyết dù chỉ bị một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc phủ quyết đều không có ý nghĩa và không có hiệu lực. Từ tình hình trên đây, có thể nảy sinh ý nghĩ rằng những sự kiện có tính thảm kịch ở mức độ nhất định không xuất phát từ mối quan tâm về quyền con người mà là về lợi ích của ai đó muốn chiếm đoạt thị trường.
Nga bao giờ cũng có quan hệ tốt đẹp với các lực lượng hồi giáo ôn hòa có quan điểm gần giống với truyền thống hồi giáo của Nga và sẵn sàng hợp tác với họ trong điều kiện hiện nay. Nga cũng quan tâm xúc tiến các mối quan hệ chính trị, kinh tế - thương mại với tất cả các nước Arập, trong đó có các nước vừa trải qua biến động chính trị. Hy vọng, vẫn có tiền đề để Nga giữ được vị trí dẫn đầu ở Trung Đông mà ở đó Nga có rất nhiều bạn bè.
Về xung đột giữa Israel với Palestin, hiện nay vẫn chưa có một “phép màu” nào để có thể dàn xếp tình hình bất ổn. Nhưng do Nga có quan hệ gần gũi với ban lãnh đạo Israel cũng như Palestin, nên nền ngoại giao Nga sẽ tiếp tục dựa trên cơ sở quan hệ song phương và trong khuôn khổ diễn đàn 5 bên ở Trung Đông, thúc đẩy việc nối lại tiến trình hòa bình ở khu vực này bằng cách phối hợp với Liên đoàn các nước Arập.
“Mùa xuân Arập” đang làm nổi lên vai trò của "sức mạnh mềm" bao gồm tổ hợp các công cụ và phương pháp để đạt được các thành tích trong chính sách đối ngoại mà không cần sử dụng vũ khí mà bằng các công cụ thông tin và nhiều công cụ tác động khác. Tiếc rằng, nhiều khi những phương pháp này lại được sử dụng để kích động và thổi bùng chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa dân tộc, thao túng dư luận xã hội, trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền.
Cần phải phân biệt rõ đâu là tự do ngôn luận và hoạt động chính trị bình thường, còn đâu là các công cụ của "sức mạnh mềm" tác động một cách phi pháp. Chúng ta chỉ có thể ủng hộ hoạt động văn minh của các tổ chức nhân đạo và từ thiện phi chính phủ. Tuy nhiên, hoạt động của những tổ chức “giả phi chính phủ”, các tổ chức khác theo đuổi mục đích gây bất ổn tình hình ở một nước này hoặc nước khác từ bên ngoài là không thể chấp nhận được.
Những thách thức và nguy cơ mới
Trước hết là tình hình Iran. Nga lo ngại về nguy cơ một cuộc tiến công quân sự nhằm vào Iran đang ngày càng tăng. Nếu điều này xảy ra sẽ dẫn tới những thảm họa thực sự và và không thể tưởng tượng được phạm vi và quy mô của cuộc chiến tranh này. Chúng ta công nhận quyền của Iran phát triển chương trình hạt nhân dân sự, kể cả việc làm giàu urani dưới sự kiểm soát tin cậy và toàn diện của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA).
Đối với chương trình hạt nhân của Triều Tiên, chúng ta không chấp nhận quy chế hạt nhân của Triều Tiên và kiên quyết chủ trương phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên, sử dụng biện pháp chính trị ngoại giao và yêu cầu nhanh chóng nối lại cuộc đàm phán 6 bên. Triều Tiên với Nga có cùng biên giới nên chúng ta không có quyền lựa chọn láng giềng và sẽ tiếp tục đối thoại tích cực với Bình Nhưỡng để phát triển quan hệ láng giềng thân thiện, đồng thời đưa Triều Tiên đến việc giải quyết vấn đề hạt nhân.
Liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran và Triều Tiên, cũng nên suy nghĩ về hành động can thiệp quân sự thô bạo từ bên ngoài vào công việc nội bộ của các nước đã kích thích một số nước hoặc một số chế độ cầm quyền tiến tới sở hữu vũ khí hạt nhân bởi họ cho rằng khi đã có vũ khí hạt nhân rồi thì không ai dám đụng chạm đến họ. Còn ai không có vũ khí hạt nhân thì người đó sẽ đợi đến lúc phải đón nhận sự "can thiệp nhân đạo". Cần phải làm tất cả những gì có thể để không ai còn có ý muốn sở hữu vũ khí hạt nhân. Muốn vậy, bản thân những nước đấu tranh nhằm ngăn ngừa sự phổ biến vũ khí hạt nhân cũng cần phải tự xem xét lại mình, đặc biệt là những nước đã quen trừng phạt các nước khác bằng sức mạnh quân sự mà không phát huy công cụ ngoại giao.
Tương lai của Afghanistan cũng đáng lo ngại. Nguy cơ khủng bố và buôn lậu ma túy xuất phát từ Afghanistan đã không hề suy giảm. Sau khi tuyên bố rút quân khỏi nước này vào năm 2014, Mỹ đang xây dựng các căn cứ quân sự ở đó và ở các nước láng giềng mà không có bất kỳ một lý do nào. Nga không chấp nhận điều này.
Nga có lợi ích rõ ràng ở Afghanistan vì đây là một nước láng giềng và Nga rất muốn Afghanistan hoà bình và ổn định. Việc buôn lậu ma túy từ Afghanistan đang là một trong những nguy cơ nghiêm trọng nhất đe dọa nền an ninh của Nga, hủy hoại quỹ gen của các dân tộc, tạo môi trường cho tham nhũng, tội phạm và gây bất ổn ngay trong nội bộ ở Afghanistan. Nga đang phải đối mặt với một cuộc xâm lược bằng ma túy tàn phá nghiêm trọng sức khoẻ và sinh mệnh các công dân Nga.
Khó có thể dự báo được tình hình Afghanistan sẽ phát triển tiếp tục ra sao. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, sự hiện diện quân sự của nước ngoài sẽ không đem lại sự yên ổn cho Afghanistan. Chỉ có người Afghanistan mới có thể giải quyết được những vấn đề của mình. Nga có thể có vai trò nhất định trong việc xây dựng một nền kinh tế ổn định, nâng cao khả năng của các lực lượng vũ trang của Afghanistan đối phó với nguy cơ khủng bố và tội phạm ma túy trên cơ sở hợp tác tích cực với các nước láng giềng. Chúng ta không phản đối sự tham gia của các lực lượng đối lập có vũ trang, kể cả Taliban, vào quá trình hòa hợp dân tộc trong điều kiện họ từ chối bạo lực và công nhận hiến pháp của đất nước, từ bỏ mối liên hệ với “A-Qaeda” và nhiều tổ chức khủng bố khác.
Về cuộc chiến chống khủng bố, Liên hợp quốc tuy đã thông qua Chiến lược toàn cầu chống khủng bố nhưng hiện nay cuộc chiến chống lại tội ác này không diễn ra theo một kế hoạch thống nhất, không kiên định, mà theo cách thức phản ứng trước những biểu hiện cấp bách và tàn bạo nhất của khủng bố. Trong khi đó, một số nước vẫn áp dụng tiêu chuẩn "nước đôi" để nhìn nhận về khủng bố, vẫn còn nhận thức khác nhau về khủng bố như có “khủng bố xấu” và “khủng bố không xấu lắm”. Một số người thậm chí còn sử dụng những kẻ khủng bố “không xấu lắm” trong các trò chơi chính trị, ví dụ để lật độ các chế độ cầm quyền không thích hợp.
Nâng cao vai trò của khu vực châu Á-Thái Bình Dương
Nước Nga tiếp giáp với một trung tâm kinh tế toàn cầu quan trọng nhất là Trung Quốc mà trong năm 2011 đã giành vị trí số 2 thế giới về GDP. Thế giới đang tranh luận về vai trò tương lai của Trung Quốc trong nền kinh tế toàn cầu và trong các công việc quốc tế. Sức mạnh tổng hợp của Trung Quốc ngày càng tăng, trong đó có khả năng phát huy sức mạnh tại các khu vực khác nhau trên thế giới.
Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Nguyễn Minh Triết tiếp đón Tổng thống Liên bang Nga V.Putin tại Hà Nội trong lần tham dự Diễn đàn APEC 2006 và thăm Việt Nam tháng 11-2006 |
Tôi cho rằng, sự phát triển nền kinh tế Trung Quốc không phải là nguy cơ mà là thách thức chứa đựng tiềm năng, trong đó có tiềm năng hợp tác và cơ hội để thổi “ngọn gió Trung Quốc” vào cánh buồm kinh tế của Nga. Chúng ta cần phải tích cực hơn nữa trong việc thiết lập quan hệ hợp tác mới với Trung Quốc, cả về công nghệ cũng như khả năng sản xuất, khai thác hợp lý tiềm năng của Trung Quốc để phát triển vùng Sybia và Viễn Đông.
Tiếng nói của Trung Quốc trên thế giới thực sự tự tin hơn. Trung Quốc và Nga có cùng quan điểm về một trật tự thế giới công bằng và Nga sẽ tiếp tục ủng hộ Trung Quốc trên trường quốc tế, cùng nhau giải quyết những vấn đề toàn cầu và khu vực nóng bỏng, tăng cường hợp tác tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, BRICS và SCO và G20 và nhiều cơ chế đa phương khác.
Nga và Trung Quốc đã xây dựng cơ chế quan hệ song phương trên cơ sở trách nhiệm pháp lý. Lãnh đạo hai nước đã đạt được sự tin cậy cao chưa từng có, cho phép cả Nga và Trung Quốc hành động theo tinh thần đối tác thực sự trên cơ sở thực dụng và tính đến lợi ích của nhau. Mô hình quan hệ giữa Nga và Trung Quốc là rất có triển vọng. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là mọi thứ trong quan hệ giữa Nga và Trung Quốc đều đã được giải quyết thỏa đáng. Lợi ích thương mại của Nga và Trung Quốc ở các nước thứ ba đôi khi không trùng hợp nhau. Nga sẽ chú ý theo dõi dòng người di cư từ Trung Quốc đến Nga.
Một nước lớn châu Á khác cũng đang phát triển rất nhanh là Ấn Độ. Nga và Ấn Độ có mối quan hệ hữu nghị truyền thống và đã thiết lập đối tác quan hệ chiến lược đặc biệt. Việc củng cố quan hệ giữa Nga và Ấn Độ không chỉ có lợi cho hai nước mà còn cho toàn bộ hệ thống trật tự thế giới nhiều trung tâm đang hình thành.
Hiện nay, trước mắt chúng ta không chỉ là sự phát triển của Trung Quốc và Ấn Độ, mà còn là sự gia tăng vai trò của toàn bộ khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đang mở ra nhiều khả năng mới trong khuôn Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương mà trong năm 2012 Nga làm Chủ tịch, tạo điều kiện cho phép Nga ở mức độ lớn hơn tham gia vào các quá trình liên kết năng động ở "châu Á mới".
Nga ưu tiên cho việc hợp tác với các đối tác trong nhóm BRICS. Cùng với việc tham gia của Nam Phi vào nhóm các nước BRIC sẽ tạo cho diễn đàn này có phạm vi toàn cầu đầy đủ mà hiện nay đã chiếm đến trên 25% tổng GDP của toàn thế giới.
Một trong những nhiệm vụ then chốt sắp tới là Nga sẽ tăng cường hợp tác kinh tế thương mại với các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương, thực hiện các đề án phối hợp trong lĩnh vực năng lượng, hạ tầng cơ sở, đầu tư, khoa học và kỹ thuật, hoạt động ngân hàng và du lịch.
Yếu tố châu Âu
Nga là một phần không tách rời của châu Âu. Các công dân Nga coi mình là người châu Âu. Vì thế chúng ta không thể không quan tâm tới tình hình đang diễn ra ở liên minh châu Âu. Nga đề nghị thành lập một không gian kinh tế và con người thống nhất từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương-một cộng đồng mà các chuyên gia Nga gọi là “Liên minh châu Âu” nhằm củng cố khả năng và vị thế của Nga trong quá trình dịch chuyển nền kinh tế sang châu Á mới.
Tình hình phát triển ổn định ở các nước châu Âu phụ thuộc vào triển vọng phát triển toàn bộ cấu trúc kinh tế toàn cầu. Nga tích cực hỗ trợ các nền kinh tế đang bị khủng hoảng ở châu Âu, tham gia soạn thảo giải pháp tập thể theo kênh của Quỹ tiền tệ quốc tế. Không loại trừ khả năng về nguyên tắc, Nga sẽ giúp đỡ tài chính trực tiếp cho các nước châu Âu. Nga quan tâm đến một EU mạnh giống như quan điểm của Đức và Pháp quan tâm đến việc thực hiện một tiềm năng mạnh của đối tác trong quan hệ đối tác giữa Nga và EU.
Mức độ hợp tác hiện nay giữa Nga và EU vẫn chưa phù hợp với các thách thức toàn cầu. Do đó, tôi đề nghị xây dựng một cộng đồng kinh tế hài hòa từ Lisbon đến Vladivostok. Lúc đó chúng ta sẽ có một thị trường lục địa chung trị giá hàng ngàn tỉ euro, sẽ đáp ứng tốt đẹp lợi ích của Nga và các nước châu Âu.
Chúng ta cần phải nghĩ về một sự hợp tác sâu sắc hơn trong lĩnh vực năng lượng, kể cả việc xây dựng một tổ hợp năng lượng thống nhất của châu Âu. Chúng ta đã có được những bước đi quan trọng theo hướng này như xây dựng đường ống dẫn khí đốt "Dòng chảy phương Bắc" đi qua đáy biển Ban Tích và "Dòng chảy phương Nam" đi qua Biển Đen. Những đề án này nhận được sự giúp đỡ của chính phủ nhiều nước, trong đó có sự tham gia của nhiều hãng năng lượng lớn ở châu Âu. Đây là đề án đặc biệt cấp bách trong bối cảnh một số nước châu Âu quyết định giảm hoặc hoàn toàn từ bỏ sử dụng năng lượng hạt nhân.
Tuy nhiên, tôi cho rằng sự đối tác thực sự giữa Nga và EU sẽ chưa thể có được chừng nào còn có các rào cản hạn chế sự tiếp xúc về kinh tế và giữa con người với nhau, trong đó trước hết phải kể đến chế độ cấp thị thực nhập cảnh. Việc bãi bỏ chế độ thị thực sẽ là một động lực mạnh mẽ cho sự liên kết thực tế giữa Nga và EU, tạo điều kiện để mở rộng quan hệ văn hóa và kinh doanh, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Về quan hệ Mỹ-Nga
Trong những năm gần đây chúng ta đã làm được nhiều việc nhằm phát triển quan hệ Mỹ-Nga. Tuy nhiên, vẫn chưa thể tạo ra được những thay đổi căn bản trong khung quan hệ giữa hai nước, vẫn có những lúc ấm, lúc lạnh. Sự bất ổn đó trong sự đối tác Nga-Mỹ là do vẫn còn tồn tại lối tư duy cũ. Các nỗ lực của Mỹ thực hiện “công nghệ chính trị”, trong đó có các khu vực có tầm quan trọng truyền thống đối với nước Nga cũng như trong quá trình bầu cử ở Nga, đã không góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước chúng ta.
Việc Mỹ xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa châu Âu đang gây lo ngại chính đáng đối với Nga vì nó đụng chạm đến tiềm năng răn đe hạt nhân chiến lược của Nga và phá hoại sự cân bằng chính trị-quân sự đã từng hình thành và được thử thách trong nhiều thập kỷ. Mối quan hệ gắn bó giữa hệ thống phòng thủ tên lửa và vũ khí tiến công chiến lược đã được phản ánh trong Hiệp ước về cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược mà hai bên đã ký kết năm 2010. Đây là một thành tựu lớn về chính sách đối ngoại. Chúng ta đang xem xét các phương án khác nhau để có thể xây dựng nội dung đàm phán phối hợp với Mỹ về việc kiểm soát trang bị trong thời gian tới. Điều cốt yếu ở đây là cần phải cân bằng lợi ích của các bên, từ bỏ lối đàm phán chỉ nhằm đạt được ưu thế đơn phương.
Trong cuộc gặp với Tổng thống Mỹ G.W.Bush tại Kennebunkport năm 2007 tôi đã đề xuất giải pháp cho vấn đề phòng chống tên lửa, có thể làm thay đổi quan hệ Nga-Mỹ theo hướng tích cực hơn. Nga không muốn đặt dấu chấm hết cho khả năng tìm kiếm các phương án dung hòa để giải quyết vấn đề hệ thống phòng thủ tên lửa. Tôi không muốn sự việc tiến triển đến mức độ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ ở phạm vi buộc chúng tôi phải thực hiện các biện pháp đối phó như đã từng tuyên bố. Nói chung, trong quan hệ với Mỹ chúng ta lẽ ra đã sẵn sàng tiến xa hơn nữa, tạo ra sự đột phá về chất lượng nhưng với điều kiện người Mỹ trên thực tế phải đi theo nguyên tắc đối tác bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
Về nền ngoại giao kinh tế
Tháng 12-2011, cuối cùng Nga đã được gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Trong giai đoạn nước rút, chính quyền của Tổng thống Mỹ Barack Obama và lãnh đạo nhiều nước châu Âu đã tích cực góp phần để đạt được thỏa thuận cuối cùng.
Nga sẽ tuân thủ các tiêu chuẩn của WTO cũng như tất cả các cam kết quốc tế, còn các đối tác của chúng ta cũng sẽ ứng xử theo đúng quy tắc của cuộc chơi. Đó chính là kết quả chủ yếu khi Nga gia nhập “câu lạc bộ” thương mại thế giới. Nga sẽ không đưa các nguyên tắc của WTO làm cơ sở pháp lý cho không gian kinh tế thống nhất giữa 3 nước Nga, Kazakhstan và Belarus. Về việc xúc tiến các lợi ích kinh tế của Nga trên trường quốc tế, chúng ta còn phải học kỹ năng của các đối tác phương Tây vì chúng ta vẫn chưa biết vận động hành lang một cách khôn khéo trên các sân chơi kinh tế đối ngoại để có được những quyết định thuận lợi cho các doanh nghiệp ở trong nước.
Tính đến các ưu tiên trong việc phát triển đổi mới của đất nước, một nhiệm vụ ngày càng quan trọng hơn trên hướng này tạo cho Nga vị thế bình đẳng trong hệ thống quan hệ kinh tế thế giới hiện đại, giảm thiểu rủi ro phát sinh trong quá trình liên kết vào nền kinh tế thế giới, trong đó có điều kiện Nga gia nhập Tổ chức thương mại thế giới và sắp tới sẽ gia nhập Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế.
Con đường tiếp cận thị trường bên ngoài một cách rộng rãi hơn và không bị phân biệt là cần thiết đối với chúng ta như là không khí. Tạm thời thì các nước trên thế giới vẫn chưa chào đón các chủ thể kinh tế của nước Nga. Các nước đã áp dụng các biện pháp chính trị và thương mại hạn chế đối với nước Nga, tạo ra những rào cản kỹ thuật buộc nước Nga phải chấp nhận một vị thế kém thuận lợi hơn so với các đối thủ cạnh tranh.
Tình hình tương tự cũng đang diễn ra với hoạt động đầu tư. Chúng ta đang cố gắng thu hút vốn của nước ngoài vào nền kinh tế Nga, mở ra các lĩnh vực có sức thu hút đối với họ, tạo cho họ những lợi thế thực sự như trong tổ hợp năng lượng-nhiên liệu. Các nước cũng không đặc biệt thu hút các nhà đầu tư của chúng ta, đôi khi còn tỏ ra từ chối.
Mặc dù hiện nay, chúng ta không còn chiếm 1/6 lục địa của thế giới nhưng Liên bang Nga vẫn là một quốc gia lớn nhất thế giới có tiềm năng tài nguyên lớn nhất mà không một nước nào có được. Tôi không chỉ nói về dầu mỏ và khí đốt mà còn nói về cả rừng, đất nông nghiệp, tài nguyên nước sạch. Lãnh thổ Nga là một nguồn sức mạnh tiềm tàng. Với chiến lược kinh tế đúng, không gian rộng lớn đó có thể trở thành cơ sở quan trọng nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh của Nga.
Có thể dự báo rằng trong một tương lai không xa sẽ diễn ra một cuộc cạnh tranh địa chính trị về tài nguyên, trong đó có tài nguyên nước, về khả năng biến nước trở thành một thứ hàng hóa. Trong tay Nga có một con bài khá mạnh là tài nguyên nước ngọt lớn nhất thế giới. Đất nước chúng ta hiểu rằng cần phải sử dụng tài nguyên mà thiên nhiên ban tặng một cách chiến lược và không được phung phí.
Hỗ trợ các công dân của chúng ta và vấn đề nhân đạo
Sự tôn trọng đối với đất nước chúng ta còn được quyết định bởi đất nước có khả năng bảo vệ quyền của các công dân của chúng ta ở nước ngoài. Một điều quan trọng là không bao giờ được quên lợi ích của hàng triệu công dân Nga đang sinh sống ở nước ngoài, những công dân đi ra nước ngoài nghỉ ngơi và công tác. Bộ Ngoại giao và tất cả cơ quan đại diện ngoại giao và tham tán cần phải thường xuyên trợ giúp và hỗ trợ thực sự cho các công dân.
Nói chung, chúng ta lo ngại về việc sử dụng “vấn đề quyền con người” trong các công việc quốc tế. Mỹ và nhiều nước phương Tây đang có tham vọng sử dụng quyền con người và chính trị hóa vấn đề này như một công cụ để gây áp lực. Các chủ thể để quản lý quyền con người được họ lựa chọn một cách có dụng ý, không theo các tiêu chí thống nhất. Nga cảm thấy mình được đối xử thiếu khách quan, có dụng ý và mang tính xâm lược, đôi khi vượt ra khỏi mọi giới hạn cho phép. Một số nước không ngớt hành động phê phán có chủ ý nhằm vào các công dân Nga và nhằm vào tình hình nội bộ của nước Nga. Lúc đó, đằng sau các hành động đó đã không còn là những nguyên tắc dân chủ và đạo đức cao cả.
Không ai được quyền lợi dụng lĩnh vực quyền con người. Nga là một quốc gia có một nền dân chủ mới hình thành. Đôi khi chúng ta thể hiện sự khiêm nhường thái quá và chịu thua thiệt trước những đối tác có kinh nghiệm của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng cần phải nói rằng xét từ quan điểm thực hiện quyền con người và tôn trọng những quyền tự do cơ bản thì không một quốc gia nào đạt đến mức độ hoàn thiện. Trong những nền dân chủ lâu đời vẫn có những vi phạm nghiêm trọng mà chúng ta không thể làm ngơ. Do đó, một khi thảo luận một cách xây dựng về lĩnh vực quyền con người sẽ có lợi cho tất cả các bên.
Bộ Ngoại giao Nga vào cuối năm vừa qua đã công bố bản báo cáo đầu tiên mang tên "Về tình hình nhân quyền ở nhiều nước trên thế giới". Tôi cho rằng cần phải tăng cường nỗ lực hoạt động theo hướng này để tạo ra một sự hợp tác rộng rãi hơn và bình đẳng hơn trong toàn bộ các vấn đề nhân đạo, xúc tiến những nguyên tắc cơ bản của dân chủ và quyền con người.
Nước Nga được kế thừa một nền văn hóa vĩ đại, được cả phương Tây và phương Đông thừa nhận. Nhưng chúng ta vẫn còn ít đầu tư vào nền công nghiệp văn hóa và trong việc xúc tiến văn hóa trên thị trường toàn cầu. Việc các nước ngày càng quan tâm tới lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, thông qua việc hội nhập các cộng đồng và các nền kinh tế vào mạng lưới thông tin toàn cầu, đang đem lại cho nước Nga những cơ hội mới với những tài năng mà nước Nga có được trong lĩnh vực sáng tạo các giá trị văn hóa.
Đối với nước Nga không chỉ có khả năng giữ gìn nền văn hóa của mình mà còn sử dụng văn hóa như một yếu tố mạnh mẽ để xúc tiến lợi ích trên thị trường toàn cầu. Không gian tiếng Nga trên thực tế là toàn bộ các nước Liên Xô trước đây và phần lớn các nước châu Âu. Không phải là tư tưởng đế chế mà là xúc tiến văn hóa, không phải là xuất khẩu các chế độ chính trị mà là xuất khẩu giáo dục và văn hóa, có thể tạo ra điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Nga, cho dịch vụ và tư tưởng Nga. Chúng ta cần gia tăng nhiều lần sự hiện diện văn hóa và giáo dục của nước Nga trên thế giới và sẽ tăng lên gấp 10 lần sự hiện diện này ở những nước mà ở đó có một bộ phận dân chúng nói tiếng Nga và hiểu tiếng Nga.
Chúng ta cần phải thảo luận một cách nghiêm túc, bằng cách nào tận dụng các sự kiện quốc tế lớn sẽ được tổ chức ở Nga để tạo ra hiệu quả tốt nhất đối với việc nhận thức về nước Nga một cách khách quan như cuộc gặp thượng đỉnh tại Diễn đàn Hợp tác kinh tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương vào năm 2012, Diễn đàn G20 và G8 vào năm 2013-2014, Diễn đàn các trường đại học ở Kazan vào năm 2013, Đại hội Olympic Mùa đông năm 2004, Giải vô địch thế giới về khúc côn cầu và bóng đá vào năm 2016 và năm 2018.
Nước Nga có ý định và sẽ tiếp tục bảo đảm an ninh quốc gia cho mình và các lợi ích quốc gia bằng cách tham gia tích cực nhất và với tinh thần xây dựng trong nền kinh tế chính trị thế giới, trong việc giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu. Chúng ta sẽ sẵn sàng hợp tác xây dựng và trên cơ sở các bên cùng có lợi, sẵn sàng đối thoại cởi mở với tất cả các đối tác trên thế giới. Chúng ta nỗ lực hiểu và tính đến lợi ích của mình nhưng chúng ta cũng đề nghị các bên tôn trọng các đối tác của chúng ta./.