THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ hai, ngày 21/5/2012
TTXVN (Angiê 16/5)
Vấn đề phòng thủ tên lửa
Mạng tin “Nghiên cứu chiến lược quốc tế” mới đây
đăng bài phân tích về mối quan hệ giữa Nga và NATO trong vấn đề phòng
thủ tên lửa của Giáo sư Hall GARDNER, Trưởng khoa chính trị quốc tế-Đại
học Mỹ tại Pari (Pháp), nội dung như sau:
Năm 2007 xuất hiện một lựa chọn có khả năng giữa
Mỹ, NATO và Nga trong hợp tác quốc phòng xích lại gần nhau hơn khi Nga
đề xuất triển khai một hệ thống phòng thủ tên lửa (MD) phối hợp giữa Mỹ
và Nga tại Armavir, bên bờ biển Đen của Nga. Những kêu gọi của Nga nhằm
ký kết một hiệp ước châu Âu-Đại Tây Dương có thể làm hài lòng bởi sẽ
thiết lập 3 trung tâm, gồm Trung tâm hợp tác an ninh tại Kaliningrad,
Trung tâm quốc phòng tại Sebastopol và Trung tâm hòa giải xung đột/duy
trì hòa bình tại Cộng hòa Síp.
Những cảnh báo tháng 11/2011 của tướng Nikolai
Makarov, Tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Nga, cho thấy sự bành
trướng của NATO đã bất ngờ làm gia tăng nguy cơ Nga tham gia giải quyết
các cuộc xung đột khu vực. Điều này cần phải được tính toán nghiêm túc.
Tướng Makarov cũng cảnh báo rằng các cuộc xung đột khu vực có thể biến
thành các cuộc chiến tranh quy mô lớn với vũ khí hạt nhân trong một số
điều kiện, Tổng thống Nga Medvedev cũng một lần nữa đe dọa sẽ triển khai
vũ khí hạt nhân tại Kaliningrad nếu Nga và NATO không đạt được một thỏa
thuận liên quan đến các kế hoạch lá chắn phòng thủ tên lửa mà Mỹ mong
muốn. Nga sẽ có thể hủy bỏ Hiệp ước cắt giảm vũ khí tấn công chiến lược
(START) Mới và ngừng các cuộc đàm phán khác về vấn đề kiểm soát vũ khí.
Những đe dọa của Nga được đưa ra sau khi Oasinhtơn thông báo sẽ ngừng
chia sẻ dữ liệu với Nga trong khung cảnh xem xét lại Hiệp định Các lực
lượng vũ trang thông thường ở châu Âu (CFE) được ký kết năm 1990 mà Nga
đã ngừng tham gia vào năm 2007.
Theo quan điểm của Nga, giai đoạn 4 của “Cách
tiếp cận thích hợp theo giai đoạn” của NATO vượt xa hơn tham vọng ngăn
chặn các loại tên lửa tầm ngắn và tầm trung của Iran khi sẽ “triển khai
một hệ thống tên lửa đánh chặn có khả năng bắn hạ các tên lửa đạn đạo
liên lục địa (ICBM) gây cản trở sức mạnh răn đe hạt nhân của Nga”. Về
phần mình, NATO đã nhấn mạnh sẽ cần triển khai hai hệ thống lá chắn tên
lửa độc lập nhằm trao đổi thông tin. Còn Nga lại đề nghị một hệ thống
tương tác chung. Mátxcơva cũng đã nhấn mạnh “những đảm bảo ràng buộc hợp
lệ” để Mỹ không sử dụng hệ thống phòng thủ tên lửa của nước này cũng
như các rađa hiện đại chống Nga. Tuy nhiên, chưa chắc Mỹ sẽ chấp nhận ký
một hiệp định ràng buộc pháp lý. Khuynh hướng “gây sức ép” của Nga đang
kích động một tình huống luôn thất thường và có nguy cơ dẫn đến một
hành động tự quyết nguy hiểm. Chủ đề nhắc đến ở đây cũng như một văn bản
hợp lệ sẽ không ngăn cản được một cuộc xung đột tiềm tàng. Cách thức
duy nhất loại bỏ xung đột là tiếp tục lựa chọn hợp tác xích lại gần nhau
giữa NATO, châu Âu và Nga nhằm chứng minh những dự định tốt đẹp. Yêu
cầu của Nga về những bảo đảm hợp lệ cần được cân bằng với một sự hợp tác
NATO-Nga thực sự hướng đến những ưu tiên an ninh và quốc phòng để cuối
cùng dẫn đến việc thiết lập một sự hiểu biết Nga-Mỹ.
Những kêu gọi của Nga về một hiệp ước châu Âu-Đại
Tây Dương có thể làm hài lòng các bên bằng cách thiết lập 3 trung tâm
hợp tác an ninh, quốc phòng và trung gian hòa giải xung đột như đã đề
cập ở trên. 3 cơ quan này sẽ phải đối mặt với những vấn đề khác nhau,
trong đó có những tranh chấp và xung đột đang gia tăng tại các khu vực
trên, tiếp tục làm tổn hại quan hệ chính trị-quân sự giữa NATO với Nga
và trong không gian châu Âu-Đại Tây Dương.
Mỗi trung tâm phối hợp sẽ phải làm việc dưới sự
chỉ huy cua Hội đồng Nga-NATO và phối hợp với Tổ chức An ninh và Hợp tác
châu Âu (OSCE). Mỗi trung tâm sẽ hỗ trợ thiết lập các giải pháp tạo
dựng lòng tin và điều phối các hoạt động an ninh và quốc phòng tại mỗi
khu vực. Các trung tâm này sẽ cung cấp một sự bảo vệ chung cho Nga và
NATO, thiết lập các tuyến đường vận chuyển nhiên liệu và trang thiết bị
cho các đối tác để duy trì hòa bình và áp dụng các giải pháp chống lại
các hoạt động khủng bố. Các trung tâm cũng có thể giúp đưa ra các giải
pháp an ninh để giải quyết các cuộc xung đột và duy trì hòa bình, hỗ trợ
các dự án phát triển và tái thiết hậu xung đột ở những nơi thích hợp.
Mỗi trung tâm sẽ làm việc với OSCE, Liên hợp quốc (LHQ), Hội đồng đối
tác châu Âu-Đại Tây Dương, Liên minh châu Âu (EU) và Ủy ban châu Âu
(EC), tổ chức Hiệp ước an ninh tập thể (ODKB), Cộng đồng kinh tế Biển
Đen (CEMN), Ngân hàng thế giới (WB) và các tổ chức quốc tế thích hợp
khác. Các trung tâm cũng cần phối hợp hiệu quả các hoạt động chung với
một số tổ chức phi chính phủ (NGO) để có thể cung cấp sự hỗ trợ bổ sung.
Nói cách khác, các trung tâm trên ban đầu có thể chỉ liên quan đến hoạt
động phối hợp riêng về an ninh và quốc phòng, song cũng cần liên quan
đến các mặt xã hội, chính sách phát triển và tái thiết để ngăn ngừa khả
năng xung đột trong tương lai.
Trung tâm quốc phòng tại Sebastopol
Trung tâm đặt tại Sebastopol, có quan hệ đối tác
với Ủy ban NATO Ucraina, sẽ tìm cách phối hợp quan hệ giữa NATO, EU và
Nga tại khu vực Biển Đen/Cápcadơ mở rộng nhằm nỗ lực thiết lập một “cộng
đồng an ninh và phát triển khu vực mới”. Ngoài trách nhiệm chung của
NATO và Nga là bảo vệ các tuyến đường quá cảnh vận chuyển năng lượng,
các đường ống và cơ sở hạ tầng, trung tâm quan trọng này cũng sẽ cải
thiện các giải pháp phối hợp chống buôn lậu vũ khí, ma túy, buôn người,
chủ nghĩa khủng bố. Trung tâm chịu trách nhiệm đối với hệ thống phòng
thủ tên lửa chung Nga- NATO, duy trì hòa bình thông qua Hiệp ước đối tác
vì hòa bình (PFP) liên quan đến các cuộc xung đột tại khu vực Biển
Đen/Cápcadơ, tương tự như các thỏa thuận duy trì hòa bình Mỹ-NATO-Nga
được ký năm 1995 tại Dayton, bang Ohio (Mỹ) liên quan đến Liên bang Nam
Tư cũ.
Mối đe dọa tiềm tàng từ các tên lửa và vũ khí hạt
nhân của Iran đã bắt đầu mang lại một “phép biện chứng bất an-an toàn”.
Điều này bắt nguồn từ một sự cạnh tranh lớn về chạy đua vũ trang kéo
theo việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa (MDS) và nhiều hệ thống
vũ khí tiên tiến khác trong toàn bộ vùng Trung Đông – một sự cạnh tranh
vũ trang đã bắt đầu làm Mỹ, Pháp và Anh cũng như Nga lo ngại. Tổng thống
Mỹ Obama đã bắt đầu triển khai các hệ thống phòng thủ tên lửa cũng như
các hệ thống rađa tiên tiến trong khung cảnh “Cách tiếp cận thích nghi
từng giai đoạn” tại Ba Lan, Rumani, Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ – nước
láng giềng của Iran và là thành viên NATO, điều này đã gây ra những phản
kháng từ người Iran. Thêm vào đó, Thổ Nhĩ Kỳ có thể sẽ phải đối mặt với
những thách thức khác vì đã cho phép triển khai các hệ thống phòng thủ
trên bởi cùng lúc hệ thống này giúp Ixraen chống lại một cuộc tấn công
đáp trả từ phía Iran. Nhưng điều này chỉ thực sự đúng nếu Ixraen tiếp
tục từ chối cam kết tham gia các cuộc đàm phán hòa bình với người
Palextin, như đã cam kết với Liên đoàn Arập năm 2007 và với Tổ chức Hội
nghị Hồi giáo năm 2008.
Nếu không có một giải pháp ngoại giao cho cuộc
tranh chấp với Iran, nguy cơ từ các chương trình tên lửa và năng lượng
hạt nhân của Iran sẽ có thể dẫn đến hành động phổ biến tên lửa và vũ khí
hạt nhân trong toàn khu vực cộng với khả năng hạt nhân của Ixraen đã
hiện hữu. Mặt tích cực là Nga đã từ chối cung cấp cho Iran hệ thống
phòng không S-300, song Iran đã thông báo xây dựng một hệ thống phòng
không cho riêng mình, có khả năng được Bắc Triều Tiên hỗ trợ. Tuy nhiên,
trong khi Nga thừa nhận mối đe dọa từ các tên lửa của Iran như một mối
đe dọa tiền tàng chống lại các lợi ích riêng của mình thì Mátxcơva cũng
lo ngại hệ thống lá chăn tên lửa và các rađa của Mỹ sau cùng lại nhắm
vào Nga chứ không phải Iran.
Dường như đề xuất của Mátxcơva nhằm triển khai
một hệ thống lá chắn tên lửa phối hợp Mỹ-Nga tại Armavir bên bờ biển Đen
của Nga có thể được hâm nóng trở lại trong bối cảnh mới, dưới hệ thống
của Trung tâm tại Sebastopol. Một lựa chọn khác có thể là việc triển
khai các hệ thống phòng thủ chống tên lửa tại các căn cứ hải quân ở
Sebastopol dưới sự chỉ huy chung của Nga, NATO và hợp tác với Ucraina.
về điểm này, điều quan trọng là NATO và Nga cần phải xác định có cần
phân tích kỹ các chương trình quân sự của mình liên quan đến hệ thống
phòng thủ tên lửa và các khả năng phòng thủ khác xem chúng có hài hòa
với tiến trình và thành công trong các cuộc đàm phán quốc tế với Iran để
không gây ra một cuộc xung đột trong phạm vi khu vực.
Trung tâm hợp tác an ninh tại Kaliningrad
Trung tâm tại Kaliningrad sẽ tìm cách tăng cường
quan hệ giữa Nga, Đức và các nước khu vực Biển Bantích và Biển Đen. Cùng
với cam kết Nga-NATO bảo vệ các tuyến đường ống quá cảnh năng lượng và
các cơ sở hạ tầng, trung tâm này cũng có trách nhiệm đưa ra các giải
pháp tạo sự tin tưởng và an ninh giữa các thành viên NATO và ODKB, giúp
đỡ cả về mặt chính trị nếu có thể việc lãnh thổ Kaliningrad và Nga xích
lại gần EU. Trung tâm này cùng lục cũng sẽ có thể điều hành các hệ thống
lá chắn tên lửa của Nga-NATO nếu được đánh giá là thích hợp cho khu
vực. Điều quan trọng nhất là cùng với OSCE, trung tâm có thể giám sát
việc cắt giảm/tiêu hủy các vũ khí hạt nhân quy ước và chiến thuật một
khi các thỏa thuận được ký kết. Trung tâm cũng sẽ cam kết nỗ lực duy trì
hòa bình tại các khu vực. NATO, Nga và ODKB có trách nhiệm kiểm soát để
xây dựng niềm tin và an ninh. Vì vậy, các lực lượng phối hợp duy trì
hòa bình của nhiều quốc gia khác nhau có thể được triển khai dưới sự chỉ
huy của Hội đồng Nga- NATO trong giải quyết các cuộc xung đột hiện hữu
tại Biển Đen/Cápcadơ cũng như tại các nước Bantích hay Đông Âu, trong
các khu vực cua NATO hay ODKB.
Trung tâm hòa giải xung đột/duy trì hỏa bình tại Cộng hòa Síp
Trung tâm phối hợp tại Síp sẽ nhiều khả năng được
thành lập theo nghị quyết của LHQ, dược đặt tại các khu vực người Síp
gốc Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ; sẽ cố gắng làm trọng tài phân xử giữa những
người Síp, giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp; sẽ giúp giám sát an ninh tại khu
vực châu Âu-Địa Trung Hải cũng như khu vực Trung Đông mở rộng (liên quan
đến an ninh khu vực Bắc Phi và vùng Vịnh). Theo thuật ngữ chính trị,
trung tâm này sẽ cố gắng xích lại gần Thổ Nhĩ Kỳ – nước thành viên NATO
của EU để cải thiện quan hệ quốc phòng và an ninh giữa NATO/EU/Thổ Nhĩ
Kỳ/Nga. Một trung tâm như vậy sẽ có thể giúp nối lại các cuộc đàm phán
hòa bình giữa Ixraen với Palextin cũng như giữa Ixraen với Xyri liên
quan đến cao nguyên Gôlan hay giữa Ixraen với Libăng. Trung tâm trên sẽ
cố gắng làm giảm căng thẳng đang gia tăng về vấn đề năng lượng giữa Hy
Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Cuộc khủng hoảng nợ tại Hy Lạp và châu Âu đã dẫn đến
căng thẳng giữa Hy Lạp, Cộng hòa Síp và Thổ Nhĩ Kỳ hay Ixraen liên quan
đến việc tham gia khai thác năng lượng của tập đoàn Mỹ Noble Energy tại
vùng lãnh hải gần Síp và Ixraen. Hoạt động khai thác năng lượng này đã
làm gia tăng căng thẳng giữa Thổ Nhĩ Kỳ, EU và Mỹ với Nga – nước ủng hộ
Cộng hòa Síp. Trong khi LHQ cam kết thảo luận về tranh chấp này vào cuối
tháng 10/2011, vụ việc cũng được EC thảo luận ngày 9/12/2011. Trung tâm
phối hợp tại Síp sẽ giúp giải quyết các tranh chấp và mang lại an ninh
cho các bên.
Việc thiết lập ít nhất 3 trung tâm trên sẽ có thể
giúp thể hiện một chính sách tương tác giải quyết tranh chấp và giảm
thiểu xung đột trong không gian châu Âu-Đại Tây Dương. Các giải pháp này
sẽ phải được đưa ra để Mỹ, Nga và châu Âu có thể tập trung hơn vào việc
củng cố quốc phòng chống lại các mối đe dọa và thách thức hiện hữu đến
từ bên ngoài khung cảnh châu Âu-Đại Tây Dương. Cách tiếp cận này sẽ là
tiền đề để NATO và Nga cam kết hợp tác trong vấn đề phòng không cũng như
đề xuất các giải pháp cụ thể hơn trên thực địa để khẳng định quan hệ
hợp tác NATO-châu Âu-Nga. Đề xuất triển khai các lực lượng Đối tác vì
Hòa bình (PFP) gồm các quốc gia khác nhau có thể được các Nhà nước liên
quan chấp thuận theo mô hình Hội đồng Nga-NATO trong giải quyết các cuộc
xung đột khu vực. Tuy nhiên, đề xuất trên vẫn sẽ có thể gây nhiều tranh
cãi đối với những nước từng sống dưới thời Xô Viết hay những nước phản
đối một sự hiện diện quân sự của Mỹ-NATO. Cuộc chiến giữa Nga và Grudia
tháng 8/2008 đã gây ra lo ngại từ những nước láng giềng của Nga. Nhưng ý
tưởng xây dựng niềm tin và an ninh bằng cách Nga và NATO xích lại gần
nhau trong mối quan hệ hợp tác rộng hơn diễn ra thông qua một quá trình
từng bước. Trong kỷ nguyên hậu Xô Viết, NATO và Nga có nhiều lợi ích và
giá trị chung hơn là những khác biệt. Ngõ cụt hiện nay liên quan đến
“các cuộc xung đột bị đóng băng” đối với Grudia và Mônđôva, chỉ có thể
được giải quyết bằng con đường ngoại giao thống nhất và một cách tiếp
cận đàm phán giải quyết các tranh chấp tại Nam Ôxêtia, Ápkhadia và
Transnistria (Pridnestrovie). Một thỏa thuận chính trị tại các khu vực
này sẽ có thể đi kèm với việc triển khai các nhóm binh sỹ đa quốc gia
thuộc PFP nếu được các nước ủng hộ. Giải quyết các cuộc xung đột trên
bằng biện pháp chính trị sẽ giúp kích thích tiềm năng kinh tế rất lớn
của khu vực Biển Đen/Cápcadơ, Do các cuộc xung đột trên và vấn đề liên
quan đến hiệp ước CFE, các Nhà nước thành viên NATO, Nga và ODKB đều có
lợi ích chung trong việc giúp đỡ giải quyết chúng để loại bỏ những lãng
phí liên quan đến các nguồn lực và phương tiện dành cho các loại vũ khí
quy ước và cho chi phí quốc phòng trong khung cảnh châu Âu-Đại Tây
Dương. Những cắt giảm đáng kể nhằm chuẩn bị cho các lực lượng quy ước
cũng như việc loại bỏ hoàn toàn các loại vũ khí hạt nhân chiến thuật tại
chậu Âu sẽ giúp không chỉ giảm căng thẳng chính trị-quân sự mà còn giúp
phục hồi kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế giới hiện
nay. Cùng lúc, việc cắt giảm cũng sẽ cho phép NATO, Nga và các đối tác
khác của NATO tập trung vào các mối đe dọa thực sự và những thách thức
tiềm tàng bên ngoài không gian châu Âu-Đại Tây Dương. Hiện tại là thời
điểm thuận lợi cho đàm phán với Mátxcơva về hệ thống lá chắn tên lửa và
các lực lượng quy ước để làm sống lại Hiệp ước CFE và cố gắng tìm cách
thiết lập một khung cảnh an ninh phối hợp NATO/châu Âu/Nga cho Đông Âu
và khu vực Biển Đen. Điều này gần như là không thể diễn ra trước năm
2012 bởi cả hai nước Mỹ và Nga đều bước vào các giai đoạn bầu cử tổng
thống. Tuy nhiên, chắc chắn là các nhà lãnh đạo Nga và Mỹ sau bầu cử sẽ
cần “tái khởi động” “sáng kiến” của Tổng thống Obama.
Khái niệm chiến lược mới của NATO năm 2010 đã
chuẩn bị cơ sở cho một thỏa thuận, nếu không nói là một liên minh
NATO-châu Âu-Nga. Nếu khái niệm trên đã quản lý và duy trì một bước hợp
tác tăng dần giữa NATO và Nga thì cũng sẽ có thể tiến tới thiết lập một
liên minh châu Âu- Đại Tây Dương mới, một mặt xử lý các mối đe dọa về
quốc phòng và an ninh hiệu quả hơn và mặt khác là những thách thức chính
trị-kinh tế đầy hoài nghi của thế kỷ 21.
Cần luồng sinh khí
Sự xích lại gần nhau giữa NATO và Nga quả thực
đáp ứng một nhu cầu chiến lược thực sự đối với cả hai bên, nhưng không
phải vì thế mà bỏ qua một nền tảng lịch sử, tâm lý và triết học, đòi hỏi
phải có một nhãn quan tổng thể nhưng khó thích hợp với việc giải quyết
vấn đề theo từng trường hợp. Không nên để mấu chốt trong mối quan hệ
NATO-Nga chỉ còn là một loạt các “vấn đề lớn” nhất thiết phải gắn với
một thời điểm lịch sử. Cái được mất đó đúng hơn là cùng nhau hướng tới
một khái niệm thống nhất về mối quan hệ giữa các dân tộc, với hy vọng
học thuyết “win-win” (các bên cùng thắng) sẽ thắng học thuyết người chơi
cờ (có bên được có bên thua).
Trên đây là ý kiến của ông Michel Yakovleff, đại
diện Bộ chỉ huy tối cao lực lượng đồng minh ở châu Âu (SACEUR) bên cạnh
Ủy ban quân sự NATO. Ông phân tích trên tạp chí “Địa chính trị” quan
điểm của cả hai bên liên quan đến các vấn đề chiến lược lớn, đặc biệt là
vũ khí hạt nhân và phòng thủ tên lửa, cũng như những cái được và những
cái chưa được trong hợp tác Nga-NATO. Bài này thể hiện quan điểm riêng
của tác giả chứ hoàn toàn không phản ánh quan điểm chính thức của NATO
cũng như của SACEUR.
Mối quan hệ Nga-NATO chắc chắn là yếu tố chính
quyết định đối thoại chiến lược về châu Âu do sức nặng của các tác nhân
cũng như tính chất nghiêm trọng của cái được mất. Đối với Nga, phải làm
sao củng cố được vị thế của mình, toàn bộ vị thế đó, trong cộng đồng các
dân tộc. Đối với NATO, vấn đề là phải tìm được luồng sinh khí thứ ba
(sau Chiến tranh Lạnh và kiểm soát thời kỳ hậu-Xôviết) để bảo đảm tồn
tại lâu dài.
Sau một thời kỳ khó khăn trong những năm
2008-2010, đối thoại ngày nay có thêm bước phát triển mới và được hoan
nghênh. Tuy nhiên, một số vấn đề vẫn rất tế nhị, thậm chí dễ dẫn đến
xung đột. Đặc biệt, chính triết lý của mối quan hệ đó phải được xem xét
với một tinh thần mới.
Về phương diện chính thức, NATO và Nga có mối
quan hệ rất tốt. Hợp tác được khởi động lại, Hội đồng NATO-Nga đóng vai
trò diễn đàn tham khảo ý kiến, nơi các vấn đề cơ bản được xử lý, nhờ đó
nhiều bất đồng hay vấn đề truyền thống gây bực bội được giải tỏa.
Trong chính sách công khai rất tích cực của mình,
NATO đưa ra toàn bộ thuật ngữ được chờ đợi, dù đó là tuyên bố được đưa
ra tại hội nghị thượng đỉnh Lixbon (tháng 11/2010) hay Khái niệm chiến
lược mới được thông qua tại đây, trong đó Nga luôn được mô tả như một
đối tác hết sức quan trọng và đáng được tôn trọng và mục tiêu được nêu
lên là không ngừng cải thiện mối quan hệ với nước này.
Hợp tác cụ thể giữa hai bên bao gồm 6 lĩnh vực:
đấu tranh chống khủng bố, cứu nạn trên biển, chống cướp biển, trao đổi
giữa các Viện hàn lâm quân sự, hợp tác hậu cần và phòng thủ tên lửa đạn
đạo chiến trường. Khoảng 160 hoạt động đã được tiến hành trong năm 2010,
từ trao đổi chuyên gia đến tham gia tập trận hay thực tập. Một bộ thuật
ngữ thống nhất cho đối thoại Nga-NATO được thông qua. Đây là yếu tố
quan trọng đối với tiến trình tác động đến các khái niệm khác nhau và
phức tạp (răn đe, phong thủ tên lửa, khả năng sử dụng thay nhau… ).
Về vấn đề Ápganixtan, Nga chính thức không tỏ ra
vui mừng trước khó khăn của liên quân do NATO đứng đầu. Matxcơva công
khai chúc NATO thành công trong việc giữ ổn định vùng này, từ đó tránh
nguy cơ lây lan sang các nước cộng hòa Xôviêt trước đây ở Trung Á và làm
cạn kiệt nguồn cung ứng ma túy tràn ngập thị trường Nga. Cũng như vậy,
trên một mặt trận khác, sau khi Hội đồng Bảo an LHQ ngày 17/3/2011 bỏ
phiếu nghị quyết 1973, thái độ của Nga trước hành động của NATO ở Libi
đúng hơn vẫn mang tính hòa giải. Tổng thống Nga lúc đó, Dmitry Medvedev,
thậm chí còn sửa một tuyên bố không thích hợp của Thủ tướng lúc đó
VLadimir Putin phê phán một cuộc “thập tự chinh” mới. Việc Nga phê chuẩn
Hiệp ước cắt giảm vũ khí tấn công chiến lược START III vào tháng 2/2011
cũng được xem như bằng chứng cho thấy tính nghiêm túc của Nga trong mối
quan hệ với Mỹ. Một “thứ kích động” trong mối quan hệ Nga- NATO đã
không còn khi NATO ngừng xem xét đề nghị gia nhập của Ucraina, nước tuy
vần gần gũi với NATO, nhưng cũng bằng lòng chấp nhận mối quan hệ láng
giềng thân thiện không viễn cảnh hội nhập sau này. Thậm chí khi bất đồng
vẫn còn, cả hai bên vẫn không tranh cãi về thời điểm tốt đẹp đó, chấp
nhận sống cùng bất đồng. Dĩ nhiên, đó là trường hợp liên quan đến Grudia
và Mônđôvia như sẽ nói ở phần sau.
Như vậy, có thể cho rằng trong thời gian gần đây,
mối quan hệ Nga- NATO được thúc đẩy thực sự. Tuy nhiên, Nga không hài
lòng với tình hình mới ở châu Âu mà vẫn luôn cảm thấy mình bị gạt ra
ngoài lề về phương diện chính trị và an ninh, mặc dù Tổng thư ký NATO,
Anders Fogh Rasmusen, liên tiếp mời Tổng thống Nga lúc đó là Dmitry
Medvedev tham dự hội nghị thượng đỉnh Lixbon, được tổ chức với sự có mặt
của tất cả các nguyên thủ và là hội nghị đầu tiên kiểu này của tổ chức
này kể từ sau cuộc chiến giữa Nga và Grudia năm 2008.
Nhưng các yêu sách liên tiếp của Nga vẫn không
được thỏa mãn. Còn nhiều vấn đề lùng bùng, từ cơ cấu an ninh mới ở châu
Âu đến hệ thống phòng thủ tên lửa ở châu lục hay thương lượng lại Hiệp
ước về các lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu (CFE). Về mặt này,
lập trường của Matxcơva là bắt đầu từ những nguyên tắc chung chính, để
từ đó các vấn đề kỹ thuật tự chúng được giải quyết. Lập trường đó vấp
phải cách tiếp cận tối thiểu cho đến nay tỏ ra ít có tác dụng, Sự khác
biệt về cách tiếp cận đó được minh chứng bằng các vấn đề được mô tả dưới
đây.
Với ý tưởng thiết lập một cơ cấu an ninh mới ở
châu Âu, tháng 12/2008 Tổng thống Medvedev đề xuất một hiệp ước an ninh
châu Âu, NATO hoan nghênh sáng kiến này và quyết định sáng kiến đó phải
được thảo luận trong Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu (OSCE), nghĩa là
trong khuôn khổ một cuộc đối thoại với 56 bên tham gia, vào giữa năm
2011, nhưng cho đến nay cuộc đối thoại đó vẫn chưa diễn ra. Như vậy, đối
với một đề nghị quan trọng, được mô tả như một sự cần thiết có tính
chất lịch sử – chấm dứt Chiến tranh Lạnh về phương diện pháp lý, Nga
không được đáp ứng cả về mục tiêu lẫn hình thái tranh luận và tiến
trình. Dĩ nhiên, điều đó khiến Matxcơva phần nào cảm thấy không thỏa
mãn.
Chủ đề thứ hai gây tranh cãi liên quan đến hệ
thống phòng thủ tên lửa đạn đạo và đối thoại Nga-NATO. Tuy đạt được thỏa
thuận và có hợp tác giữa các đối tác trong phòng thủ được gọi là “chiến
trường’’ (nghĩa là bảo vệ các đơn vị quân đội được triển khai), được
cho là để bảo vệ các lực lượng được tung vào một chiến dịch, ngoài lãnh
thổ của NATO song sự việc lại đổ vỡ khi tại hội nghị thượng đỉnh Lixbon
(tháng 11/2010) NATO quyết định trang bị năng lực bảo vệ châu Âu hay,
nói đúng hơn là không gian châu Âu thuộc NATO.
Đối với Mátxcơva, ý tưởng về một hệ thống phòng
thủ khác tùy theo một nước có phải là thành viên NATO hay không, phản
bác trực tiếp khái niệm “an ninh không thể chia nhỏ” của châu Âu một
khái niệm cũng là của NATO Đối với tổ chức quân sự này, mỗi bên đều có
quyền được bảo đảm an ninh, nhưng cũng có quyền lựa chọn cách thực hiện
cho riêng mình (chẳng hạn bằng cách trở thành thành viên tổ chức này),
đồng thời không được sử dụng tính chất không thể chia nhỏ an ninh và lấy
đó làm cái cớ hay lập luận để lấn át các lựa chọn mang tính chủ quyền
của các dân tộc (cụ thể như để phản đối quyền được gia nhập NATO của
họ). Như vậy đó là hai nhãn quan hoàn toàn đối nghịch nhau trong một
khái niệm nhưng xem ra có vẻ vô hại và hiển nhiên. Những triết lý khác
nhau đó dẫn đến những đề nghị mang tính kỹ thuật không thể ăn khớp với
nhau được: chẳng hạn Nga chủ trương một hệ thống hoàn toàn khép kín
trong đó phân tích mối đe dọa và quyết định bắn khai hỏa đưa vào một
trung tâm duy nhất. Đối với NATO, kết hợp như vậy hoàn toàn không thể
chấp nhận được. Việc tổ chức này hợp tác với một hệ thống gần giống như
vậy – cũng là của Nga – có thể được tính tới và thậm chí có thể được
chấp nhận, nhưng mối quan hệ được giới hạn ở mức phối hợp. Tuy nhiên,
chừng nào các yếu tố cấu thành hệ thống lá chắn chống tên lửa chưa được
triển khai và đi vào hoạt động và thậm chí cho dù đạt được đến mức độ đó
cũng cần phải có thời gian bên có thể sống cùng mâu thuẫn ảo đó. Tóm
lại, Nga có thể tỏ ra mềm đối với các giai đoạn ban đầu trong tiến trình
triển khai (quả thực là cơ cấu của hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo
được cho là có thể triển khai bốn giai đoạn, và dần dần bổ sung hệ thống
về không gian được bảo vệ về năng lực). Như vậy, phải sau này mới làm
sáng tỏ được tranh chấp. Tuy nhiên, tranh chấp đó sẽ không tự nó mất đi
và sẽ chỉ gia tăng chừng nào vẫn còn hiện hữu và được nói đến nhiều.
Chủ đề thứ ba trong cuộc đối thoại liên quan đến
việc ngừng thực hiện hiệp ước CFE, được ký tháng 11/1990 tại Pari và
không phê ở hiệp ước thay thế, được gọi là hiệp ước CFE “có điều chỉnh”,
được 30 nước tham gia thông qua tại hội nghị thượng đỉnh Ixtanbun vào
tháng 11/1999 Việc hiệp ước không đáp ứng được đòi hỏi của tình hình là
điều rõ ràng đó mới nảy sinh ý muốn “điều chỉnh” cho phù hợp. Một số
điều khoản chốt trong hiệp định mới gây ra một vấn đề thực sự đối với
Nga. Vấn đề này, mang tính rất kỹ thuật về bản chất nhưng có tác động
chính trị rộng, cho thấy có sự khác biệt về cách tiếp cận giữa các đối
tác: NATO vốn dựa vào Mỹ trong vấn đề này, chủ trương xử lý vấn đề theo
từng mảng trong khi Mátxcơva muốn có thỏa thuận về nguyên tắc trên cơ sở
cơ cấu an ninh châu Âu mới. Vào giữa năm 2011, có thể thấy rằng không
cách tiếp cận nào trong hai cách tiếp cận đó thắng thế và đó cũng là một
lý do khiến Nga bực bội.
Đúng là với điều kiện phải có thiện chí và lòng
tin thì mỗi chủ đề trong số các chủ đề quan trọng mới có thể được xử lý
riêng rẽ. Tuy nhiên vẫn còn có tình trạng không hiểu nhau, ít nhiều thể
hiện một cách công khai, mà một ngày nào đó cần phải tính tới.
Lối nói kiểu hữu nghị và tin tưởng có những hạn
chế vì đối thoại nằm trong khuôn khổ lôgích hành động-phản ứng, mà không
có triển vọng dài hạn.
Cần phải thừa nhận rằng Nga góp phần làm gia tăng
mối lo ngại. Cuộc chiến tranh Grudia (thảng 8/2008) cho thấy Mátxcơva
không ngần ngại sử dụng vũ lực để giải quyết bất đồng về biên giới. Đáp
lại, NATO ngừng trong một năm hoạt động của Hội đồng Nga-NATO khiến Nga
hết sức tức giận vì không có diễn đàn để trao đổi vấn đề hợp tác cũng
như tranh chấp. Năm tiếp theo, Nga và Bêlarút tổ chức ngay cạnh Lítva và
Ba Lan một loạt các cuộc tập trận quy mô lớn, như Zapad-Ladoga-2009,
với kịch bản mập mờ về một cuộc nổi dậy của một thiểu số người có ý đồ
ly khai. Trong cùng lôgích đó, có thể nói đến vụ Artie Sea, một chiếc
tàu chở hàng mang cờ Manta, được một công ty Phần Lan thuê và do một
thủy thủ đoàn Nga điều khiển, bị bắt cóc vào mùa Hè năm 2009, rồi được
lực lượng cảnh sát Nga tìm thấy một cách bí hiểm. Vụ này cho đến nay vẫn
chưa được làm sáng tỏ và chứa đựng một số điểm không rõ ràng, cụ thể
như vai trò của Nga.
Người ta biết rằng một số đồng minh luôn nhắc lại
rằng họ cần được “bảo đảm”. Nhưng bảo đảm về cái gì và chống lại ai,
nếu không phải là chống lại Nga? Trong những tuyên bố về chính sách đối
ngoại, cho dù thuật ngữ “mối đe dọa” vẫn bị loại bỏ, song vẫn có lối nói
nước đôi và đòi hỏi không giấu giếm về kế hoạch phòng thủ (vào mục đích
được gọi là tái bảo đảm). Nga tỏ ra phật ý về điều đó và đòi NATO phải
từ bỏ kế hoạch này. Nhưng việc Nga không nói điều kiện đối ứng là gì cho
thấy đây là điều nghịch lý hay là quên có chủ ý.
Với mục đích nhắm đến dư luận trong nước, Nga
cũng bày tỏ một nhãn quan không rõ ràng đối với NATO. Lối nói nước đôi
trong học thuyết quân sự được thông qua ngày 5/2/2010 cho thấy rõ điều
đó: mở rộng NATO (tổ chức được mệnh danh là “khối”, như trước đây), xây
dựng “hạ tầng quân sự” (thuật ngữ hết sức chung chung) tại các nước cộng
hòa thuộc Liên Xô trước đây, tiến hành tập trận được cho là “có tính
chất đe dọa”, ý đồ về lãnh thổ (không được nói rõ) về Liên bang Nga và
đồng minh, cũng như can dự vào công việc nội bộ, là những thuật ngữ được
sử dụng để trên thực tế mô tả một NATO được cho là thù địch.
Về điểm này, tấm lá chắn tên lửa được nói đến ở
trên bị phê phán rõ ràng như một yếu tố gây mất ổn định nghiêm trọng.
Matxcơva nghe với thái độ ngờ vực lập luận theo đó tấm lá chắn sẽ được
xác định rõ quy mô để chống lại mối đe dọa mà một số nước mới đây hay
sắp tới đưa ra (cho đến lúc này, dĩ nhiên nước gần giống cách mô tả này
nhất là Iran), và sẽ không hề được dùng để chống đỡ một cuộc tấn công
xuất phát từ một “hệ thống trung tâm lớn” (cần hiểu là Nga). Việc triển
khai hệ thống chiến lược này được xem như yếu tố gây mất ổn định sâu
rộng, từ đó hợp thức hóa một cuộc chạy đua vũ trang mới. Lối nói đó
khiến phương Tây không hiểu ở một mức độ nào đó vì không hề cảm thấy bị
đe dọa bởi lực lượng răn đe của Nga, chắc chắn không phải vì khả năng
của hệ thống đó mà vì ý định đó không tồn tại: chúng ta đang ở trong thế
giới nào mà vẫn còn tin vào khả năng đánh nhau bằng hạt nhân giữa Nga
và thế giới Phương Tây? Đối với NATO, mặc dù bầu không khí đang không
thuận, việc Nga định sử dụng tên lửa để đánh lại phương Tây là điều hoàn
toàn không thể có.
Nhưng không phải vì thế mà cường quốc Nga không
có cảm giác bị thua kém khi kho vũ khí chiến lược của họ có nguy cơ bị
lỗi thời. Dù đúng hay sai, điều đó cũng không quan trọng. Đó là một cách
nhìn nhận cần được tính tới, chắc chắn phải được tính tới nhiều hơn
hiện nay.
Trong bối cảnh tương đối hòa dịu đó, cần tận dụng
thời điểm thuận lợi hay tình hình trở lại bình thường được thúc đẩy bởi
hội nghị thượng đỉnh Lixbon cho phép tái khởi động đối thoại về mọi vấn
đề. Tuy nhiên, đối thoại là không thích hợp với một lối nói mang tính
tập hợp và một lối nói kiểu sức mạnh. Bản thân hình thái đối thoại cũng
quan trọng: Hội đồng Nga-NATO bao gồm 29 nước bình đẳng với nhau về luật
pháp mặc dù có sự khác biệt. Ý kiến được tương đối nhiều nước ủng hộ là
dường như ngành ngoại giao Nga thích song phương hơn đa phương, như họ
đã cho thấy tại nhiều cuộc họp khác nhau. Với Mỹ, Nga hiểu rõ tình thế
vì họ đã ở trong đó gần 7 thập kỷ. Cư xử bình đẳng với nhau, trong
trường hợp cần thiết có thể bỏ qua các thành viên khác của NATO, có lợi
thế là củng cố hình ảnh của Nga như họ tự tạo ra về mình. Hơn nữa, không
loại trừ khả năng đó là hình thái thích hợp nhất để giải quyết vấn đề
phòng thủ tên lửa ở châu Âu, một chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất và, về
phía NATO, mọi con bài về vấn đề này đều nằm trong tay Mỹ.
Nhưng cách biệt rõ rệt nhất liên quan đến quan
niệm ngoại giao. Đối với Nga, mối quan hệ quốc tế, như được truyền lại
cho các giới tinh hoa tương lai, vẫn được nhìn nhận như một ván cờ
tướng. Đó là một cuộc chơi với kết quả bằng không, từ đó bắt buộc dẫn
đến một nhãn quan đối đầu về mối quan hệ giữa các dân tộc, khi cái được
nhất thiết phải được bù đắp bằng cái mất. Trái lại, văn hóa ngoại giao
phương Tây dựa vào học thuyết “win-win” theo đỏ, tất cả đều được. Mối
quan hệ giữa các dân tộc theo nghĩa được hiểu như từ thời xa xưa, cũng
là một hình thức quan hệ, Ngoại giao dàn xếp, không giống như ngoại giao
xung đột, là nền tảng của khái niệm hiện hành trong NATO. Nhưng, hai
nền văn hóa ngoại giao này khó có thể ăn ý với nhau vì tuy có thể hiểu
nhau về từ ngữ, nhưng điều đó chưa cho thấy sự thống nhất về tư tưởng./.