TCCS - Cách đây vừa
tròn 20 năm, vào đêm ngày 9, rạng sáng ngày 10-11-1989, bức tường
Béc-lin sụp đổ, biểu tượng chấm dứt kỷ nguyên Chiến tranh lạnh với nội
dung chủ yếu là cuộc đối đầu giữa hai hệ thống chính trị quốc tế và mở
ra một kỷ nguyên mới. Nhưng kỷ nguyên mới này sẽ ra sao là chủ đề được
giới nghiên cứu chính trị quốc tế đặc biệt quan tâm. Những sự kiện "kinh
thiên động địa" trong hơn một thập niên qua chứng tỏ loài người đang
trải qua kỷ nguyên cạnh tranh và xung đột mới, tuy bề ngoài không quyết
liệt như kỷ nguyên đối đầu thời Chiến tranh lạnh, nhưng không vì thế mà
ít nguy cơ và bớt cam go hơn trước. Bài viết này đề cập đến một trong
hai cuộc cạnh tranh và xung đột(1) lớn nhất trong kỷ nguyên mới: đó là cạnh tranh và xung đột địa - chính trị.
Kết thúc Chiến tranh lạnh, mở đầu kỷ nguyên "hòa bình nóng"
Theo lối tư duy thông
thường, đã nói tới "chiến tranh", thì kết cục dĩ nhiên phải có bên
thắng, bên thua và vì thế Chiến tranh lạnh cũng không là ngoại lệ. Theo
lối tư duy này, Mỹ và phương Tây đã giành "chiến thắng"còn Liên Xô trước
đây là bên "chiến bại" trong cuộc chiến đó và nước Nga ngày nay "được"
kế thừa di sản đó. Đồng thời, Mỹ và phương Tây cho rằng "chiến thắng"
của họ trong Chiến tranh lạnh chứng tỏ "các giá trị" và "mô hình phát
triển" của Mỹ và phương Tây tỏ ra "có ưu thế tuyệt đối", từ đó họ bắt
đầu cuộc "thập tự chinh" nhằm phát triển "các giá trị" và "mô hình phát
triển" ấy ra khắp thế giới bằng tất cả các biện pháp, kể cả sử dụng sức
mạnh quân sự. Tình hình đó đã châm ngòi bùng phát hàng loạt cuộc chiến
tranh và xung đột mới sau Chiến tranh lạnh, hình thành nên kỷ nguyên
"hòa bình nóng".
Thắng lợi quá dễ dàng
trong hai cuộc chiến tranh Vùng Vịnh Péc-xích (1990 - 1991) và Cô-xô-vô
(1999) càng củng cố niềm tin của một số giới lãnh đạo chính trị - quân
sự ở Mỹ vào sức mạnh quân sự "không có đối thủ" của họ. Niềm tin đó được
phản ánh trong Học thuyết Clin-tơn đưa ra sau khi Liên Xô sụp đổ và
được dùng làm "cơ sở luận chứng" để Mỹ thiết lập trật tự thế giới đơn
cực sau Chiến tranh lạnh, trong đó có hai nội dung quan trọng liên quan
trực tiếp đến sự tồn vong của nước Nga sau khi Liên Xô sụp đổ. Một là,
không một quốc gia nào trên thế giới có quyền sử dụng sức mạnh trong các
cuộc xung đột nội bộ hoặc các cuộc xung đột khu vực nếu không được sự
chấp nhận của Mỹ. Hai là, nếu quốc gia nào không được phép của
Oa-sinh-tơn mà vẫn "ngoan cố" sử dụng sức mạnh quân sự để dàn xếp các
cuộc xung đột nội bộ hoặc khu vực thì Mỹ có quyền can thiệp để ngăn chặn
hoặc dập tắt "thảm họa nhân đạo". Từ đó, Mỹ chủ trương "can thiệp nhân
đạo" dựa trên quan niệm "nhân quyền cao hơn chủ quyền". Điều này có
nghĩa là, Mỹ có khả năng và có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của
nước khác trong trường hợp các nước đó sử dụng sức mạnh quân sự đe dọa
đến lợi ích của Mỹ. Sau Tổng thống B.Clin-tơn, Tổng thống G.W.Bu-sơ còn
đi xa hơn nữa với chủ trương sẵn sàng đơn phương sử dụng sức mạnh quân
sự khi thấy cần thiết mà không cần được phép của Liên hợp quốc. Để thực
hiện học thuyết này, Bộ trưởng Quốc phòng Đô-nan Răm-xphen đã "phát
minh" ra một công thức chiến tranh nổi tiếng mang tên "Công thức
10-30-30", theo đó, sau khi Oa-sinh-tơn đưa ra quyết định chính trị sử
dụng sức mạnh quân sự, các lực lượng vũ trang Mỹ trong vòng 10 ngày có
thể chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao và được điều động tới
bất kỳ khu vực nào trên thế giới. Trong vòng 30 ngày sau đó, các lực
lượng vũ trang Mỹ cần phải đánh bại đối phương, phá hủy tiềm lực của họ
đến mức không thể phục hồi khả năng chống trả lại Mỹ. Trong vòng 30 ngày
tiếp theo, quân đội Mỹ được tổ chức lại, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ
chiến lược mới và triển khai tới một khu vực khác trên thế giới. Theo
"Công thức 10-30-30", chỉ cần 2 tháng và 10 ngày để tiến hành một cuộc
chiến tranh, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ có khả năng tiến hành ít nhất 5 cuộc
chiến tranh trong 1 năm (!). Chính Bộ trưởng Quốc phòng Đ. Răm-xphen đã
gạt phăng ý kiến của các mưu sĩ trước khi khởi chiến ở Áp-ga-ni-xtan
rằng, Mỹ nên tăng thêm quân để giải quyết dứt điểm "câu chuyện
Ta-li-ban", bởi ngần ấy quân là đủ để hóa giải nguy cơ!
Cuộc chiến tranh
Áp-ga-ni-xtan và chiến tranh I-rắc với khẩu hiệu "xúc tiến dân chủ" bùng
phát đưa thế giới tới một kỷ nguyên mới không phải là hòa bình như
nhiều người mong đợi sau Chiến tranh lạnh, mà là kỷ nguyên đơn phương
dùng sức mạnh quân sự để áp đặt "các giá trị" và "mô hình phát triển"
trên khắp thế giới. Thực chất, đằng sau khẩu hiệu đó là những động thái
cảnh báo về kỷ nguyên cạnh tranh và xung đột mới về địa - chính trị và
mô hình phát triển, nhìn bề ngoài không quyết liệt như kỷ nguyên đối đầu
thời Chiến tranh lạnh, nhưng tiềm ẩn nhiều nguy cơ hơn có thể dẫn đến
chiến tranh. Cuộc chiến tranh năm ngày ở Nam Ô-xê-ti-a (tháng 8-2008) đã
bộc lộ tất cả những gì lâu nay ẩn giấu dưới những khẩu hiệu "đối tác",
"định ước", "cùng hợp tác trong cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố",
"chiến tranh lạnh đã chấm dứt", "NATO và Nga không còn là kẻ thù của
nhau" v.v.. Cuộc chiến năm ngày còn chứng tỏ, đối với Mỹ và NATO, Chiến
tranh lạnh chưa bao giờ kết thúc mà chỉ thay hình đổi dạng sang hình
thức khác khó nhận biết hơn trong một thế giới không còn đối đầu ý thức
hệ giữa hai hệ thống chính trị quốc tế.
Kỷ nguyên cạnh tranh và xung đột về địa - chính trị
Trên bản đồ thế giới, có
thể dễ dàng nhận thấy các khu vực, nơi đang diễn ra cạnh tranh và xung
đột địa - chính trị giữa các nước lớn, ngày một nhiều thêm và không
ngừng mở rộng về phạm vi và gia tăng mức độ căng thẳng. Đó là các khu
vực Trung Đông (tâm điểm là I-rắc và I-ran), Trung Á (tâm điểm là
Áp-ga-ni-xtan và các nước cộng hòa Xô-viết trước đây), Ban-căng (tâm
điểm là Cô-xô-vô), biển Ca-xpi (tâm điểm là Gru-di-a), Bắc Cực, châu
Phi, Đông Bắc Á, Đông Nam Á v.v.. Trong đó, "nóng" nhất vẫn là các khu
vực Trung Đông, Ban-căng, Trung Á, biển Ca-xpi, châu Phi và Bắc Cực.
Cạnh tranh và xung đột địa - chính trị thể hiện trong hai cuộc chiến tranh ở Vùng Vịnh.
Chiến tranh Vùng Vịnh (1991) và chiến tranh I-rắc (2003) thực chất là
hai cuộc chiến tranh xuất phát từ những toan tính về địa - chính trị.
Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, mượn cớ chống Liên Xô - đối thủ mạnh
nhất có ảnh hưởng toàn cầu, Oa-sinh-tơn đã tập hợp được các lực lượng ở
phương Tây và Nhật Bản dưới ô bảo trợ của Mỹ, hình thành một cực làm đối
trọng với Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sau khi Liên Xô sụp đổ,
xuất hiện các mầm mống ly khai khỏi quỹ đạo của Mỹ ngay trong các đồng
minh của Mỹ ở châu Âu và Nhật Bản. Trước tình hình đó, Mỹ cần tạo dựng
đối thủ mới, dùng ô sức mạnh quân sự để tập hợp lực lượng xung quanh
mình và Oa-sinh-tơn đã chọn I-rắc làm đối tượng. Bằng cuộc chiến tranh
Vùng Vịnh, Mỹ đã tập hợp được một liên minh rộng rãi để thể hiện vai trò
siêu cường duy nhất trong trật tự thế giới đơn cực sau Chiến tranh
lạnh. Năm 2003, mượn cớ "chống khủng bố", "ngăn chặn vũ khí sát thương
hàng loạt" và "đem dân chủ đến cho I-rắc", Oa-sinh-tơn phát động cuộc
chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ hai để hiện diện và phát huy ảnh hưởng tại
một khu vực có vị trí địa - chính trị quan trọng sống còn ở Trung Đông
trong chiến lược toàn cầu của Mỹ thế kỷ XXI. Phát huy ảnh hưởng ở Vùng
Vịnh, Mỹ có thể dùng dầu mỏ làm công cụ để duy trì quyền kiểm soát đối
với các nền kinh tế cạnh tranh với Mỹ như Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Âu,
Nga và các nước khác. Như vậy, xét về bản chất sâu xa, cả hai cuộc chiến
tranh Vùng Vịnh là sự cạnh tranh và xung đột địa - chính trị giữa Mỹ
với các quốc gia đã từng là đối thủ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh và
với cả các đồng minh của Mỹ.
Cạnh tranh và xung đột địa - chính trị ở Ban-căng.
Cộng hòa Xéc-bi-a nằm trong vành đai "động đất địa - chính trị" những
năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, kéo dài từ Ban-căng, qua vùng
Cáp-ca-dơ thuộc Nga, đến Trung Á, Pa-ki-xtan, Ấn Độ và Trung Quốc. Mỹ từ
lâu đã có tham vọng thiết lập "hành lang an toàn" trong vành đai này.
Xéc-bi-a là điểm khởi đầu vành đai quan trọng đó. Ngoài ra, sau khi Liên
Xô sụp đổ, khối quân sự Vác-sa-va tan rã, NATO - công cụ chiến lược
toàn cầu của Mỹ - không còn lý do để tồn tại, nên Mỹ đã chọn Xéc-bi-a để
tập hợp lực lượng, lôi kéo các nước trong khối NATO gây chiến tranh, để
ngay sau đó tuyên bố Định hướng chiến lược mới của Khối liên minh Bắc
Đại Tây Dương trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập khối này ở Oa-sinh-tơn
vào tháng 5-1999. Phát động chiến tranh Cô-xô-vô, tạo lập ảnh hưởng ở
Xéc-bi-a, Mỹ tạo dựng bàn đạp để tiến sang Bắc Cáp-ca-dơ và Trung Á, nơi
có nguồn dầu mỏ lớn thứ hai thế giới ở vùng biển Ca-xpi. Chính vì thế,
Mỹ đã tìm mọi cách gạt bỏ ảnh hưởng của Nga ra khỏi cuộc chiến tranh ở
Cô-xô-vô cũng như trong quá trình dàn xếp tình hình chính trị ở Xéc-bi-a
sau khi chiến tranh kết thúc.
Cạnh tranh và xung đột địa - chính trị ở Áp-ga-ni-xtan.
Năm 2001, phát động "cuộc chiến tranh toàn cầu chống khủng bố" khởi đầu
ở Áp-ga-ni-xtan và xây dựng một chính phủ thân Mỹ tại đây, Oa-sinh-tơn
theo đuổi tham vọng đánh chiếm bàn đạp để chi phối vùng Trung Á, một khu
vực địa - chính trị có ý nghĩa chiến lược quan trọng, nơi có nguồn dầu
mỏ lớn của thế giới và được coi là "bàn cờ lớn" trong thế kỷ XXI. Ngoài
ra, đứng chân ở Áp-ga-ni-xtan để chi phối Trung Á, "lót chỗ" trong "sân
sau" của Trung Quốc, Mỹ còn theo đuổi tham vọng làm chủ Ấn Độ Dương,
khống chế I-ran, mở đường tiến tới biên giới Nga, gạt bỏ ảnh hưởng của
hai cường quốc hạt nhân là Pa-ki-xtan và Ấn Độ ở khu vực này.
Cạnh tranh và xung đột địa - chính trị ở I-ran. Trong
quan hệ với Tê-hê-ran, đang diễn ra cuộc cạnh tranh địa - chính trị
giữa các nước lớn gồm Nga, Trung Quốc, Ấn Độ và các nước khác. Đối với
Mỹ, ngăn chặn nguy cơ hạt nhân của I-ran nằm trong chiến lược dài hạn
của họ nhằm ba mục đích chủ yếu. Một là, khống chế nguồn dầu mỏ và khí
đốt khổng lồ của I-ran. Hai là, thông qua I-ran để kiểm soát tuyến đường
biển quan trọng ở Tây Á đi qua eo biển Héc-mút, "huyết mạch" của hoạt
động vận chuyển dầu mỏ của thế giới. Ba là, "dân chủ hóa" I-ran theo mô
hình của phương Tây vừa nhằm loại bỏ mối đe dọa hạt nhân, vừa làm suy
yếu thế giới Hồi giáo để thực hiện chiến lược "dân chủ hóa" ở toàn bộ
khu vực "Trung Đông mở rộng". Đối với Mỹ, mối đe dọa từ phía Tê-hê-ran
không chỉ là chương trình hạt nhân mà là quốc gia I-ran Hồi giáo mạnh
"đe dọa" ảnh hưởng và vai trò của Mỹ ở "Trung Đông mở rộng". Vì thế,
ngay khi vấn đề hạt nhân I-ran được giải quyết, vẫn chưa thể hóa giải
được những mâu thuẫn sâu xa giữa Mỹ và I-ran. Đối với Nga, I-ran được
Mát-xcơ-va coi là quốc gia then chốt để phát triển ảnh hưởng ở Trung
Đông và hạn chế ảnh hưởng của các nước khác ở khu vực này. Nga có quan
hệ hợp tác kinh tế và kỹ thuật quân sự đặc biệt với I-ran. Hai bên đã ký
kết nhiều hiệp định quan trọng, góp phần gia tăng đáng kể tiềm lực quân
sự của I-ran, trong đó Nga đã cung cấp cho I-ran các loại vũ khí hiện
đại. I-ran đã soạn thảo chương trình hiện đại hóa quân đội trong vòng 25
năm chủ yếu dựa vào vũ khí của Nga. Đã từ lâu, Nga tìm cách dàn xếp
cuộc tranh chấp hạt nhân với những đề nghị thỏa hiệp như đề nghị nhận
lại những thanh nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng về Nga và cùng với
I-ran làm giàu urani trên đất Nga. Công trình xây dựng nhà máy điện
nguyên tử trị giá gần 1 tỉ USD ở Bu-se-ra (Busherh) của I-ran là dự án
nước ngoài đầu tiên sau khi Liên Xô sụp đổ đã góp phần giúp cho ngành
hạt nhân của Nga sống sót. Đối với Trung Quốc, họ đang nỗ lực thắt chặt
quan hệ với I-ran để phát huy ảnh hưởng chính trị tại khu vực có ý nghĩa
chiến lược này. I-ran là nguồn cung cấp dầu mỏ và khí đốt chủ chốt phục
vụ mục tiêu phát triển và hiện đại hóa nền kinh tế Trung Quốc vốn đang
phụ thuộc nặng nề vào nguồn dầu mỏ nhập khẩu. Ngoài lĩnh vực năng lượng,
hiện có hơn 100 công ty của Trung Quốc đang làm ăn tại I-ran trong các
lĩnh vực đóng tàu, sản xuất thép, xây dựng cảng biển và sân bay. Trung
Quốc là nước có thể giúp I-ran hiện đại hóa ngành công nghiệp dầu mỏ và
phát triển nền kinh tế với kỹ thuật công nghiệp, vốn, dịch vụ kỹ thuật
và công nghệ hạt nhân. Trung Quốc coi I-ran là đối tác địa - chính trị
để hạn chế ảnh hưởng của Mỹ tại Trung Đông. Cùng với Nga, Trung Quốc
phát triển Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) nhằm hạn chế sự hiện diện
của Mỹ tại khu vực Trung Á. I-ran đã được mời tham gia SCO với tư cách
quan sát viên.
Cạnh tranh và xung đột địa - chính trị ở khu vực Nam Cáp-ca-dơ.
Trong cuộc cạnh tranh và xung đột địa - chính trị hiện nay giữa Mỹ,
NATO và Nga ở Nam Cáp-ca-dơ, Gru-di-a được đánh giá là có vai trò then
chốt. Không phải ngẫu nhiên cuộc chiến tranh năm ngày lại bùng phát ở
Nam Ô-xê-ti-a, vùng đất tranh giành ảnh hưởng lâu nay giữa Nga với
Gru-di-a, mà thực chất là giữa Nga với Mỹ và NATO. Cuộc chiến tranh này
là dấu mốc quan trọng trong chiến lược của Mỹ và NATO nhằm kiềm chế và
thu hẹp "không gian ảnh hưởng" của Nga. Gru-di-a, cùng với U-crai-na là
hai trong số những "điểm nóng" trên ván cờ địa - chính trị trong thế kỷ
XXI giữa Nga với Mỹ và NATO. Nếu U-crai-na là khâu then chốt trong chiến
lược của Mỹ và NATO nhằm loại trừ ảnh hưởng của Nga ra khỏi châu Âu,
thì Gru-di-a đóng vai trò quyết định cuối cùng trong vấn đề ai sẽ giành
được quyền kiểm soát vùng biển Ca-xpi, khu vực có trữ lượng tài nguyên
chiến lược lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Đông.
Cạnh tranh và xung đột địa - chính trị ở châu Phi.
Nguyên nhân sâu xa khiến Mỹ và các quốc gia phát triển nhất thế giới
ngày càng đặc biệt quan tâm đến châu Phi là do sức hút tài nguyên thiên
nhiên của châu lục nghèo nhất thế giới này. Theo dự báo của Bộ Năng
lượng Mỹ, vào năm 2010, thị phần xuất khẩu dầu mỏ của châu Phi trên thế
giới có thể tăng đến mức 28% - 30%. Vì thế, trong thời gian gần đây,
châu Phi rơi vào tâm điểm cạnh tranh địa - chính trị giữa các nước Mỹ,
Anh, Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và một số quốc gia khác, trong đó, Mỹ
thể hiện rất rõ vai trò và ý định trong việc đứng ra "phân vai" cho các
quốc gia khác trong cuộc chinh phục và kiểm soát "lục địa Đen".
Bề ngoài, Mỹ tuyên bố
chính sách của họ nhằm góp phần "giảm căng thẳng xung đột chính trị -
quân sự" và giải quyết "các vấn đề mang tính nhân đạo" đang đặt ra trước
châu Phi, như "chống tham nhũng và bệnh tật" và "ngăn chặn sự bùng nổ
tệ phân biệt chủng tộc" v.v.. nhưng mục đích của họ là nhằm kiểm soát
nguồn tài nguyên dầu mỏ của châu lục này. Trong tương lai, 30% tổng số
dầu mỏ nhập khẩu của Mỹ là từ châu Phi. Hiện tại, Mỹ chiếm từ 67% đến
75% tổng khối lượng đầu tư ngày càng lớn của các nước vào hoạt động thăm
dò và khai thác dầu mỏ ở châu lục này. Nhận thức được các mối đe dọa
tiềm tàng ở châu Phi, từ năm 2002, Mỹ triển khai xây dựng một căn cứ hải
quân ở Xao Tô-mê và Prin-xi-pê. Năm 2008, Mỹ thành lập Bộ Tư lệnh châu
Phi nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác với các nước châu Phi. Năm 2009, tiếp
theo chuyến thăm của Tổng thống Ba-rắc Ô-ba-ma tới Ga-na, Ngoại trưởng
Hi-la-ry Clin-tơn đã có chuyến thăm châu Phi nhằm tiếp tục thực hiện
chiến lược gây ảnh hưởng ở châu lục này.
Trung Quốc bắt đầu quan
tâm tới châu Phi từ những năm 50 thế kỷ XX, chủ yếu xuất phát từ các mục
đích chính trị. Khi bắt đầu chính sách mở cửa, Trung Quốc đã từng đưa
ra khái niệm "mở rộng không gian sinh tồn" hoặc "cuộc tranh giành biên
giới mềm" trong bối cảnh xu thế toàn cầu hóa như một cơn lốc ào ạt thổi
tràn qua các châu lục. Với tinh thần đó, Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc
- châu Phi diễn ra hồi tháng 11-2006 ở Bắc Kinh (Trung Quốc) trở thành
một sự kiện quan trọng chứng tỏ Trung Quốc không chỉ đang "mở rộng không
gian sinh tồn" mà còn "mở rộng không gian phát triển" sang "lục địa
Đen". Đến năm 2010, Trung Quốc sẽ trở thành lực lượng kinh tế thương mại
chiếm ưu thế ở châu Phi và sẽ là đối tác thương mại chủ yếu của các nền
kinh tế lớn nhất ở khu vực này như Ai Cập, Xu-đăng, Ni-giê-ri-a và
Ăng-gô-la, sẽ đẩy lùi các đối tác truyền thống như Mỹ, Anh và Pháp ra
khỏi "lục địa Đen".
Nga tuy là quốc gia có
diện tích lãnh thổ lớn nhất thế giới, ẩn chứa trong đó gần như tất cả
các loại tài nguyên thiên nhiên trên trái đất, nhưng, gần đây Nga nhận
ra rằng, tài nguyên thiên nhiên trong nước không chỉ có hạn mà còn là
thứ "vũ khí" trong cuộc tranh giành ảnh hưởng địa - chính trị trên thế
giới. Nếu nước Nga muốn có một vị thế chính trị và kinh tế tương xứng
với tầm vóc ảnh hưởng của họ trên toàn cầu, thì không thể yên vị say sưa
với "câu chuyện cổ tích" xuất khẩu tài nguyên mà lãng quên chuyện "cạnh
tranh lành mạnh" với các nước trong việc khai thác tài nguyên ở các khu
vực khác trên thế giới. Vì thế, trong Chiến lược an ninh quốc gia mới
đến năm 2020 và trong chính sách đối ngoại, Nga bắt đầu chú ý đến chuyện
bảo vệ lợi ích quốc gia bên ngoài lãnh thổ của mình, trong đó có châu
Phi. Chuyến thăm châu Phi của Tổng thống Đ.Mét-vê-đép vừa qua được giới
phân tích ở Nga đánh giá là "tuy chậm nhưng tốt".
Ấn Độ hiện nhập khẩu 20%
dầu mỏ từ châu Phi, 70% từ Trung Đông. Thực hiện "đường lối ngoại giao
dầu mỏ", Ấn Độ đặc biệt tích cực hoạt động ở Đông Phi, nơi sự hiện diện
của Mỹ và Trung Quốc vẫn còn thưa vắng. Cách làm của Ấn Độ ở châu Phi là
khuyến khích quan hệ đối tác cân bằng với các nhà cung ứng châu Phi,
không để các nước ở châu lục này như là các đối tác chỉ có sức quyến rũ
từ tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, các công ty của Ấn Độ tăng cường vốn
đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế ở Đông Phi như Tan-da-ni-a,
Dăm-bi-a, Cốt Đi-voa, Mô-ri-xơ, Ni-giê-ri-a và Ma-đa-ga-xca. Ấn Độ không
chỉ là nước nhập khẩu nguyên liệu từ châu Phi, mà còn là nhà cung cấp
dịch vụ hàng đầu. Sự gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa với các nước Đông
Phi nói tiếng Anh đã tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác song
phương đó. Dự án hợp tác kỹ thuật năm 2004 liên kết Ấn Độ với 8 nước Tây
Phi là Ga-na, Buốc-ki-na Pha-xô, Sát, Cốt Đi-voa, Ghi-nê Xích đạo,
Ghi-nê Bít-xao, Ma-li và Xê-nê-gan. Trong khuôn khổ dự án này, Ấn Độ cam
kết ủng hộ các đối tác nửa tỉ USD dưới hình thức tín dụng, viện trợ và
chuyển giao công nghệ.
Cạnh tranh và xung đột địa - chính trị ở Bắc Cực.
Đây là một khu vực đặc biệt của trái đất, bao gồm các vùng phía bắc lục
địa Á - Âu, Bắc Mỹ và gần như toàn bộ khu vực Bắc Băng Dương với tổng
diện tích vào khoảng 27 triệu km2, gần gấp 3 lần diện tích
châu Âu. Theo kết quả nghiên cứu thăm dò của Cục Địa lý và Khí tượng của
Mỹ, Bắc Cực chứa tới 1/4 tiềm năng dầu mỏ và khí đốt của thế giới.
Ngoài ra, Bắc Cực còn có nguồn dự trữ cá lớn hàng đầu thế giới, có các
tuyến giao thông đường biển đóng vai trò cực kỳ quan trọng với khả năng
vận tải xuyên quốc gia.
Với tài nguyên và vị trí
địa - chiến lược quan trọng của Bắc Cực, khu vực chưa được khai phá này
của trái đất đang thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia trong bối cảnh
quá trình ấm lên toàn cầu diễn ra nhanh chóng trong những thập niên gần
đây đang thu hẹp dần lớp băng đã từng được coi là "vĩnh hằng" tại đây,
tạo điều kiện thuận lợi hơn để có thể khai thác Bắc Cực vào mục đích
thương mại. Hiện nay, Nga đang nỗ lực chứng minh chủ quyền của họ đối
với phần lãnh thổ mà trước đây Mát-xcơ-va đã từng tuyên bố chính thức là
thuộc quyền sở hữu của họ. Trong những năm 20 thế kỷ XX, Liên Xô, Na
Uy, Đan Mạch, Mỹ và Ca-na-đa đã từng coi một số vùng mặt nước và đảo
trong khu vực Bắc Cực là một phần lãnh thổ của họ. Nga đã từng tuyên bố
chủ quyền đối với một khu vực lớn nhất được tạo bởi Chu-khốt-ca, Bắc Cực
và bán đảo Côn-xki. Trên các bản đồ tự nhiên của Liên Xô, khu vực này
đã từng được coi là một phần lãnh thổ của Liên Xô.
Hiện tại, Nga là quốc gia
đầu tiên chủ động tham gia quá trình cạnh tranh địa - chính trị ở Bắc
Cực trước sự chống đối mạnh mẽ từ phía các quốc gia khác cũng đang rất
quan tâm đến khu vực này. Nhiều nước có tham vọng tranh giành Bắc Cực đã
bắt đầu hành động. Mỹ đã có ý định đầu tư 8,7 tỉ USD để sửa chữa và
hiện đại hóa các tàu phá băng ven bờ. Oa-sinh-tơn đang chuẩn bị phê
chuẩn Công ước biển của Liên hợp quốc để có được quyền phát ngôn trong
việc giải quyết các vấn đề về thềm lục địa. Ca-na-đa đang đầu tư những
khoản tiền lớn để chế tạo tàu tuần tra ở Bắc Cực và bắt đầu bàn đến việc
lắp vũ khí pháo binh lên các tàu phá băng hiện có. Tuy nhiên, các tàu
của Mỹ và Ca-na-đa chưa thể cạnh tranh được với hạm đội của Nga ở Biển
Bắc. Na Uy tuy chưa có hạm đội tàu phá băng, nhưng lại có nhiều kinh
nghiệm trong việc khai thác các mỏ dầu và khí đốt ở thềm lục địa ở Biển
Bắc. Họ cũng không có vị thế mạnh về địa - chính trị trên thế giới mà
chỉ hạn chế ở khả năng tranh giành lợi ích của họ ở khu vực này. Đan
Mạch cũng không dễ dàng gì trong việc tuyên bố chủ quyền của họ dựa trên
các luận chứng về kinh tế và sự hiện diện về quân sự. Rõ ràng, cuộc
cạnh tranh và xung đột địa - chính trị ở Bắc Cực sẽ ngày càng quyết
liệt. Thắng lợi cuối cùng sẽ được quyết định không chỉ bởi ý chí chính
trị mà còn bởi sự hiện diện về kinh tế - quân sự, bởi khả năng đầu tư và
công nghệ để có thể khai thác một cách đầy đủ tài nguyên tại khu vực
này. Nhiều chuyên gia phân tích chính trị quốc tế đã từng dự báo, Bắc
Cực có thể sẽ là chiến trường của một cuộc chiến tranh lớn trong thế kỷ
XXI.
Như vậy, Chiến tranh lạnh kết thúc chấm dứt
kỷ nguyên xung đột ý thức hệ nhưng lại mở đầu một kỷ nguyên cạnh tranh
và xung đột mới về địa - chính trị âm thầm nhưng quyết liệt. Nhiều
chuyên gia phân tích chính trị quốc tế đã nói đến khả năng thế giới
đương đại quay trở lại tình hình xung đột địa - chính trị từ cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, đã từng dẫn tới Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 -
1918). Tuy nhiên, trong kỷ nguyên cạnh tranh và xung đột địa - chính
trị trong thế kỷ XXI có thêm yếu tố hoàn toàn mới là quá trình toàn cầu
hóa đang gắn kết tất cả các quốc gia. Vì thế, kỷ nguyên cạnh tranh và
xung đột địa - chính trị ẩn chứa nhiều yếu tố bất định, khó lường./.
----------------------------------------------
(1) Đó là cạnh tranh và xung đột địa - chính trị; cạnh tranh và xung đột về mô hình phát triển (TG)