NGÔ XUÂN BÌNH*
LÊ THỊ HẰNG NGA**
*PGS.TS. Viện nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á
**ThS. Viện nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á
Ngày
6 tháng 7 năm 2007, sau cuộc hội đàm chính thức giữa Thủ tướng Việt Nam
Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh tại New Delhi, hai
bên đã nhất trí chính thức thiết lập quan hệ đối tác chiến lược nhằm đưa
quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Ấn
Độ lên một tầm cao mới. Đây là một sự
kiện có ý nghĩa trọng đại, đánh dấu bước đột phá mới trong quan hệ hai
nước, mở đường cho sự phát triển sâu rộng của quan hệ hợp tác song
phương trên tất cả các lĩnh vực hai bên cùng quan tâm. Điều này được tái
khẳng định trong Tuyên bố chung được ký giữa Việt Nam - Ấn Độ trong
chuyến thăm Ấn Độ của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang ngày 12
tháng 10 năm 2011.
Tuy
nhiên, mối quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ không phải là sự
kiện diễn ra trong một ngày. Đó là sự kết tinh của cả một quá trình
lịch sử lâu dài, từ những năm trước công nguyên khi các thương gia Ấn Độ
đầu tiên đã vượt đại dương và cập bến ở các quốc gia Đông Nam Á, trong
đó có Việt Nam. Từ sự khởi đầu khiêm tốn ấy, văn hóa Ấn Độ đã dần dần
lan tỏa và gây ảnh hưởng trên một vùng rộng lớn bao gồm cả miền Bắc,
miền Trung và miền Nam Việt Nam. Kết quả là, vào thiên niên kỷ thứ I sau
Công Nguyên,
trên mảnh đất Việt Nam đã hình thành những nền văn minh “Ấn Độ hóa” vào
loại sớm nhất và rực rỡ nhất Đông Nam Á như Óc Eo, Champa. Có thể nói
rằng, mối quan hệ lâu đời này đã góp phần tạo nên một nền móng vững chắc
cho tình hữu nghị của Việt Nam và Ấn Độ trong những thời kỳ sau.
Từ thập niên 1990 trở lại đây, với sự kết thúc của Chiến tranh lạnh
và trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, mối quan hệ
Việt Nam - Ấn Độ có nhiều thay đổi đáng kể. Nếu như trước đó, mối quan
hệ Việt Nam - Ấn Độ chủ yếu là mối quan hệ chính trị thì giờ đây đã được
mở rộng và phát triển trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa - giáo dục, khoa học kỹ thuật và an ninh - quốc phòng. Những yếu tố
quan trọng thúc đẩy mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ giai đoạn này chính là
công cuộc “đổi mới” của Việt Nam từ năm 1986, “cải cách kinh tế” Ấn Độ
năm 1991 và đặc biệt là “Chính sách hướng
Đông” của Ấn Độ cũng trong năm 1991. Trong bài viết này, chúng tôi tập
trung tìm hiểu quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ thập niên 1990 đến nay trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật và
an ninh quốc phòng. Thông qua đó, chúng tôi khẳng định những thành tựu
của mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong thời kỳ mới, đồng thời đánh giá
triển vọng cũng như xác định những khó khăn còn tồn đọng trong quan hệ
giữa hai nước.
I. QUAN HỆ VIỆT NAM - ẤN ĐỘ TỪ THẬP NIÊN 1990
1. Quan hệ chính trị
Trong quan hệ Việt - Ấn, quan hệ chính trị có bề dày lịch sử và liên tục, bền vững nhất. Trong thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, Chính
phủ hai nước vẫn nỗ lực duy trì và không ngừng bày tỏ quyết tâm nâng
quan hệ chính trị Việt Nam - Ấn Độ lên tầm cao mới, nhằm phục vụ một
cách hiệu quả nhất công cuộc phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế của cả
hai quốc gia. Vì vậy, có thể nói rằng, mối quan hệ chính trị giữa hai Chính
phủ Việt Nam - Ấn Độ từ thập niên 1990 đến nay là hết sức tốt đẹp, thể
hiện bằng những chuyến thăm cấp nhà nước giữa hai bên. Khởi đầu là
chuyến thăm của Thủ tướng Ấn Độ R.Venkataraman đến Việt Nam vào tháng
4/1991. Sau đó, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười sang thăm Ấn
Độ vào tháng 9/1992. Cũng trong năm 1992, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã sang thăm Ấn Độ.
Đặc
biệt, vào tháng 9/1994, Thủ tướng Ấn Độ Narashimha Rao đã sang thăm
Việt Nam. Chuyến thăm này thực sự là một mốc mới trong quan hệ giữa hai
nước, mở ra một giai đoạn mới trong quá trình hợp tác toàn diện Việt Nam
- Ấn Độ. Trong chuyến viếng thăm này, một số hiệp định quan trọng về
quan hệ song phương đã được ký kết như: Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định về mở thêm các lãnh sự quán ở
các thành phố lớn của hai nước, Hiệp định về thành lập văn phòng tư vấn
nước ngoài và một Nghị định thư về hợp tác quốc phòng. Cũng trong chuyến thăm này, Thủ tướng Narashimha Rao đã ký quyết định thành lập “Nhóm công tác chung Việt Nam - Ấn Độ” cấp thứ trưởng, dưới sự hỗ trợ của Hội hữu nghị Ấn - Việt.
Bắt
đầu từ giữa năm 1995 đến đầu năm 1996, sự bất ổn của tình hình chính
trị Ấn Độ do sự thay đổi chính quyền mang lại đã khiến cho quan hệ Việt -
Ấn có phần chững lại. Chuyến thăm của Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt
đến Ấn Độ vào tháng 3/1997 đã mang lại một nguồn sinh lực mới cho quan
hệ giữa hai nước. Tháng 12/1999, Chủ tịch Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam Trần Đức Lương thăm Ấn Độ. Trong chuyến thăm này, hai nhà nước
đã ra Tuyên bố chung khẳng định sẽ nỗ lực hơn nữa để nâng quan hệ hợp
tác trên các lĩnh vực lên tầm cao mới. Hai bên đã ký kết những văn kiện
quan trọng: Hiệp định tín dụng, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu
tư song phương; Thỏa thuận về việc thành lập trung tâm phát triển nguồn
nhân lực phần mềm tại Việt Nam, Thỏa thuận hợp tác giữa Học viện Quan hệ
Quốc tế và Học viện Ngoại giao Ấn Độ.
Vào năm 2000, để tạo khuôn khổ cho hợp tác giữa hai nước trong thế kỷ XXI, với Tuyên bố Viêngchăn,
Ấn Độ và Việt Nam đã đi vào khuôn khổ hợp tác khu vực sông Hằng và sông
Mêkông, kết hợp hợp tác song phương giữa hai nước với hợp tác khu vực
nhằm mang lại nhiều lợi ích hơn cho cả hai quốc gia.
Bước
sang thế kỷ XXI, quan hệ chính trị Việt Nam - Ấn Độ tiếp tục được phát
triển tốt đẹp. Vào tháng 1/2001, Thủ tướng Ấn Độ Atal Bihari Vajpayee đã
thăm chính thức Việt Nam. Tháng 5/2003, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã
sang thăm Ấn Độ. Chuyến thăm này đã đánh dấu một mốc mới trong lịch sử
quan hệ hai nước. Trong chuyến thăm này, hai nước đã ký Tuyên bố chung về Khuôn khổ Hợp tác toàn diện giữa hai nước bước vào thế kỷ XXI. Đây là tuyên bố chung về hợp tác toàn diện đầu tiên của Việt Nam ký với một nước khác trong thế kỷ XXI.
Mốc
lịch sử tiếp theo trong quan hệ Việt Nam - Ấn Độ chính là chuyến thăm
chính thức Ấn Độ của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng vào tháng
7/2007. Trong chuyến viếng thăm này, thủ tướng hai nước đã ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược Việt - Ấn và chứng kiến lễ ký kết 7 văn kiện hợp tác quan trọng khác, bao gồm: Bản
ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực nghề cá và nuôi trồng thủy sản; Bản
ghi nhớ giữa Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam và Bộ Năng lượng nguyên tử
Ấn Độ; Bản ghi nhớ về trao đổi đất và tài sản dành cho cơ quan đại diện
ngoại giao hai nước; Bản ghi nhớ về thành lập trung tâm đào tạo tiếng
Anh tại Đà Nẵng…
Các
chuyến thăm cấp cao giữa Việt Nam - Ấn Độ sau đó có thể kể đến chuyến
thăm Ấn Độ của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan năm 2009, Chủ tịch Quốc
hội Nguyễn Phú Trọng năm 2010 và gần đây nhất là chuyến thăm Ấn Độ của
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ngày 12/10/2011. Từ
phía Ấn Độ, Chủ tịch Hạ Viện Somnath Chatterjee đến Việt Nam tháng
3/2007, Tổng thống Pratibha Patil thăm Việt Nam tháng 11/2008, Thủ tướng
Manmohan Singh đến Hà Nội tháng 10/2010 để tham dự Hội nghị thượng đỉnh
Ấn Độ - ASEAN và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á và Chủ tịch Hạ viện, Bà
Meira Kumar đến thăm Việt Nam từ ngày 14 đến 17 tháng 5 năm 2011.
Có
thể nói, chưa bao giờ mối quan hệ chính trị Việt Nam - Ấn Độ lại tốt
đẹp như hiện nay. Những chuyến thăm giữa các vị lãnh đạo cấp cao hai
nước và việc ký kết một loạt các hiệp định, thỏa thuận mới đã tạo cơ sở
pháp lý thuận lợi cho sự phát triển các mối quan hệ kinh tế thương mại,
văn hóa giáo dục, khoa học kỹ thuật và an ninh quốc phòng giữa Việt Nam
và Ấn Độ trong thế kỷ XXI.
2. Quan hệ kinh tế
Mặc
dù Việt Nam và Ấn Độ chia sẻ quan hệ chính trị hết sức nồng ấm và mang
tính chiến lược từ lâu, nhưng điều này không được thể hiện một cách
tương xứng trong lĩnh vực kinh tế thương mại. Cho đến những năm đầu thập
niên 1990, trao đổi kinh tế thương mại giữa hai nước chiếm tỉ trọng rất
nhỏ. Nguyên nhân chủ yếu là do bối cảnh nền kinh tế trong nước, mô hình
phát triển và ưu tiên trong chính sách đối ngoại của hai nước khi đó
không tạo điều kiện cho trao đổi kinh tế phát triển.
Từ
giữa thập niên 1990, tình hình bắt đầu thay đổi. Với công cuộc “đổi
mới” của Việt Nam và “cải cách kinh tế” Ấn Độ đạt được những thành quả
nhất định, nhu cầu phát triển kinh tế thôi thúc sự gia tăng mối liên kết
thương mại giữa hai nước. Do đó, cả hai nước bắt đầu nỗ lực mở rộng các
lĩnh vực hợp tác và gia tăng tỉ trọng thương mại và đầu tư. Những nỗ
lực này được thúc đẩy bởi những chương trình hợp tác khu vực, như hợp
tác Ấn Độ - ASEAN và hợp tác Mekong - Ganga.
Điều
đáng lưu ý là trong quan hệ thương mại Việt Nam - Ấn Độ, cán cân thương
mại liên tục nghiêng về phía Ấn Độ. Hiện tượng này xảy ra liên tục
trong một thời gian dài (Bảng 1)
Bảng 1:Thương mại song phương
Ấn Độ - Việt Nam
2002-2003
|
2003-2004
|
2004-2005
|
2005-2006
|
2006-2007
|
|
Xuất khẩu của Ấn Độ sang Việt Nam (triệu USD)
|
337.39
|
410.43
|
555.96
|
690.68
|
981.84
|
Tỉ lệ tăng trưởng (xuất khẩu)
|
21.65
|
35.64
|
24.32
|
42.16
|
|
Nhập khẩu của Ấn Độ từ Việt Nam (triệu USD)
|
29.18
|
38.21
|
86.50
|
131.39
|
167.52
|
Tỉ lệ tăng trưởng (nhập khẩu)
|
30.95
|
126.35
|
51.89
|
27.50
|
Nguồn: Ngân hàng dữ liệu xuất nhập khẩu,
Văn phòng Thương mại, Bộ Thương mại và
Công nghiệp, Chính phủ Ấn Độ, http://commerce.nic.in/eidb/default.asp
Bảng
trên đây cho thấy, riêng trong năm 2006-2007, xuất khẩu của Ấn Độ sang
Việt Nam cao hơn gần năm lần so với nhập khẩu từ Việt Nam. Nguyên nhân
chủ yếu khiến cán cân thương mại nghiêng về phía Ấn Độ và sự phát triển
chậm chạp của thương mại song phương là sự tương đồng của những mặt hàng
xuất khẩu của cả hai nước. Trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu của cả
Ấn Độ và Việt Nam đều có hàng may mặc, trà, gạo, hạt điều, giày dép,
hạt tiêu và các sản phẩm biển.
Về
lĩnh vực đầu tư, Ấn Độ vốn là một trong những nước sớm đầu tư vào Việt
Nam. Mặc dù bản thân là nước thiếu vốn và đang tích cực khuyến khích đầu
tư nước ngoài nhưng hàng năm chính phủ Ấn Độ vẫn liên tục cho Việt Nam
vay những khoản tín dụng nhất định. Chẳng hạn như trong những năm
1996-2001, Ấn Độ cho Việt Nam vay khoản tín dụng tương đương 12 đến 15
triệu USD để nhập trang thiết bị cho các dự án nông nghiệp, chế biến
nông lâm sản, phát triển các ngành công nghiệp luyện kim, làm toa xe lửa
và phụ tùng… Tính đến cuối năm 2001, Ấn Độ đã có khoảng hơn một chục dự
án đầu tư và liên doanh ở Việt Nam. ONGC Videsh, Esaar Group, Godrej
Limited và Ranbaxy là một số nhà đầu tư quan trọng của Ấn Độ vào Việt
Nam. Tuy nhiên, tính tổng số, FDI của Ấn Độ vào Việt Nam năm 2006 là
9.676 triệu USD1 vẫn là một con số nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước.
Với
sự nỗ lực không ngừng của cả hai phía để khắc phục tình trạng trên,
những năm gần đây, mối quan hệ kinh tế Việt - Ấn đã có sự thay đổi rất
đáng khích lệ. Thương
mại song phương giữa Ấn Độ và Việt Nam đã vượt con số 1 tỉ USD vào năm
2006-2007. Năm 2008, Ấn Độ trở thành một trong mười nhà đầu tư lớn nhất
vào Việt Nam. Việc ký kết hiệp định thương mại tự do Ấn Độ - ASEAN năm
2009 đã mở thêm những cơ hội mới cho sự hợp tác giữa Ấn Độ và các nước
ASEAN, trong đó có Việt Nam. Từ đó đến nay, thương mại hai chiều Việt
Nam - Ấn Độ liên tục gia tăng một cách khá ấn tượng. Năm 2010, thương
mại hai chiều Việt - Ấn đạt 2,75tỉ USD, tăng 34,3% so với năm trước đó. Trong 4 tháng đầu năm 2011, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam - Ấn Độ đạt 1,262 tỉ USD, tăng 42% so với cùng kỳ năm ngoái và mục tiêu tăng trưởng thương mại hai chiều của năm nay là 4 tỉ USD2. Tính đến tháng 4 năm 2011, Ấn Độ có tất cả 52 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký hơn 220 triệu USD3. Cả Việt Nam và Ấn Độ đang đặt mục tiêu đưa kim ngạch thương mại song phương lên 7 tỉ USD vào năm 20154.
3. Quan hệ văn hóa - giáo dục - khoa học kỹ thuật
Cùng
với sự phát triển của các quan hệ chính trị, kinh tế Việt Nam - Ấn Độ,
hợp tác về văn hóa giáo dục và khoa học kỹ thuật cũng là một lĩnh vực
ngày càng có tầm quan trọng hơn trong quan hệ song phương giữa hai quốc
gia.
Là
một đất nước rộng lớn, giàu tài nguyên, lại được thừa hưởng một số di
sản tiến bộ của chủ nghĩa tư bản Anh, cho đến thập niên 1990 của thế kỷ
XX, Ấn Độ đã xây dựng được một hệ thống đào tạo khá phát triển. Với hàng
trăm trường đại học, viện nghiên cứu, trong đó có nhiều trường và viện
được xếp thứ hạng cao ở châu Á như Viện Công nghệ Ấn Độ (IIT), Viện
nghiên cứu lúa PUSA, Viện nông nghiệp quốc gia (IARI) ở Delhi… Ấn Độ đã
thu hút nhiều nhà khoa học trên khắp thế giới đến nghiên cứu. Trong thập
niên 1990, hợp tác về đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật đã được hai bên
xác định là lĩnh vực hợp tác ưu tiên và là lĩnh vực hợp tác có hiệu quả
nhất giữa hai nước. Mỗi năm, Chính
phủ Ấn Độ đều dành 110 xuất học bổng cho Việt Nam trong giai đoạn này.
Gần đây, phía Ấn Độ đã công bố sẽ tăng số học bổng ITEC cho Việt Nam từ
75 lên 150 xuất từ năm 20125.
Việt Nam là nước được hưởng nhiều xuất học bổng nhất trong số các nước
đang phát triển theo chương trình hợp tác kỹ thuật của Ấn Độ (ITEC) với
nước ngoài.
Về
hợp tác văn hóa, trong giai đoạn này, một số chương trình trao đổi văn
hóa giữa hai bên cũng được tiến hành đều đặn. Hàng năm, vào các ngày lễ
Độc lập của Ấn Độ (15/8) và ngày Quốc khánh của Việt Nam (2/9) và các
dịp kỷ niệm ngày hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, hai nước đều tổ
chức các cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật, giới thiệu vẻ đẹp của đất nước
và con người Việt Nam, Ấn Độ đến với nhân dân hai nước. Đồng thời, các
chuyến trao đổi các đoàn nghệ thuật của hai nước sang biểu diễn ở thủ đô
và các thành phố lớn của nhau cũng góp phần làm tỏa sáng những thành
tựu nghệ thuật của hai quốc gia trong thời kỳ mới. Bên cạnh đó, Việt Nam
và Ấn Độ còn tham gia tích cực các Liên hoan Phim của nhau. Nhiều tuần
lễ phim Ấn Độ được tổ chức tại Việt Nam trong những dịp Quốc khánh Ấn Độ
và được khán giả Việt Nam rất yêu thích.
Hợp
tác văn hóa giữa Việt Nam và Ấn Độ còn được tiến hành thông qua lĩnh
vực giáo dục. Lần đầu tiên ở Việt Nam, bộ môn Ấn Độ học đã được thành
lập tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp.Hồ Chí Minh vào năm 2000 với khóa đầu tiên gồm 26 sinh viên. Vào năm 2002, Bộ môn Ấn Độ học cũng được thành lập tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà
Nội. Cho đến nay, Bộ môn Ấn Độ học ở cả hai miền Nam Bắc của đất nước
đã đào tạo được nhiều khóa sinh viên ra trường, góp phần tích cực thúc
đẩy quan hệ Việt - Ấn ngày càng đi vào chiều sâu.
Ngày
5/7/2011, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập Viện Ấn Độ và Tây
Nam Á, thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Sự kiện này chứng tỏ Việt
Nam đánh giá cao vai trò của Ấn Độ và tầm quan trọng của việc nghiên cứu
về Ấn Độ trong giai đoạn hiện nay.
Trong
chuyến thăm Ấn Độ của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang ngày
12/10/2011, hai bên đã nhất trí lấy năm 2012 là Năm Hữu nghị Việt Nam -
Ấn Độ để kỷ niệm 40 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ
(1972-2012) và 5 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược (2007-2012).
Phía Ấn Độ cũng sẽ tổ chức “Năm Ấn Độ ở Việt Nam” trong năm 2012 với
nhiều sự kiện văn hóa như biểu diễn nghệ thuật, liên hoan phim, ẩm thực và tranh ảnh ở nhiều thành phố của Việt Nam.
4. Quan hệ an ninh – quốc phòng
Quan
hệ Việt Nam - Ấn Độ trên lĩnh vực an ninh quốc phòng là mối quan hệ khá
mới mẻ, cả về phía Việt Nam và về phía Ấn Độ. Điều này xuất phát từ
quan điểm không liên kết của Ấn Độ trong suốt thời kỳ trước chiến tranh
lạnh. Tuy nhiên, từ thập niên 1990 đến nay, vì nhiều lý do khác nhau,
hợp tác an ninh quốc phòng đã trở thành một lĩnh vực hợp tác có tầm quan
trọng đặc biệt đối với cả Việt Nam và Ấn Độ.
Vào
năm 1994, quan hệ Việt - Ấn trên lĩnh vực an ninh quốc phòng đã được
thiết lập với việc hai nước ký kết một Bản ghi nhớ về hợp tác quốc
phòng. Tuy nhiên, phải đến nửa sau thập niên 1990, đặc biệt là sau khi
Ấn Độ thử nghiệm thành công vũ khí hạt nhân vào năm 1998, mối quan hệ an
ninh quốc phòng Việt - Ấn mới chính thức được tiến hành.
Hai
tháng sau khi Ấn Độ tiến hành thử nghiệm vũ khí hạt nhân thành công, ba
chiếm hạm hải quân nổi tiếng của Ấn Độ là chiến hạm Rajput, chiến hạm
Delhi và chiến hạm Khanjar đã thực hiện chuyến thăm hữu nghị Việt Nam từ
ngày 1-4 tháng 10 năm 1998. Sau đó,
nhiều chuyến thăm của lãnh đạo quân đội cấp cao hai nước đã được tiến
hành. Có thể kể đến chuyến thăm Việt Nam của Tổng tham mưu tình báo quân
đội Ấn Độ R.K. Sawhney tháng 11 năm 1998, chuyến thăm Ấn Độ của Trung
tướng hải quân Mai Xuân Vinh tháng 9/1999. Đặc biệt, vào tháng 3/2000,
hợp tác an ninh - quốc phòng Việt Nam - Ấn Độ được nâng lên một bước khi
Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ George Fernandes đến thăm Việt Nam theo lời
mời của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phạm Văn Trà. Trong chuyến thăm
này, hai bên đã ký một số văn bản thỏa thuận về việc hợp tác trong lĩnh
vực quốc phòng trong đó đặc biệt quan trọng là một nghị định thư mới về
hợp tác quân sự, bao gồm những nội dung sau:
- Thể chế hóa khuôn khổ cho các cuộc đối thoại thường xuyên cấp Bộ trưởng quốc phòng giữa Việt Nam và Ấn Độ.
- Tiến hành những cuộc đối thoại thường xuyên cấp Bộ trưởng quốc phòng giữa Việt Nam và Ấn Độ.
- Tiến hành tập trận hải quân chung giữa Ấn Độ và Việt Nam (trong đó có cả lực lượng cảnh sát biển).
- Không quân Ấn Độ đào tạo phi công cho không quân nhân dân Việt Nam6.
Những
nội dung trên đây là những bước quan trọng để đạt được mục đích chiến
lược của Ấn Độ là giúp Việt Nam xây dựng một lực lượng quân sự mạnh và
tự tin hơn để có thể hợp tác với Ấn Độ trên lĩnh vực an ninh. Ngoài ra,
phía Ấn Độ còn giúp Việt Nam nâng cấp và xây dựng đội tàu chiến và máy
bay tuần tra, cũng như các nhân viên kỹ thuật trong lực lượng hải quân,
cảnh sát biển, không quân và các chuyên gia kỹ thuật trong quân đội Việt
Nam.
Ngoài
ra, cả Việt Nam và Ấn Độ còn tăng cường hợp tác để đối phó hiệu quả các
hiểm họa an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi
trường, thiên tai, an ninh năng lượng, HIV/AIDs và dịch bệnh. Mức độ hợp
tác quân sự song phương sâu rộng giữa Ấn Độ và Việt Nam trong những năm
gần đây được cho là đã “vượt mức quan hệ thông thường giữa các quốc
gia”7.
II. TRIỂN VỌNG CỦA QUAN HỆ VIỆT NAM - ẤN ĐỘ
Có
thể nói, từ thập niên 1990 đến nay, mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ
thuật và an ninh - quốc
phòng đã tiến được những bước rất dài. Hôm nay, cả hai nước vẫn đang
bước đi đầy tự tin trên con đường phát triển kinh tế và thịnh vượng. Sự
thay đổi trong mối quan hệ giữa hai nước, từ mối quan hệ hiểu biết tin
cậy lẫn nhau đến mối quan hệ hợp tác toàn diện và sau đó là mối quan hệ
đối tác chiến lược phản ánh sự thay đổi trong một thế giới toàn cầu hóa
và hội nhập hơn. Triển vọng của mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên các
lĩnh vực như thương mại, đầu tư, an ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục,
du lịch là rất lớn. Theo lời của Đại sứ Ấn Độ Ranjit Rae, Việt Nam tiếp
tục là điểm đến đầu tư hấp dẫn cho các công ty Ấn Độ hoạt động trên các
lĩnh vực như dầu khí, thép, khoáng sản, chè, đường, chế biến thực phẩm
và đào tạo công nghệ thông tin8.
Nền
tảng lâu đời của mối quan hệ truyền thống Việt Nam - Ấn Độ, Chính sách
hướng Đông của Ấn Độ, tiềm năng về khoa học công nghệ của Ấn Độ và công
cuộc đổi mới của Việt Nam là những yếu tố thuận lợi giúp mang lại nhiều
cơ hội thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước. Bên cạnh đó, sự phát triển
của mối liên kết Đông Á và vấn đề biển Đông cũng được Ấn Độ coi là cơ
hội tốt để phát triển quan hệ với Việt Nam và giúp Ấn Độ đạt được những
mục tiêu chiến lược của mình.
Tuy
nhiên, mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức, trong đó có thể nêu ra đây một vài khó khăn chủ yếu
sau đây:
-
Sự thiếu hụt thông tin về đất nước của nhau: mặc dù Việt Nam và Ấn Độ
vẫn luôn tự hào về tình bằng hữu có hàng ngàn năm tuổi nhưng những gì mà
chúng ta biết về nhau vẫn chủ yếu là những thông tin về chính trị, văn
hóa. Còn những thông tin rất cần thiết và mang lại hiệu quả thiết thực
cho quan hệ hai bên như những thông tin về kinh tế, thị trường và khoa
học kỹ thuật thì vẫn còn rất hạn chế. Theo TS. Tridib Chakraborty, Đại
học Jadavpur, Kolkata, Ấn Độ thì “có một sự thiếu hiểu biết đáng ngạc
nhiên ở Việt Nam về những tiềm năng và sự phát triển của ngành công
nghiệp Ấn Độ. Các công ty ở Việt Nam đã không thâm nhập đúng cách thức
vào thị trường Ấn Độ, trong khi đó, giới kinh doanh Ấn Độ vẫn còn chịu
ảnh hưởng của cung cách làm việc của giai đoạn bao cấp, và chưa thể hiện
được tính cạnh tranh trong một hệ thống kinh tế mở…”9.
-
Sự khó khăn về đi lại: mặc dù đã có hiệp định về hàng không dân dụng
giữa Ấn Độ và Việt Nam nhưng cho đến nay vẫn chưa có đường bay thẳng
giữa hai nước. Điều đáng tiếc là Việt Nam và Ấn Độ là hai nước khá gần
nhau ở châu Á nhưng phải mất từ 10 đến 24 tiếng mới đến được New Delhi
từ Hà Nội, chủ yếu vì phải dừng chân ở Thái Lan hoặc Malaysia để chuyển
máy bay. Do đó, yêu cầu cấp bách đặt ra là hai nước phải thảo luận và
xúc tiến kế hoạch đường bay thẳng nhanh chóng để thúc đẩy du lịch và
trao đổi kinh tế giữa hai bên.
-
Những khác biệt về văn hóa, tôn giáo, tâm lý và thói quen cũng tạo ra
những trở ngại nhất định trong quá trình hợp tác giữa hai bên.
- Vấn đề biển Đông vừa là cơ hội đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức cho cả hai phía.
Trong
bối cảnh của những triển vọng và khó khăn nêu trên, chuyến thăm Ấn Độ
của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang ngày 12 tháng 10 năm 2011
và việc hai nước ký kết Tuyên bố chung khẳng định quyết tâm củng cố và
nâng tầm quan hệ đối tác chiến lược của cả hai phía. Hai bên đã nhất trí
tăng cường mạnh mẽ nội hàm của mối quan hệ đối tác chiến lược giữa hai
nước dựa trên các trụ cột then chốt là hợp tác về chính trị, quốc phòng,
an ninh, kinh tế, văn hóa và đào tạo nguồn nhân lực. Đồng thời, lãnh
đạo hai bên cũng nhất trí tăng thêm các chương trình, dự án cụ thể và mở
rộng hợp tác sang các lĩnh vực mới, có tính đến tình hình kinh tế và
chính trị đang thay đổi ở cả khu vực và quốc tế. Việc một loạt các cơ
quan đơn vị về Ấn Độ được thành lập tại Việt Nam trong năm 2011 như Viện
Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á thuộc Viện Khoa học xã hội Việt
Nam, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt - Ấn, Trung tâm Đào tạo nguồn nhân lực
cao cấp về Công nghệ Thông tin và Truyền thông (ARC-ICT) và việc Ấn Độ
tuyên bố thành lập Trung tâm Văn hóa ở Hà Nội cũng mở ra nhiều triển
vọng trong quan hệ giữa hai nước.
* *
*
Nhìn
lại mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ thập niên 1990 đến nay, có thể thấy
rằng, vượt qua tất cả những khó khăn và trở ngại còn tồn đọng, mối quan
hệ giữa hai nước vẫn không ngừng tiến triển và đã đạt được nhiều thành
quả to lớn. Với những thành quả ấy, chúng ta tin tưởng rằng mối quan hệ
đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ
trong tương lai, đáp ứng niềm mong mỏi của Chính phủ và nhân dân hai
nước trong thời kỳ mới.
_______________________
Chú thích
1. IPCS Special Report (2008), No.57, July
2. Saigon Times (2011), Sunday, 14th August,
4. Tuyên bố chung Việt Nam - Ấn Độ 2011, TTXVN.
5. Tuyên bố chung Việt Nam - Ấn Độ 2011, TTXVN.
6. Indian News Agency, India-Vietnam defence pact, The Tribune, 28/3/2000.
7. http://nghiencuubiendong.vn, Vì sao Ấn Độ tăng cường hiện diện tại Biển Đông? Thứ 3/20/9/2011.
8. Phỏng vấn Đại sứ Ấn Độ Ranjit Rae, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 14/8/2010.
9. Tridib Chakraborti, 2000, “India and Vietnam: A New Dimension in South-South Economic Cooperation”, Magazine of Asian Studies, Calcultta, Vol 8, No.2.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thị Phương Hảo (luận văn tốt nghiệp), 2005, Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ (1991-2001), Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.
2. Subhash Kapila (2004), India - Vietnam Strategic Partnership: The Convergence of Interest, South Asia Analysis Group.
3. Indian News Agency, India-Vietnam defence pact, The Tribune, ngày 28/3/2000.
4. Tridib Chakraborti, 2000, “India and Vietnam: A New Dimension in South-South Economic Cooperation”, Magazine of Asian Studies, Calcultta, Vol 8, No.2.
5. Saigon Times, Sunday, 14th August, 2011.