Từ việc phân tích thực trạng kinh tế ở khu vực Đông Bắc Á
trong những năm gần đây chúng ta có thể nhận diện bức tranh kinh tế của
khu vực này trong thập niên tới với 5 xu hướng lớn. Và như đã biết,
nhiều nền kinh tế Đông Bắc Á đã, đang và sẽ là đối tác hàng đầu của Việt
Nam, bởi vậy các xu hướng phát triển này sẽ tác động tới Việt Nam.
Chúng ta cần phải làm gì trong bối cảnh đó cũng là một nội dung của bài
viết này.
I. Nhận diện năm xu hướng phát triển chủ yếu
1. Tương lai của kinh tế Đông Bắc Á chịu sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, khu vực hóa và các đối tác lớn.
Đó là một thực tế bëi như chúng ta biết, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa
và khu vực hóa th× vốn, hàng hóa, dịch vụ, nguồn nhân lực... đòi hỏi
phải được di chuyển tự do. Cho dù đến nay, xu hướng tự do hoá đầu tư và
mậu dịch trở nên nổi trội song yêu cầu của tăng trưởng ổn định và bền
vững đòi hỏi các nguồn lực phải được di chuyển tự do. Điều này được thể
hiện rõ nét ở các nền kinh tế Đông Bắc Á.*
Đã nhiều thập kỷ qua, đặc biệt là hơn một thập kỷ gần đây, sự thịnh
vượng cũng như sự “chao đảo” của các nền kinh tế Đông Bắc Á gắn chặt với
những biến động của toàn cầu hóa, khu vực hóa và của các đối tác lớn.
Sự thành công kinh tế của Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan... là
một minh chứng cụ thể về những tác động tích cực của các yếu tố trên.
Người ta nói, liệu Trung Quốc có đạt được tốc độ tăng trưởng cao suốt
hai thập niên qua nếu không có thị trường Hoa Kỳ, thị trường EU hay
thiếu đi làn sóng FDI? Hoặc nếu thiếu vắng những thứ đó, liệu có các con
rồng Hàn Quốc, Đài Loan? Đương nhiên, b¶n thân các nền kinh tế này cũng
là những lực lượng chủ chốt tham gia sân chơi toàn cầu hoá. Bên cạnh
đó, những tác động tích cực của tiến trình liên kết kinh tế Đông Á - một
nội dung căn bản của khu vực hoá - cũng tạo ra những điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển kinh tế của Đông Bắc Á. Thị trường các nước ASEAN,
cho dù còn hạn chế về sức mua song đây chính là “sân sau quan trọng”
cho các nền kinh tế Đông Bắc Á. Nhờ đẩy mạnh tiến trình liên kết kinh tế
Đông Á, người ta đang hướng tới các FTA song phương giữa các nền kinh
tế Đông Bắc Á với ASEAN. Bởi vậy, trong tương lai, ASEAN vẫn là một nhân
tố lớn, một đối tác lớn, có ảnh hưởng mạnh tới các nền kinh tế Đông Bắc
Á. Không cần phải nhấn mạnh và phân tích thêm, ai cũng có thể thấy rõ
tầm quan trọng của các đối tác này đối với sự phát triển kinh tế của
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc trong quá khứ, hiện tại cũng
như tương lai. Những vướng mắc hay xung đột lợi ích kinh tế chỉ là tạm
thời bởi các đối tác lớn này thừa biết rằng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
họ về kinh tế là động cơ thúc đẩy cho tất cả các đối tác bởi vậy không
ai dại gì mà đẩy tới các cuộc “chiến tranh thương mại” như một số nhà
phân tích lo ngại khi nhìn thấy xuất siêu mậu dịch của Trung Quốc và
Nhật Bản với Mỹ. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng, thực chất của các quan hệ
kinh tế giữa các nền kinh tế Đông Bắc Á với Mỹ và EU là vừa hợp tác,
vừa cạnh tranh, ở đó hợp tác trở thành ưu thế nổi trội bởi như đã biết
đây là sự phụ thuộc lẫn nhau. Và điều này cũng có nghĩa là, khi các đối
tác lớn của Đông Bắc Á “sổ mũi thì các nền kinh tế ở khu vực này sẽ bị
hắt hơi”. Thực tế phát triển kinh tế ở khu vực này trong hơn thập kỷ qua
là một minh chứng và nó cũng sẽ diễn ra như vậy trong tương lai.
2. Liên kết nội khối Đông Bắc Á (còn gọi là liên kết nội vùng) đang trở thành một xu thế không thể đảo ngược.
Cơ sở của nhận định đó đã được phân tích và chứng minh ở trên song
cần nhấn mạnh rằng cho đến nay, người ta vẫn chưa thấy xuất hiện một FTA
nào ở khu vực này. Đương nhiên, sự khởi động của ba đầu tàu kinh tế khu
vực (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) về vấn đề này và thực tiễn của hợp
tác kinh tế giữa các quốc gia này với nhau cho phép chúng ta tin rằng,
một FTA song phương hay đa phương giữa các quốc gia này sẽ xuất hiện
trong thập kỷ tới. Điều mà nhiều nhà dự báo ở ba quốc gia này mong đợi
là, họ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc cần phải có một quyết tâm chính
trị lớn để vượt qua những trở ngại, nhất là trở ngại lịch sử. Có như
vậy, tương lại của một FTA Đông Bắc Á mới sáng sủa.
Và một khi có một FTA Đông Bắc Á xuất hiện thì thị trường sẽ mở rộng
cả chiều rộng lẫn chiều sâu, các nguồn lực sẽ có cơ hội phát huy hết
công suất và điều này sẽ tạo cơ hội thúc đẩy kinh tế Đông Bắc Á phát
triển mạnh mẽ.
Có người cho rằng, ngay cả trường hợp thiếu một quyết tâm chính trị
từ cả ba nước này và hệ quả là sự trì hoãn FTA, các nền kinh tế Đông Bắc
Á vẫn gia tăng liên kết kinh tế theo các phương thức truyền thống kết
hợp khai thác các lợi thế với tư cách cùng là thành viên WTO và thành
viên APEC. Dự báo này là có lý bởi như phân tích ở phần II; một mặt thì
họ cố gắng tìm kiếm giải pháp để đạt tới một FTA trong khi đó thì sự
tranh cãi về các vấn đề quá khứ lịch sử góp phần làm lạnh đi những cố
gắng đó.
Điều lưu ý là cho đến nay, Hàn Quốc và Nhật Bản đã ký một số FTA với
các đối tác ngoài Đông Bắc Á, và kết quả của các FTA này chứng tỏ rằng,
không có ai bị thua thiệt, dường như tất cả các đối tác trong cuộc cùng
thắng. Và như vậy, không lẽ gì mà các nền kinh tế như họ đã khởi động.
Vấn đề là các nhà lãnh đạo ở đây cần có một quan điểm chiến lược thấu
đáo, tức là cần có một quyết tâm chính trị - như đã nói ở trên bởi điều
đó không chỉ mang lại lợi ích cho họ mà còn tác động tích cực đến các
chiều hướng phát triển kinh tế của cả Đông Bắc Á và Đông Á trong tương
lai.
3. Hình thành và mở rộng mạng sản xuất Đông Bắc Á đã và đang là một xu hướng phát triển tất yếu ở khu vực này.
Như đã đề cập ở trên, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nền
kinh tế Đông Bắc Á diễn ra dưới các hình thức như trao đổi mậu dịch,
FDI, đầu tư chứng khoán và các hình thức khác mà ở đó các công ty Đa
quốc gia (MNCs) là những người lính xung kích đã tạo dựng mạng sản xuất
Đông Bắc Á. Nói cách khác, có 3 tham số chính của mạng sản xuất Đông Bắc
Á, đó là mậu dịch, FDI và MNCs. Nhờ đó hệ thống kinh doanh được tổ chức
trên cơ sở hợp lý hoá quy trình sản xuất, phân phối và tối ưu hoá quá
trình phân công lao động mang tính quốc tế. Nhà kinh doanh có thể đạt
tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nhờ việc phát triển hệ thống mạng này
và hệ quả lớn hơn là các quốc gia trong khu vực có thể duy trì và đạt
tới các mục tiêu cải tổ cơ cấu kinh tế và phát triển bền vững. Thực tế
phát triển kinh tế ở khu vực này trong hơn thập kỷ qua cho thấy, chính
mạng sản xuất Đông Bắc Á đã tác động tích cực tới việc khai thác và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực ở các nền kinh tế hàng đầu như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc…v.v.
Cần phải nhấn mạnh rằng, để tiếp tục nuôi dưỡng và phát triển mạng
sản xuất Đông Bắc Á, nỗ lực của các nền kinh tế ở khu vực này phải tập
trung theo đuổi các chính sách hỗ trợ và tạo dựng một môi trường kinh
doanh thuận lợi, ở đó các rào cản đối với thương mại, dịch vụ và FDI
phải được loại bỏ ở mức cao nhất; Đồng thời các bên hữu quan phải có
quyết tâm chính trị cao nhằm xây dựng một FTA đa phương ở Đông Bắc Á,
bắt đầu với ba trụ cột Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản; Bên cạnh đó,
các nền kinh tế ở khu vực này cần nỗ lực hơn nữa trong việc đào tạo một
nguồn nhân lực có trình độ cao.
4. Phát triển kinh tế tri thức ở khu vực Đông Bắc Á đã và đang là một xu thế nổi trội.
Nhận
diện nền kinh tế tri thức ở khu vực này thông qua việc phân tích, đánh
giá những đặc trưng chủ yếu như sự gia tăng mạnh mẽ của tỷ trọng các
ngành kinh tế tri thức trong cơ cấu giá trị của các nền kinh tế trong
khu vực; sự gia tăng nhanh chóng về lượng nhưng chênh lệch khá lớn về
trình độ phát triển cơ sở hạ tầng thông tin giữa các nền kinh tế và vùng
lãnh thổ trong khu vực; giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực; năng lực
đổi mới và sáng tạo; chuyển giao công nghệ và tri thức quản lý thông qua
đầu tư trực tiếp… Điều lưu ý là kinh tế tri thức ở khu vực này được
phát triển từ những năm 1970 mặc dù khi đó người ta không dùng thuật ngữ
này. Cả Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, thậm chí cả Hồng Kông, ở thời kỳ
đó, các dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ thông tin đã được thực
thi. Đây chính là nền tảng để các nền kinh tế này phát triển kinh tế tri
thức. Cho đến nay, cho dù chưa một nền kinh tế nào ở Đông Bắc Á tự nhận
họ đã xây dựng xong nền kinh tế tri thức song nếu xét tỷ trọng các sản
phẩm hay ngành có hàm lượng khoa học, công nghệ cao thì đây là khu vực
xếp loại Top 5 trong các nền kinh tế hàng đầu thế giới về kinh tế tri
thức.
Thực tế cho thấy những yếu kém trong cơ sở hạ tầng thông tin, thiếu
hụt một đội ngũ lao động có kỹ năng cao và sức ì trong bộ máy nhà nước…
được coi là những trở ngại cho việc xây dựng một nền kinh tế tri thức
theo đúng nghĩa của nó ở khu vực này. Vẫn biết rằng mỗi nước có những
thách thức đặc thù song những trở ngại trên lại khá phổ biến trong các
nền kinh tế Đông Bắc Á. Hiện nay, phần lớn các nền kinh tế Đông Bắc Á đã
hoạch định và đang thực thi chiến lược quốc gia về phát triển cơ sở hạ
tầng thông tin - một yếu tố căn bản để phát triển kinh tế tri thức. Ở
đó vai trò điều tiết của nhà nước ở phương diện xác định quan điểm mục
tiêu, định hướng được đề cao và khu vực tư nhân được coi là đầu tàu kéo
cỗ xe kinh tế tri thức phát triển.
Điều cần nhấn mạnh là kinh tế tri thức một khi đã được xây dựng sẽ
tạo ra một xung lực mới làm thay đổi chất lượng phát triển ở các nền
kinh tế Đông Bắc Á và tiếp tục tác động sâu rộng tới các chiều hướng
phát triển kinh tế khu vực này trong tương lai.
5. Trung Quốc, một thế lực kinh tế đang nổi lên và vai trò của nó đang gia tăng mạnh mẽ ở cả cấp độ khu vực và thế giới.
Năm 2004, nước này trở thành nền kinh tế lớn thứ tư sau Mỹ, Nhật Bản
và Đức. Họ đang hướng tới mục tiêu năm 2020 chiếm lĩnh vị trí siêu cường
kinh tế thứ hai thế giới sau Mỹ. Rất có thể Trung Quốc làm được điều
này và khi đó trật tự kinh tế thế giới sẽ bị đảo lộn.
Vai trò của nền kinh tế Trung Quốc đối với khu vực và toàn cầu thật
sự to lớn và không cần bình luận thêm. Điều mà nhiều nhà phân tích quan
tâm là với một thế lực kinh tế đang nổi lên, Trung Quốc sẽ gia tăng áp
lực cạnh tranh lên các đối tác, đặc biệt là với những đối tác có các yếu
tố tương tự như Trung Quốc. Đây chính là tác động ngược của thế lực
kinh tế Trung Quốc. Và giải pháp để các đối tác này có thể cạnh tranh
với Trung Quốc là đẩy nhanh cải tổ cơ cấu kinh tế, cải cách hành chính,
và thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức. Tất nhiên đây không là điều dễ
dàng bởi Trung Quốc cũng đang thực thi như vậy. Trong khi đó, nhiều
chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc cho rằng sự gia tăng vai trò kinh tế
của Trung Quốc sẽ tác động tích cực đến chiều hướng phát triển kinh tế
Đông Bắc Á. Đây là yếu tố trội bởi cơ hội cho đầu tư và buôn bán kể cả
dịch vụ từ các đối tác có nền kinh tế phát triển hơn sẽ lớn hơn; khách
hàng từ bất kể quốc gia nào cũng đều có thể hưởng lợi khi quan hệ với
Trung Quốc vì hàng hoá chế tạo tại Trung Quốc có giá rẻ và chất lượng
đảm bảo.
Điều người ta quan tâm là liệu một nền kinh tế đang tăng tốc độ như
Trung Quốc với một hệ thống công nghiệp đồ sộ tiêu tốn nhiều năng lượng
(tiêu thụ năng lượng lớn thứ 2 sau Mỹ) sẽ ảnh hưởng như thế nào đến an
ninh năng lượng ở khu vực và cả trên phạm vi toàn cầu trong bối cảnh giá
dầu mỏ biến động theo chiều hướng xấu. Nếu công cuộc cải tổ cơ cấu kinh
tế ở nước này diễn ra không như mong muốn và sự điều chỉnh chính sách
của chính phủ thiếu hiệu quả thì những tác động tiêu cực từ Trung Quốc
tới nền kinh tế khu vực là rất có thể.
6. Các nền kinh tế Đông Bắc Á là những đối tác lớn của Việt Nam
hôm qua, hôm nay và cả trong tương lai. Điều này cũng có nghĩa là sự tác
động của kinh tế Đông Bắc Á tới Việt Nam thực sự to lớn và lâu dài.
Người ta có thể định lượng được sự tác động này thông qua các quan hệ
kinh tế và điều này đã được phân tích ở phần tác động tới Việt Nam. Đã
hơn một thập kỷ qua, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc luôn
chiếm vị trí là 4 trong 5 đối tác lớn nhất của Việt Nam trong thương
mại, FDI và ODA. Với những động thái quan hệ như hiện nay, người ta hoàn
toàn lạc quan tin rằng, các đối tác này vẫn là những trụ cột chính
trong quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam. Điều lưu ý là chiều hướng
phát triển kinh tế Đông Bắc Á trong tương lai suy cho cùng phụ thuộc vào
các nền kinh tế chủ chốt này. Nói như vậy cũng có nghĩa là tác động của
kinh tế Đông Bắc Á đến Việt Nam phần lớn thông qua các quan hệ kinh tế
của họ với Việt Nam.
II. Gợi ý cho Việt Nam
1. Nhận thức đúng tầm quan trọng của kinh tế Đông Bắc Á như một thực thể kinh tế mang tính khu vực
Thực tế ở nước ta trong nhiều năm gần đây cho thấy, ít có ai hiểu và
thảo luận về kinh tế Đông Bắc Á như một thực thể kinh tế khu vực mà
người ta thường đề cập kinh tế Đông Bắc Á như là kinh tế của từng quốc
gia. Cần phải hiểu rằng, khi nói tới kinh tế Đông Bắc Á là nói tới hai
khía cạnh, đó là kinh tế của từng quốc gia và kinh tế Đông Bắc Á như một
khái niệm mang tính khu vực. Với các xu hướng phát triển như hiện nay,
kinh tế Đông Bắc Á được định hình như một nền kinh tế khu vực trong
tương lai theo đúng với cách hiểu thông thường. Khi một FTA hình thành,
các mối liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong khu
vực này sẽ gia tăng. Và khi đó một kiểu ứng xử mới với các nền kinh tế
ngoài khu vực sẽ xuất hiện, cùng với nó là những tác động đến các đối
tác sẽ gia tăng. Điều lưu ý là mạng sản xuất Đông Bắc Á đã hình thành và
đang lan toả ảnh hưởng. Chúng ta đã trực tiếp có các quan hệ với hệ
thống mạng này; bằng chứng là sự có mặt ngày càng tăng của các MNCs đến
từ các nền kinh tế Đông Bắc Á thông qua luồng vốn FDI. Phương thức kinh
doanh và cơ chế hoạt động của các MNCs ở Việt Nam tương tự như hệ thống
mạng sản xuất Đông Bắc Á, cho dù trình độ phát triển chưa cao bằng, song
trong những năm tới, khi liên kết khu vực được đẩy mạnh, sự kết nối
mạng sản xuất ở Việt Nam với các nền kinh tế Đông Bắc Á sẽ chặt chẽ hơn.
Và khi đó cái gọi là “chuỗi giá trị” - như một số nhà nghiên cứu Việt
Nam thích dùng - do các MNCs tạo dựng trên quy mô khu vực và toàn cầu sẽ
phát huy tác dụng.
2. Cần hoạch định một chiến lược hợp tác kinh tế với khu vực Đông Bắc Á.
Như đã nói ở trên, chúng ta có quan hệ kinh tế khá chặt chẽ với các
nền kinh tế chủ chốt ở khu vực này và những đóng góp của họ đối với Việt
Nam trên nhiều phương diện là rất lớn; Ở đó phải nhấn mạnh tới đóng góp
về thu nhập, việc làm, chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý …v.v,
song chúng ta thiếu một chiến lược hợp tác kinh tế với họ, và cần phải
hoạch định chiến lược này.
Mục tiêu chính của chiến lược hợp tác kinh tế Việt Nam - Đông Bắc Á
là nhằm tạo dựng các đối tác chiến lược với các nền kinh tế hàng đầu ở
khu vực này; Tận dụng và khai thác tốt nhất các lợi thế của hợp tác kinh
tế khu vực Đông Bắc Á và của từng đối tác.
Nội dung của chiến lược bao gồm hai cụm vấn đề đó là chiến lược đối
với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan; và dự báo chiến lược hợp
tác kinh tế với toàn khu vực. Chiến lược này cần được hoạch định trong
sự tương tác giữa khả năng hội nhập khu vực của Việt Nam với xu hướng
toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế đang gia tăng.
3. Xây dựng một cơ chế đặc biệt có thể gọi là chiến lược dành cho các MNCs Đông Bắc Á.
Cơ sở để tạo dựng cơ chế này là chiến lược phát triển kinh
tế của Việt Nam và khả năng cũng như chiến lược của các MNCs Đông Bắc Á
tại Việt Nam. Cơ chế này nhằm tới xây dựng và kết nối với mạng sản xuất
Đông Bắc Á và quy đó khai thác có hiệu quả hơn những lợi thế hệ thống
mạng này. Như đã biết, lực lượng chủ công của FDI là từ các MNCs, bởi
vậy việc thu hút nguồn vốn này phải được thực thi thông qua một hệ thống
các chính sách có chủ đích, có ưu tiên và thông qua một cơ chế riêng.
Điều cần nhấn mạnh là xây dựng cơ chế này, về thực chất là tạo ra “một sân chơi” dành cho các nhà đầu tư lớn đến từ Đông Bắc Á.
4. Xây dựng mét chính sách ưu tiên thu hút ODA từ các nền kinh tế chủ yếu ở Đông Bắc Á.
Trong 4 nền kinh tế hàng đầu ở khu vực này, Nhật Bản chiếm giữ vị trí
số một về tài trợ ODA cho Việt Nam trong nhiều năm. Ba nền kinh tế còn
lại, khả năng tài trợ rất lớn song khối lượng tài trợ ODA cho Việt Nam
chưa nhiều. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao thu hút được nhiều ODA hơn
nữa, bởi xét trên nhiều phương diện nguồn vốn này rất quan trọng đối với
sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá Việt Nam.
Cần phải có một chính sách ưu tiên mà mục tiêu chính là duy trì mức
tài trợ ODA từ Nhật Bản cho Việt Nam như những năm gần đây và thu hút
nhiều hơn ODA từ Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan. Chính sách này phải
thiết kế làm sao cho các đối tác này trừ Nhật Bản coi Việt Nam là một ưu
tiên trong chính sách ODA của họ. Lợi thế của chúng ta là Việt Nam
trong hơn một thập kỷ qua đã có quan hệ tốt với Hàn Quốc, Trung Quốc và
Đài Loan. Đây là cơ sở để Việt Nam xây dựng một chính sách thu hút ODA
từ các đối tác chủ yếu ở Đông Bắc Á.
5. Coi trọng việc đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ trực tiếp các chương trình hợp tác với khu vực Đông Bắc Á.
Việc đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao là một đòi hỏi rất bức xúc
hiện nay bởi chính quá trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới
đặt ra yêu cầu đó. Chúng ta sẽ tận dụng được những lợi thế và hạn chế
được những bất lợi từ quá trình hội nhập này nếu chuẩn bị tốt những điều
kiện cần thiết, ở đây việc đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao là một
trong số đó. Như vậy việc coi trọng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao
là đòi hỏi chung khi Việt Nam gia tăng hội nhập vào nền kinh tế khu vực
và thế giới.
Riêng với các chương trình hợp tác giữa Việt Nam với khu vực Đông Bắc
Á, chúng ta cần chú trọng hơn về các phương diện; đặc trưng của hội
nhập Đông Á, văn hoá, lịch sử Đông Bắc Á; và đặc biệt là đào tạo tiếng
Trung Quốc, tiếng Nhật Bản và tiếng Hàn Quốc.
Như đã nói ở trên, kinh tế Đông Bắc Á với những xu hướng phát triển
như dự báo sẽ tiếp tục gây hiệu ứng tích cực cho các đối tác trong khu
vực, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, nếu dự
báo trên không trở thành hiện thực thậm chí một cuộc khủng hoảng tương
tự như khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-1998 nổ ra thì hệ luỵ xấu là
điều đương nhiên. Và điều này đòi hỏi cần có sự nỗ lực phối hợp chính
sách nhiều hơn, sâu hơn và thiết thực hơn giữa các nhà hoạch định chính
sách của Việt Nam với các đối tác này.
NGÔ XUÂN BÌNH
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Ngô Xuân Bình, (2006), “Liên kết kinh tế Đông Bắc Á- Liệu có một FTA Trung Quốc-Nhật Bản- Hàn Quốc”, Tạp chí, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á. Số 1(61) Tr. 2.
- Các bản tin tài liệu tham khảo đặc biệt, Tin Kinh tế năm 2005 và 2006 của Thông tấn xã Việt Nam.
- Dr.Yu Yongding, (2005), The Interations between China and the World Economy, Institute of World Economics and Politics, Chinese Academy of Social Sciences.
- Douglas Zhihua Zeng, (2005), China and the Knowledge Economy: Challenges and Opportunities, Knowledge for Development Program, The World Bank.
- Daan Boom, (2005), Capacity Building for Knowledge Economies, Asian Development Bank, Knowledge Management Center Seoul.
- Derek H. C. Chen and Carl J. Dahlman (2005), The Knowledge Economy, the KAM Methodology and World Bank Operations, The World Bank Washington DC 20433.
- Asia Roundtable, (2005), The World Economic Forum’s Center for Strategic Insight (CSI), Singapore.
- Wayne M. (2005), China’s Economic Conditio,Morrison Foreign Affairs, Defense, and Trade Division, Congressional Research Service & The Library of Congress.
- Bert Hofman, (2005), Issues for China’s Eleventh Five-Year Plan, Stanford Center for International Development Conference on: China’s Policy Reforms: Progress and Challenges, , Lead Economist, World Bank Office Beijing.
- Staff Report for the 2005 Article IV Consultation, prepared by the Staff Representatives for the 2005 Consultation with the People’s Republic of China, International Monetary Fund, People’s Republic of China, approved by David Burton and Carlos Muñiz, July 8, 2005.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á, số 1, 2007