Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

2 Biển Đông trong Chính trị Khu vực

Biển Đông không chỉ phản ánh cách thức “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc mà nó còn bị ảnh hưởng bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng, cân bằng quyền lực của các cường quốc thế giới và khu vực như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Indonesia….


Mặc dù gần đây sự chú ý của thế giới đều tập trung vào sự ồn ào xung quanh vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên và nỗ lực của Trung Quốc buộc Nhật Bản phải thừa nhận có tồn tại tranh chấp tại quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư), nhưng xét nhiều phương diện thì Biển Đông vẫn là tâm điểm địa chính trị khu vực tại Ấn Độ - Thái Bình Dương. Nó không chỉ phản ánh sự trỗi dậy của Trung Quốc mà còn phản ánh một cách thức hành xử mới của Trung Quốc ngày càng rõ nét kể từ năm 2009. Vấn đề Biển Đông bị ảnh hưởng bởi cân bằng quyền lực khu vực, nhưng đồng thời nó cũng thể hiện mong muốn về một cấu trúc dựa trên luật lệ có thể tạo ra một môi trường để duy trì sự cân bằng đó. Điều đó buộc Mỹ phải “tái cân bằng” ở châu Á để tập trung chú ý hơn đối với Đông Nam Á. Và vấn đề Biển Đông còn lôi kéo sự chú ý của một loạt các cường quốc khu vực khác đẩy mạnh việc xây dựng quan hệ đối tác an ninh, từ Nhật Bản đến Indonesia, Việt Nam và Ấn Độ.
Không thể phủ nhận rằng Biển Đông là con đường biển hết sức quan trọng, nằm án ngữ ngay tại các nút thắt tại phía đông Ấn Độ Dương và quần đảo Indonesia. Hơn một nửa các tuyến đường biển của Trung Quốc (21/39) đi qua Biển Đông, tương đương khoảng 60% thương mại của nước này. Với cách tính tương tự như vậy, Biển Đông chiếm khoảng một phần ba thương mại của thế giới với phần lớn các nền kinh tế năng động nhất đang nổi lên, cũng như nguồn cung năng lượng và hàng hóa phụ thuộc vào con đường biển này. Tất cả điều này có lẽ không quan trọng bằng việc các hòn đảo nhỏ nằm rải rác ở Biển Đông đang là đối tượngtranh chấp lãnh thổ trên biển liên quan đến Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Bên cạnh đó, căng thẳng này còn bị ảnh hưởng bởi nhận thức về các nguồn tài nguyên phong phú tại Biển Đông, từ hydrocarbon cho đến thủy hải sản.
Sự nổi lên của châu Á với vai trò là đầu tàu kinh tế thế giới điều hoàn toàn có thể nhưng không phải là không thể đảo ngược. Biển Đông đặt ra thách thức to lớn đối với châu Á: tạo ra những thể chế khu vực giải quyết tình trạng mất an ninh, giảm thiểu khả năng xung đột, khuyến khích hành động tập thể trong các vấn đề an ninh phi truyền thống và tạo nền tảng cho giải pháp hòa bình các tranh chấp theo luật pháp quốc tế. Hiện không tồn tại một cấu trúc nào có tính tổng thể như vậy. Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) có tiềm năng nhưng vẫn còn yếu kém và vai trò tương lai của nó đối với an ninh khu vực vẫn chưa được quyết định. EAS không những bị giới hạn bởi việc thảo luận chỉ tập trung vào các vấn đề an ninh mềm mà nó còn thiếu các khuôn khổ được thể chế hóa để theo dõi các vấn đề. Do thành phần tham gia khá cân bằng và rộng khắp trong khu vực, Trung Quốc không thể phát huy sự chi phối của mình đối với EAS, một cơ chế do ASEAN dẫn dắt. Chính vì vậy, Trung Quốc rất miễn cưỡng trong việc trao cho diễn đàn này một vai trò lớn hơn.
***
Như vậy, chính xác vì sao Biển Đông lại đóng vai trò quan trọng như vậy trong chính trị khu vực? Để có một kết luận hợp lý cần phải hiểu được câu thành ngữ của người Hán được Đặng Tiểu Bình phổ biến: “Thực sự cầu thị” (dựa vào thực tế để hiểu rõ căn nguyên và diễn biến của sự việc – ND). Có lẽ không một lý do nào thuyết phục hơn là sự suy giảm đáng kể vai trò của câu khẩu hiệu khác của Đặng: “Ẩn mình chờ thời”. Kể từ năm 2009, thế giới đã chứng kiến một khía cạnh mới của cái từng được gọi là “sự trỗi dậy hòa bình” hay “phát triển hoà bình” của Trung Quốc. Sự khẳng định ngày càng mạnh mẽ của Trung Quốc về “lợi ích cốt lõi” - những lợi ích hiện đang được tô đậm thêm bởi “giấc mơ Trung Hoa” dựa trên sức mạnh quân sự ngày càng tăng của một nhà nước độc tài - đang trở thành gốc rễ của sự bất ổn tại châu Á.
Trở lại những ngày tháng “trỗi dậy hòa bình” năm 2002, Trung Quốc sẵn sàng ngồi vào bàn đàm phán với các nước ASEAN để ký kết “Tuyên bố Ứng xử giữa Các bên tại Biển Đông” (DOC), bao gồm cả việc tôn trọng tự do hàng hải phù hợp với các nguyên tắc luật quốc tế đã được chấp nhận rộng rãi trên toàn cầu, cam kết giải quyết bằng biện pháp hòa bình các tranh chấp lãnh thổ và tài phán, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. DOC mở ra hy vọng rằng nó sẽ dẫn đến việc thông qua một Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông (COC) nhằm thúc đẩy hơn nữa hòa bình và ổn định khu vực. Tuy nhiên hy vọng này cho đến giờ vẫn chưa được thực hiện, trong khi tranh chấp lãnh thổ thì ngày một leo thang. Một Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ đã tỏ ra không khoan nhượng và rất khó để đưa họ đến bàn đàm phán.
Ông Obama lên nắm quyền tổng thống và cam kết rút quân Mỹ ra khỏi các vũng lầy quân sự ngoài nước không lâu sau khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra bắt nguồn từ Phố Wall năm 2008. Sáng kiến của ông Obama về việc hình thành một mối quan hệ “G-2” giữa Mỹ và Trung Quốc tuy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn nhưng đã bị Trung Quốc khai thác như một tín hiệu cho thấy sự đi xuống không thể tránh khỏi của Mỹ tại châu Á và loan báo về sự trỗi dậy của mình. Mỹ đã phản ứng trước sự thay đổi quyền lực này thống qua chiến lược “xoay trục” hay tái cân bằng đối với châu Á – Thái Bình Dương, khẳng định quyết tâm duy trì vị thế vượt trội của mình tại khu vực.
Ngoài ra còn phải kể đến một cơ hội khác ở khu vực mà Trung Quốc đang chờ đợi để khai thác, đó là sự đi xuống của một Nhật Bản đang già đi và yếu kém về kinh tế. Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) lên nắm quyền vào năm 2009 phát đi tín hiệu về mong muốn xoay trục đến châu Á với Trung Quốc là trung tâm và thậm chí còn khẳng định rằng an ninh Nhật Bản có thể được thúc đẩy cân bằng bởi mối quan hệ đồng minh lâu năm với Mỹ và bởi anh hàng xóm Trung Quốc đang trỗi dậy. Và kết quả không chỉ là sự chấm dứt thực sự đối với đàm phán Trung – Nhật về việc chia sẻ nguồn tài nguyên khí đốt tại Biển Hoa Đông, mà còn sự sỉ nhục đối với Nhật Bản trong một bế tắc về quần đảo Senkaku năm 2010. Những biện pháp trừng phạt kinh tế mang tính chèn ép với Nhật Bản và những vụ việc quấy rối hoạt các động kinh tế của Nhật Bản tại Trung Quốc nổ ra ngay sau đó, và hiện các hành động này vẫn diễn ra dưới các hình thức khác nhau.
Điều này đưa chúng ta trở lại với điểm lõi về mô thức hành xử mới của Trung Quốc: đó là sự quả quyết bằng ngoại giao và quân sự về “lợi ích cốt lõi” ngày càng mở rộng của Trung Quốc. Trước năm 2009, Trung Quốc chỉ tuyên bố Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương là lợi ích cốt lõi. Trong cùng năm đó, lợi ích cốt lõi đã được mở rộng bao gồm các mục tiêu khác ở trong nước, đặc biệt là việc duy trì quyền lực của một hệ thống do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo.
Tuy nhiên kể từ đó, “lợi ích cốt lõi” ngày cảng trở nên bành trướng. Vào năm 2010, phạm vi (lợi ích cốt lõi) được mở rộng thành chủ quyền của Trung Quốc đối với gần như toàn bộ Biển Đông. Năm 2012, quần đảo Senkaku mà Nhật Bản quản lý cũng được thêm vào danh sách lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Vấn đề sẽ không quá lớn nếu như những khẳng định trên của Trung Quốc chỉ giới hạn trong những lời nói hay tuyên bố mang tính ngoại giao. Tuy nhiên điều này đã sớm trở nên rõ ràng khi quân sự cũng dính líu vào vấn đề. Vào tháng 11 năm 2012, Chủ tịch sắp mãn nhiệm Hồ Cẩm Đào cam kết “kiên quyết bảo vệ quyền và lợi ích biển của Trung Quốc, xây dựng Trung Quốc trở thành một cường quốc biển”. Người kế nhiệm, ông Tập Cận Bình đã phát biểu về “giấc mơ một cường quốc và một quân đội hùng mạnh” vào năm 2049. Ông Tập cũng đưa ra tín hiệu về một chính sách dựa trên “lợi ích cốt lõi” nơi không thể có sự thỏa hiệp: “Chúng ta sẽ trung thành với con đường phát triển hòa bình nhưng sẽ hoàn toàn không từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của chúng ta, hoàn toàn không thể hy sinh các lợi ích quốc gia cốt lõi”.
Không ngạc nhiên khi đánh giá gần đây nhất của Lầu Năm góc cho rằng Trung Quốc đang theo đuổi chương trình hiện đại hóa quân sự toàn diện nhằm “đánh và giành chiến thắng trong những cuộc xung đột quân sự khu vực cường độ cao, thời gian ngắn”.
Các chuyên gia cho rằng Bắc Kinh luôn làm những gì mà họ nói sẽ làm, biết tận dụng các cơ hội, chẳng hạn như các dấu hiệu về sự yếu kém của các đối thủ tiềm tàng.
Trong bối cảnh như vậy, giấc mộng của Trung Quốc và lợi ích cốt lõi mới của nước này là trở thành một cường quốc biển phù hợp với địa vị cường quốc của mình. Tại Biển Hoa Đông, Trung Quốc muốn mở rộng ảnh hưởng trên biển của mình ở cả chuỗi đảo thứ nhất và chuỗi đảo thứ hai, nhưng lại bị phong tỏa bởi sự hiện diện mạnh mẽ của hải quân Mỹ và Lực lượng Phòng vệ biển của Nhật Bản (MSDF). Tuy nhiên trên Biển Đông, Trung Quốc lại có cơ hội tuyệt vời để tăng cường sự hiện diện của mình, tại khu vực này các quốc gia tương đối yếu kém, bị chia rẽ bởi các yêu sách cạnh tranh lẫn nhau. Bên ngoài các eo biển của quần đảo Indonesia, Biển Đông vừa là con đường biển chiến lược vừa là điểm yếu của Trung Quốc. Đây là khu vực mà sự khẳng định về sức mạnh trên biển của Trung Quốc sẽ tập trung trong những năm tới.
Triển vọng an ninh khu vực châu Á đang ngày càng bị đe dọa kể từ khi Trung Quốc ban hành cái gọi là “Đường 9 đoạn” bao phủ đến 90% Biển Đông. Yêu sách này hoàn toàn dựa trên cách diễn giải về lịch sử của Trung Quốc và nó không hề phù hợp với bất kỳ quy định nào của UNCLOS về thềm lục địa hay các yêu sách quyền tài phán biển nào khác.
Hình thức khẳng định “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc không chỉ dừng lại ở Biển Đông. Điều này cũng tương đồng đáng kể với những gì đang xảy ra tại Biển Hoa Đông. Vào tháng 4 năm 2013, Trung Quốc đã liên tiếp cử các hạm đội tàu tuần tra biển vào các vùng lãnh hải quần đảo Senkaku. Thuyền trưởng James Fanell, một quan chức hải quân Mỹ, gần đây đã kết luận rằng Hải giám Trung Quốc “là một tổ chức chuyên đi quấy phá chủ quyền lãnh thổ trên biển.” Trong khi đó, vào tháng 3 năm 2013, một lực lượng đặc nhiệm của hải quân Trung Quốc đã đổ bộ lên bãi ngầm James Shoal thuộc yêu sách của Malaysia, gần bờ biển Malaysia, phía cực nam Biển Đông. “Khách du lịch” Trung Quốc tổ chức du lịch đến quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam có yêu sách nhằm thể hiện “việc bảo vệ quyền chủ quyền.”
Bằng việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ mạnh bạo và các hành động chèn ép trong 4 năm qua, Trung Quốc đã gần như biến Biển Đông thành một mối quan ngại đa phương. Thứ nhất, Biển Đông là nơi quy tụ các yêu sách đối lập của nhiều quốc gia, điều đó hạn chế triển vọng cho các cuộc thảo luận song phương thuần túy. Thứ hai, sự bất đối xứng về sức mạnh khiến các quốc gia ASEAN phải theo đuổi cách tiếp cận đa phương, bao gồm cả COC. Thứ ba, Trung Quốc hầu như không làm gì để đảm bảo với cộng đồng quốc tế rằng mặc dù yêu sách quyền lịch sử của Trung Quốc vẫn là chủ đề cần đàm phán, yêu sách hoàn toàn khác với khái niệm vùng nước lịch sửhay nội thủy, và Trung Quốc sẽ không cản trở tự do hàng hải vì mục đích thương mại và hòa bình. Trung Quốc cũng không đưa ra được thêm bất cứ cam kết nào đối với việc khai thác tài nguyên thông qua các đề xuất tạm thời về khai thác chung như loại hình mà Nhật Bản và Trung Quốc đã nỗ lực bất thành tại Biển Hoa Đông năm 2008.
ASEAN chịu tác dụng phụ nặng nề nhất trong nỗ lực lôi kéo Trung Quốc vào các khuôn khổ đa phương nhằm giải quyết tranh chấp Biển Đông. Tính liên kết của ASEAN bị sụp đổ dưới sức ép của Trung Quốc vào tháng 7 năm 2012, khi Trung Quốc chặn lối vào của Philippines đối với bãi cạn Hoàng Nham (Scarborough Shoal). Vào tháng 11 năm 2012, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN, Chủ tịch Campuchia đã đưa ra tuyên bố khẳng định đã có sự đồng thuận giữa các nhà lãnh đạo ASEAN là không “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông, chỉ có Philippines công khai phủ nhận điều này. Vào tháng 4 năm 2013, các bộ trưởng ASEAN đã lập lại mong muốn của mình nhằm đưa Trung Quốc vào các cuộc đàm phán giải quyết căng thẳng trên biển, và nhằm đạt được một nguyên tắc chung tại các khu vực tranh chấp tại Biển Đông trước khi tiến hành các cuộc thảo luận đã lên kế hoạch về COC. Tuy nhiên, các viễn cảnh đó dường như xa vời. Trung Quốc khẳng định nước này sẽ chỉ tiến hành đàm phán COC khi “thời điểm đã chín muồi.”
Nếu như sự gắn kết của ASEAN vẫn bị đe dọa, thì không thể tránh được việc các quốc gia đang phải gánh chịu sức ép của Trung Quốc như Việt Nam và Philippines sẽ tích cực tìm kiếm sự đảm bảo lớn hơn của Mỹ. Điều này cho thấy rằng chính cách tiếp cận của Trung Quốc đối với một ASEAN đang suy yếu cuối cùng sẽ dẫn đến sự hiện diện lớn hơn của “các cường quốc bên ngoài khu vực”, điều mà Trung Quốc kiên quyết phản đối. Lúc đó sẽ chẳng có ai để đổ lỗi ngoài bản thân Trung Quốc. Hiện tại, đã có những nỗ lực nhằm vực dậy sự đoàn kết của ASEAN.
Lời phàn nàn của Trung Quốc rằng chính sách xoay trục của Mỹ chỉ làm gia tăng căng thẳng khu vực không phù hợp với những hệ quả “tự làm tự chịu” do hành vi bắt nạt của chính Trung Quốc gây ra. Vào tháng 4 năm 2013, Sách trắng quốc phòng của Trung Quốc đã lên án “sự gia tăng chủ nghĩa bá quyền, chính trị cường quyền và chủ nghĩa thực dân kiểu mới”, nhưng những ngôn từ này cũng có thể sử dụng để miêu tả cách tiếp cận của Trung Quốc đối với Đông Nam Á trong 2 năm qua. Cách duy nhất để Trung Quốc loại bỏ vòng luẩn quẩn bất lợi này là tham gia một cách có thực chất với ASEAN về một COC được cả hai bên chấp nhận nhằm ràng buộc tất cả các bên bằng các quy tắc đã được thiết lập, trong khi chờ giải pháp giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ.
Bế tắc giữa Trung Quốc và ASEAN trong tranh chấp Biển Đông dẫn đến thay đổi trong chính sách ngoại giao của Mỹ. Tuy vẫn duy trì quan điểm nhất quán từ năm 2010 về tự do hàng hải, thương mại không bị cản trở và tôn trọng luật pháp quốc tế, Mỹ giờ đây cũng nhấn mạnh đến vai trò “không thể thiếu” của ASEAN trong việc duy trì ổn định khu vực. Mỹ thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ đối với đoàn kết ASEAN và những nỗ lực của khối này nhằm tạo ra một khuôn khổ dựa trên luật lệ đối với Biển Đông. Mỹ cũng đặt ưu tiên về các mối quan hệ kinh tế với ASEAN, thậm chí là thúc đẩy Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) với một số quốc gia ASEAN.
Sự chuyển hướng trong cách tiếp cận của Mỹ bác bỏ luận điệu chỉ trích rằng chính sách “xoay trục” của Mỹ đang làm gia tăng căng thẳng khu vực. Như Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Ashton Carter đã nêu ra trong bài phát biểu của mình tại CSIS vào tháng 4 năm 2013, “tái cân bằng của Mỹ đối với châu Á tập trung chủ yếu xuất phát từ nhận thức về kinh tế và chính trị chứ không phải về quân sự. “Nhận thức” đã được củng cố bởi “4 trụ cột của tái cân bằng”, bao gồm: quan hệ đối tác, sự hiện diện, triển khai sức mạnh và nguyên tắc tự do hàng hải. Tuy nhiên, với nền tảng sự hiện diện lâu dài tại châu Á – Thái Bình Dương, việc tăng cường sức mạnh quân sự của Mỹ sẽ được tiến hành dần dần. Hải quân Mỹ sẽ triển khai từ 52 tàu chiến hiện nay lên 62 tàu vào năm 2020.
Tất nhiên, sự “xoay trục” của Mỹ đang phải đối mặt với tương lai chưa chắc chắn bởi những tín hiệu thiếu quyết tâm và mong muốn lôi kéo Trung Quốc đóng vai trò tích cực hơn, nhưng chỉ có thể diễn ra theo điều kiện của Trung Quốc. Với áp lực ngân sách và hội chứng rút lui đang phổ biến ở Washington, chính sách “xoay trục” có thể yếu dần hoặc thậm chí là biến mất. Lợi ích về sự ổn định của khu vực chỉ có thể được được thực hiện khi Mỹ kiên định với sự lựa chọn chiến lược có ảnh hưởng lớn nhất hiện nay: duy trì những cam kết an ninh tại châu Á – Thái Bình Dương.
***
Ấn Độ có truyền thống thận trọng trong việc can dự vào địa chính trị khu vực, tuy nhiên sự cẩn trọng đó hiện đang dần biến mất. Vấn đề Biển Đông chính là tác nhân trực tiếp gây ra sự thay đổi này.
Giao thương của Ấn Độ đã tăng lên tới 41% GDP (năm 2011). Năm 2012, gần 1/3 thương mại Ấn Độ với các nền kinh tế Đông Á và hơn một nửa thương mại Ấn Độ (55%) với châu Á – Thái Bình Dương được thực hiện thông qua Biển Đông. Năm 2011, Trung Quốc đã cảnh báo công ty dầu khí ONGC của Ấn Độ rằng hoạt động khai thác dầu khí của ONGC ở Việt Nam là bất hợp pháp và vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Đó cũng là thời điểm khi mà Ấn Độ và Việt Nam ký kết hợp đồng 3 năm đầu tư và hợp tác khai thác, sản xuất năng lượng và tinh chế lọc dầu. ONGC đã thực hiện công việc khai thác trong khu vực này trong 30 năm qua, và Ấn Độ đã giữ vững lập trường của mình.
Khi đối đầu giữa Trung Quốc – Philippines đối với bãi cạn Hoàng Nham (Scarborough) nổ ra vào năm 2012, người phát ngôn Văn phòng Bộ Ngoại giao Ấn Độ đã có bước đi khá bất ngờ khi tuyên bố rằng “duy trì hòa bình và an ninh khu vực là lợi ích cốt yếu đối với cộng đồng quốc tế. Ấn Độ kêu gọi cả hai bên kiềm chế và giải quyết vấn đề thông qua ngoại giao theo các nguyên tắc của luật quốc tế.” Tại các Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN/EAS, Ấn Độ cũng yêu cầu tự do hàng hải và đi lại trên Biển Đông, phù hợp với luật quốc tế. Ấn Độ cũng cùng với các nước kêu gọi tôn trọng luật biển, UNCLOS. Trả lời câu hỏi về vấn đề Biển Đông, Tư lệnh hải quân, Đô đốc D.K. Joshi đã tuyên bố rõ vào ngày 3 tháng 12 năm 2012 rằng mối quan ngại hàng đầu của Ấn Độ là “tự do hàng hải trên các vùng biển quốc tế.” Tuy nhiên ông cũng nói thêm rằng: “không phải chúng tôi mong muốn được hiện diện tại các vùng biển này thường xuyên, nhưng yêu cầu khi có tình huống xảy ra mà lợi ích quốc gia bị ảnh hưởng, chẳng hạn như trường hợp của công ty dầu khí ONGC Videsh, thì chúng tôi buộc phải đến đó và chúng tôi đã được chuẩn bị cho tình huống như vậy.” Nhận xét thực tế của ông đã gây nên không ít sóng gió chính trị nhưng nó lại phản ánh thực tế của vấn đề.
Từ năm 2006, chưa kể đến việc Đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ tuyên bố “toàn bộ bang Arunachal Pradesh (của Ấn Độ) là lãnh thổ của Trung Quốc”, thì Ấn Độ đã phải đối mặt với những khiêu khích leo thang của Trung Quốc trong tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết giữa hai quốc gia. Danh sách thì dài nhưng các hành vi vi phạm vẫn không hề giảm đi. Tấm bản đồ in trên hộ chiếu của Trung Quốc phát hành năm 2012 còn đưa các phần lãnh thổ của Ấn Độ và hầu hết Biển Đông thành phần lãnh thổ của Trung Quốc.
Vụ xâm nhập sâu vào khu vực Depsang của Ladkh, vùng lãnh thổ Ấn Độ tới 19km của quân đội Trung Quốc vào tháng 4 năm 2013 đã lay chuyển sự yên tâm của Ấn Độ về ý định của Trung Quốc. Mặc dù vụ bế tắc trong vòng 20 ngày cuối cùng đã được giải quyết sau bằng việc Trung Quốc rút quân, nhưng các chuyên gia vẫn còn lúng túng về vấn đề này. Minxin Pei khi trích dẫn những hiểu biết sâu sắc của Henry Kissinger về Trung Quốc cho rằng hành vi có vẻ như phi lý này có thể là một phần của “chiến lược răn đe tấn công”. Mặc dù đã có nhiều thỏa thuận về duy trì hòa bình và ổn định dọc đường biên giới tranh chấp được ký vào năm 1993 và 1996, cũng như nghị định thư 2005 về xây dựng lòng tin giữa quân đội hai quốc gia (CBMs), nhưng hành vi của Trung Quốc vẫn không hề kiềm chế. Giờ rõ ràng cần phải có những hiệp định hiệu quả hơn về xây dựng lòng tin giữa quân đội hai nước, và hành động của Trung Quốc cũng gợi ý một cách gián tiếp rằng nước muốn đẩy nhanh quá trình giải quyết tranh chấp biên giới. Song Trung Quốc không thể làm điều đó bằng cách xâm phạm lén lút vào lãnh thổ của Ấn Độ.
Ấn Độ xưa nay vẫn chưa có can dự sâu rộng với Trung Quốc ở nhiều lĩnh vực để giải quyết vấn đề biên giới. Cách tiếp cận ôn hòa và tin tưởng vào Trung Quốc này sẽ không còn khả thi, nếu nhìn vào mức độ phản đối của công chúng và giới truyền thông Ấn Độ đối với hành vi xâm phạm của Trung Quốc. Trong chuyến thăm của Thủ tướng mới đương chức Lý Quốc Cường tới New Delhi vào ngày 20/5/2013, thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã tuyên bố rõ ràng rằng “Cơ sở cho sự phát triển và mở rộng mối quan hệ giữa hai nước là hòa bình và ổn định đường biên giới.” Trong tương lai, có lẽ Ấn Độ sẽ coi đây là “vấn đề cốt lõi” của mình. New Delhi sẽ không chấp nhận các hành động khiêu khích hay nỗ lực nhằm làm thay đổi hiện trạng của Trung Quốc mà không gây tác động gì đến mối quan hệ chung của hai bên. Ấn Độ cũng sẽ thay đổi cách tiếp cận đối với các cuộc đàm phán biên giới và tìm kiếm sự minh bạch nhiều hơn nữa về các kế hoạch của Trung Quốc trong việc xây dựng hàng loạt các đập nước trên sông Brahmaputra.
Như vậy, không có gì ngạc nhiên khi Ấn Độ tăng cường các mối quan hệ đối tác chiến lược với ASEAN trong những tháng gần đây. Lần đầu tiên, Ấn Độ và ASEAN đã cam kết “hợp tác hơn nữa vì sự phát triển của một cấu trúc khu vực mở, cân bằng, toàn diện và minh bạch.” Ấn Độ cũng cam kết tăng cường can dự với ASEAN “vì an toàn và an ninh biển, tự do hàng hải và giải quyết hòa bình các tranh chấp biển phù hợp với luật pháp quốc tế.”
Việc thắt chặt hơn nữa mối quan hệ an ninh biển giữa Ấn Độ và Nhật Bản có lẽ là do kết quả từ sự quyết đoán của Trung Quốc trong khu vực. Và Ấn Độ cũng có thể tiếp tục tăng cường khuôn khổ hợp tác quốc phòng với Mỹ và tháo gỡ các rào cản hiện nay đối với các cuộc tập trận/hoạt động an ninh đa phương trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương.
Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã đưa ra cách tiếp cận của Ấn Độ đối với vấn đề an ninh biển tại châu Á – Thái Bình Dương và hợp tác giữa Ấn Độ và Nhật Bản vào ngày 24/5/2013 như sau:
“Cả Ấn Độ và Nhật Bản đều là các quốc gia biển quan trọng. Vì vậy an ninh và an toàn đối với các tuyến đường giao thương biển, đặc biệt là Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương là điều thiết yếu đối với hai quốc gia. Ấn Độ ủng hộ tự do hàng hải và không cản trở thương mại hợp pháp tại các vùng biển quốc tế, cũng như quyền qua lại trên các vùng biển phù hợp với các nguyên tắc đã được quy định của luật quốc tế. Chúng tôi cho rằng, các khu vực tồn tại tranh chấp cần phải được giải quyết hòa bình bởi các bên liên quan thông qua đàm phán. Đây là điều thiết yếu đối với hòa bình và ổn định của khu vực.”
“Ấn Độ có lợi ích rất quan trọng đối với an ninh, ổn định và thịnh vượng của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Những giá trị chung, lợi ích chung và tiềm năng hợp tác kinh tế là trụ cột cho mối quan hệ đối tác toàn cầu và chiến lược của chúng ta. Quan hệ đối tác này là tối cần thiết cho việc thúc đẩy hội nhập kinh tế sâu hơn nữa, cho hợp tác và tăng cường liên kết, an ninh hàng hải và sự nổi lên của một cấu trúc khu vực dựa trên luật lệ, mở và cân bằng.”
Về phần mình, Nhật Bản đã hồi sinh nền ngoại giao “giá trị quan” của mình đối với ASEAN, quay trở lại cách tiếp cận của Thủ tướng Shinzo Abe trong nhiệm kỳ đầu của ông năm 2006 – 2007, đó là tạo ra “một vòng cung tự do và thịnh vượng”. Nhật Bản đang tăng cường hỗ trợ an ninh cho Philippines, Việt Nam và Indonesia, Nhật Bản cũng thâm nhập mạnh mẽ vào Myanmar. Hiện Nhật Bản đang mở rộng mối quan hệ an ninh và quốc phòng với Ấn Độ, đặc biệt là hợp tác an ninh biển và tập trận hải quân song phương. Quan điểm của ông Abe về một châu Á rộng lớn hơn, trong đó có sự hội nhập của Ấn Độ đang trở thành hiện thực.
Indonesia, quốc gia lớn nhất và có ảnh hương nhất trong khối ASEAN đang ủng hộ mạnh mẽ “cân bằng động”, trong đó tất cả các quốc gia trong EAS đều có lợi ích như nhau trong việc xây dựng các chuẩn tắc ứng xử và lòng tin khu vực thông qua các thể chế liên kết, chẳng hạn như EAS, đối thoại ADMM+8 và Diễn đàn Biển ASEAN (AMF). Jakarta cũng đang tuyên truyền cho việc hình thành một bộ nguyên tắc pháp lý ràng buộc của EAS nhằm quản lý căng thẳng khu vực dựa trên Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) và Nguyên tắc Bali được thông qua trong thời gian Indonesia làm Chủ tịch ASEAN năm 2011. Việc giữ chân Trung Quốc trong tiến trình của DOC năm 2002 bằng cách đạt được Bộ Quy tắc Ứng xử ràng buộc trên Biển Đông được Indonesia nhìn nhận là yếu tố trọng tâm trong chính sách của ASEAN.
Vì mục đích của bài viết không phải đề cập đến tất cả các phản ứng của khu vực đối với hành vi quyết đoán của Trung Quốc, nhưng việc đề cập đến vai trò của Úc cũng cần phải tính đến. Micheal Green thuộc CSIS cho rằng Sách trắng quốc phòng 2013 của Úc được Trung Quốc rất hoan nghênh chào đón bởi tuy nó đặt trọng tâm vào việc ngăn chặn các quốc gia thù địch gây sức ép tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, nhưng đáng ngạc nhiên là nó lại thể hiện sự “từ bỏ nỗ lực duy trì cân bằng chiến lược thuận lợi khi sức mạnh của Trung Quốc tăng lên”. Micheal Green còn cho rằng “Nếu như không gian chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương là mục tiêu và quan trọng đối với chiến lược của Úc tới mức phải làm suy yếu chiến lược chèn ép của kẻ thù trong không gian đó, thì tại sao lại không giải thích việc Úc sẽ làm thế nào để hợp tác với các quốc gia biển có ý chí tương tự đối mặt với cùng một thách thức như vậy? Dường như đối với tôi thì các quốc gia như Nhật Bản và Ấn Độ sẽ có tầm nhìn tham vọng hơn về mức độ hợp tác chiến lược, nhưng có lẽ đây là trường hợp điển hình nơi kiểu cư xử khéo léo (tức là, không chọc giận Trung Quốc lo ngại) đã ngăn cản các cuộc thảo luận rõ ràng về những thành tố của một chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương hiệu quả.”
Bài học có thể rút ra từ thái độ mập mờ của Úc là tầm quan trọng không chỉ của việc tìm hiểu đúng đắn những nguyên nhân đằng sau chính sách đối ngoại hung hăng và sự quyết đoán của Trung Quốc trong khu vực, mà còn ở việc áp dụng các cách thức hợp lý để thúc đẩy một châu Á đa cực. Tiến trình này buộc tất các cường quốc đang nổi ở khu vực phải tham gia vào, và không chỉ riêng Mỹ và Trung Quốc quyết định cấu trúc khu vực, mà ở một số khía cạnh, Úc cũng có thể giữ vai trò này.
Không một quốc gia đơn lẻ nào có thể định hình và duy trình cấu trúc an ninh tại châu Á. Trung Quốc nên hợp tác với Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và ASEAN để tăng cường các nỗ lực nhằm thúc đẩy cấu trúc an ninh đa phương cân bằng và dựa trên luật lệ thông qua tiến trình của EAS.
***
 Dù cho các động cơ bên trong khiến Trung Quốc thúc đẩy các “lợi ích cốt lõi” về lãnh thổ khắp châu Á là gì, thì chúng dường như đang được thiết kế để tạo nên các hiện trạng mới trên thực địa và phá vỡ nguyên trạng bằng cả phương thức ngấm ngầm và công khai. Câu hỏi đặt ra là chúng ta nên đánh giá như thế nào về Trung Quốc: bằng các hành động hay bằng giọng điệu “phát triển hòa bình” của quốc gia này? Thật khó mà tin rằng việc Trung Quốc đẩy mạnh chính sách cứng rắn trên nhiều lĩnh vực là các vụ việc riêng lẻ, không nằm trong chiến lược tổng hợp có sự ủng hộ từ lãnh đạo cấp cao. Khi nêu cao vấn đề lịch sử và “mặc cảm nạn nhân” của mình, cái mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc cố tình quên đi đó là không chỉ Trung Quốc mới có quá khứ bị bóc lột và chịu tủi nhục. Nếu những ưu tiên trong nước vẫn tiếp tục thúc đẩy Trung Quốc phô trương sức mạnh chủ nghĩa dân tộc ra bên ngoài, thì chính Trung Quốc sẽ thấy mình ngày càng bị cô lập.
Vì vậy, chúng ta hoàn toàn có thể nêu một “vấn đề lịch sử” đối với Trung Quốc: liệu có phải Trung Quốc đang hướng tới việc phục hưng lại đế quốc bá quyền của mình tại Đông Á? Nếu đúng như vậy thì những thách thức mà chính Trung Quốc tạo ra sẽ ngày càng gia tăng, và những hy vọng về một thế kỷ châu Á với sự thịnh vượng cho khắp khu vực sẽ sớm lụi tàn.
Cách tiếp cận của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông tương tự như thái độ của nước này đối với quần đảo Senkaku và tranh chấp biên giới với Ấn Độ. Bên cạnh nhu cầu xây dựng COC trên Biển Đông nhằm ngăn chặn các xung đột bất ngờ, phi lý và tạo dựng các quy tắc dựa trên luật quốc tế, việc củng cố cân bằng sức mạnh khu vực cũng quan trọng không kém. Ngay cà khi COC được thỏa thuận giữa Trung Quốc và ASEAN, thì hiệu quả của nó còn phụ thuộc vào sự hiện diện của một “môi trường sống phù hợp”.
Diễn giải lại công thức đưa ưa chuộng của Walter Russell Mead, tuy sẽ không có ai bao vây Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng không thể bá quyền thống trị châu Á. Trung Quốc phải chấp nhận một châu Á đa cực, đó là điều không thể tránh khỏi.
Phần nhiều sẽ phụ thuộc vào quyết tâm của Mỹ trong việc thực hiện lời hứa “xoay trục”. Mỹ sẽ cần phải kiềm chế các tiếng nói ngày càng tăng ở Washington về việc quay lại một chính sách châu Á lấy Trung Quốc làm trọng tâm và phải nhận ra tầm quan trọng thực chất của các đối tác khu vực chủ chốt như Ấn Độ và Nhật Bản.
Cuối cùng, chính sách “xoay trục” của Mỹ chỉ có thể được duy trì hiệu quả bằng tín hiệu về sức mạnh và quyết tâm của Mỹ , chứ không phải bằng sự yếu kém. Những người ủng hộ chính sách rút lui của Mỹ tại các khu vực trên thế giới nên hiểu rằng một chính sách “xoay trục” mạnh mẽ sẽ làm giảm được xu hướng chạy đua vũ trang ngày càng tăng và khả năng là hạt nhân hóa khu vực. Trên hết, nó sẽ đảm bảo được lợi ích kinh tế sâu rộng cho nước Mỹ bằng việc tiếp tục đầu tư vào an ninh châu Á – Thái Bình Dương. Logic nền tảng chính sách “xoay trục”, như các nhà lãnh đạo Mỹ đã liên tục chỉ ra, là sự thừa nhận rằng an ninh và thịnh vượng của Mỹ trong thế kỷ 21 phụ thuộc rất nhiều vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Đồng thời Trung Quốc cũng cần thiết phải xem xét lại các lựa chọn chiến lược của mình tại Biển Đông và tác động tiêu cực của những hành vi đe dọa dựa trên “lợi ích cốt lõi” trong tuyên bố yêu sách lãnh thổ, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh và ổn định khu vực tại Ấn Độ - Thái Bình Dương. Vấn đề đặt ra là khi Trung Quốc quyết tâm trở thành cường quốc biển, nước này sẽ tiếp tục coi sự thống trị của mình trên Biển Đông là điều tối quan trọng. Cần phải có nỗ lực ngoại giao rất lớn để đảm bảo hình thành được COC giữa ASEAN và Trung Quốc. Những nỗ lực tái cân bằng của các quốc gia trong EAS theo hướng như vậy không chỉ là điều cần thiết, đó là vấn đề cấp bách của khu vực.
Đại sứ Hemant Krishan Singh là Giám đốc chương trình nghiên cứu quan hệ Mỹ-Ấn tại Hội đồng nghiên cứu Quan hệ Kinh tế Quốc tế của Ấn Độ (Indian Council for Research on International Economic Relations). Bài viết được đăng trên trang CSIS.
Người dịch: Trần Quang
Hiệu đính: Minh Ngọc