Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

5. Mối liên hệ giữa Biển Đông, Biển Hoa Đông và vấn đề chủ quyền trên Biển Đông

Rủi ro xung đột tại Hoa Đông có nguy cơ trầm trọng hơn so với Biển Đông bởi khả năng “đáp trả” trong tương quan lực lượng tại đây. Nếu bỏ qua các giả định về chủ quyền thì cần những gì để tạo nên một công thức “công bằng” và “hợp lý” để chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm giữa các bên yêu sách ở Biển Đông?

 

Tôi được đề nghị nghiên cứu về “Biển Đông trong nền chính trị khu vực”, xin dẫn nguyên văn tiêu đề của phiên thảo luận này. “Chính trị khu vực” là khái niệm khiến cho các nước ASEAN vừa cảm thấy hào hứng, vừa cảm thấy e dè. E dè là bởi phải mất 11 năm kể từ ngày chính thức bắt đầu quan hệ đối thoại (1991) giữa Trung Quốc và ASEAN, hai bên mới ký được Tuyên bố ứng xử của các bên trên Biển Đông DOC (2002). DOC đã bị vi phạm nhiều lần và ở diện rộng trong 9 năm sau đó, trước khi các quốc gia ASEAN và Trung Quốc ký được hướng dẫn thực thi DOC vào năm 2011. Tuy nhiên, những hướng dẫn này cũng nhiều lần bị xâm phạm bởi các động trái thực tế của các bên kể từ năm 2011.
Bản hướng dẫn thực thi DOC thậm chí không còn xuất hiện trên website của ASEAN, www.asean.org. Trước khi văn bản này được khôi phục trên mạng và các nhà chức trách có thẩm quyền lý giải tại sao lại xóa bỏ nó, không khó để kết luận rằng chính bởi những ngôn từ trong bản hướng dẫn thực thi DOC đã bị tranh cãi quá gay gắt trong nội bộ ASEAN nên người ta không thể tiếp tục để văn bản này xuất hiện trên website của ASEAN. Hoặc, có khả năng ai đó đã nghĩ rằng tốt hơn hết là bộ hướng dẫn thực thi DOC nên được xóa đi và chúng ta cùng tiến thẳng tới việc kết thúc các thảo luận đã kéo dài quá lâu để bắt đầu đàm phán một Bộ quy tắc ứng xử (COC) thực sự “có ràng buộc” tại Biển Đông – các cuộc thảo luận này đã được tiến hành liên tục, bắt đầu từ khoảng thời gian hơn một thập kỷ trước thời điểm DOC được ký kết vào năm 2002.
Thay thế DOC bằng COC, coi COC như một vấn đề Biển Đông được ưu tiên trong chương trình nghị sự (và trên website) của ASEAN, ít nhất cũng khiến Bắc Kinh không thể tiếp tục lấy cớ là thực thi DOC để trì hoãn việc hình thành COC. Lý do quan trọng nhất cho việc tại sao COC lại bị kéo dài tới tận một phần tư thế kỷ mới đạt được chừng này kết quả, mà thật ra kết quả này cũng chả đáng kể gì, đó là: thứ nhất, bởi Bắc Kinh chưa bao giờ chấp nhận việc họ sẽ bị hạn chế sự tự do, yếu tố giúp Trung Quốc làm bất cứ điều gì mà họ muốn tại Biển Đông. Thứ hai, đó là thái độ không sẵn sàng của một vài thành viên ASEAN trong việc gây sức ép buộc một Trung Quốc “cứng rắn” phải nhượng bộ do họ lo sợ hoặc bị Trung Quốc trừng phạt, hoặc bị mất đi các lợi ích kinh tế, hoặc bởi cả hai lý do trên.
Chiến lược của Bắc Kinh là sự pha trộn giữa: (i) các hành động can thiệp – vụ Trung Quốc chiếm giữ Bãi cạn Scarborough, (ii) thái độ không khoan nhượng – việc Trung Quốc luôn luôn khẳng định rằng họ có “chủ quyền không thể tranh cãi trên các đảo tại Biển Đông các vùng nước lân cận các đảo này”[1], (iii) chiến thuật mơ hồ - việc Trung Quốc từ chối làm rõ vị trí của các vùng nước “lân cận” này, các khu vực này lớn nhỏ ra sao, và lý do tại sao Trung Quốc lại có quyền tài phán chủ quyền không thể tranh cãi tại đây. Sự mơ hồ này cũng được thể hiện qua quan điểm của người Trung Quốc khi họ nói rằng “thời cơ là chưa chín muồi” cho việc thiết lập COC mà không nói rằng khi nào thì thời cơ sẽ chín muồi, hoặc đưa ra các dấu hiệu báo trước giai đoạn chín muồi này. Trong khi đó, bởi áp lực từ phía Trung Quốc, một số yếu tố của COC được các nhà ngoại giao của ASEAN đề xuất đã bị giảm dần “sức nặng” theo thời gian. Do ý tưởng của Bộ quy tắc ứng xử không phải và cũng chưa bao giờ nhằm để giải quyết các câu hỏi hóc búa về chủ quyền và việc phân bố chủ quyền cho các quốc gia, nên người ta có thể tự hỏi rằng liệu có thể nhượng bộ thêm bao nhiêu được nữa từ bộ quy tắc ứng xử vốn đã không có mấy “sức nặng” này.
Tuy nhiên, ngay cả khi DOC ngày càng trở nên không thực tế và COC chưa rõ số phận ra sao thì ASEAN vẫn chưa bao giờ từ bỏ việc theo đuổi một thỏa thuận như vậy. Trái lại, Brunei, nước chủ tịch hiện thời của ASEAN, đã đưa vấn đề COC trở thành ưu tiên an ninh hàng đầu của khối. Tuy nhiên đây không phải bởi nước chủ tịch nhận thấy đây là chính là bước đột phá khi thời cơ rốt cuộc đã chín muồi giúp ngăn cản không cho các sự cố xảy ra trên Biển Đông, trong đó có các sự cố gây ra bởi các động thái đơn phương của Trung Quốc nhằm thiết lập quyền kiểm soát trên thực tế. Thay vào đó, sự kiên trì của ASEAN khi theo đuổi một công việc có vẻ hơi hão huyền (thiết lập COC - ND) chủ yếu phản ánh mong muốn bảo vệ danh tiếng của riêng họ - “tính trung tâm” trong việc xây dựng hòa bình của châu Á, điều mà ASEAN đang tiếp tục củng cố và khẳng định một cách rõ ràng.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn đang bị đe dọa lại chính là sự toàn vẹn và sự gắn kết của chính bản thân ASEAN. Việc ký kết COC với Trung Quốc, cho dù trong trường hợp COC được ký kết chỉ là một văn bản có chút ít “sức nặng” hay chỉ là một văn bản không có ràng buộc gì cả, sẽ cho thấy một điều đó là ASEAN có thể cùng nhau đàm phán một văn bản với người láng giềng khổng lồ của mình. Nếu ASEAN không đạt được kết quả như vậy, thì khối này sẽ ngày càng khó ngăn Trung Quốc tiếp tục sử dụng từng thành viên của ASEAN để gây khó dễ với thành viên khác thông qua các mối quan hệ song phương theo mô hình “trục và nan hoa” nhằm tối đa hóa ảnh hưởng của Bắc Kinh với phần thiệt hại thuộc về các nước ASEAN.
Từ lý do đó, có thể thấy không phải ngẫu nhiên khi tại Washington, chủ đề của các hội thảo CSIS về Biển Đông lại thể hiện mức độ kỳ vọng giảm dần theo các năm. Trong hội thảo đầu tiên vào tháng 6 năm 2011, người ta có thể hy vọng về việc cải thiện những gì sẵn có, đó là “An ninh hàng hải tại Biển Đông.” Chủ đề của hội thảo năm thứ hai, vào tháng 6 năm 2012 là “Tìm kiếm các giải pháp cho việc quản lý tranh chấp tại Biển Đông” như thể thừa nhận rằng an ninh hàng hải là một điều quá khó để có thể đạt được tại Biển Đông, tranh chấp không thể giải quyết, do đó điều chúng ta có thể làm đó là hạ nhiệt tranh chấp, không để tranh chấp làm nảy sinh các căng thẳng khó giải quyết.
Hiện tại, tại hội thảo lần 3 vào tháng 6 năm 2013, chúng ta đã hạ mức kỳ vọng xuống “Quản lý căng thẳng tại Biển Đông”.  Tiêu đề này có thể được hiểu là an ninh thực sự đòi hỏi tranh chấp phải được giải quyết nhưng các tranh chấp này thậm chí đến quản lý còn khó, chưa nói đến việc giải quyết. Tất cả những gì còn lại là cố gắng hạn chế hậu quả của các tranh chấp này, đó là những căng thẳng do tranh chấp phát sinh. Và nếu điều này chúng ta cũng không làm được, thì chúng ta còn gì khác để làm nữa? Có lẽ khi đó các bên liên quan và các nhà phân tích sẽ phải buộc quên đi các tranh chấp, quên đi các căng thẳng, quên đi chủ quyền, và khai thác các chủ đề khác để hướng đến việc xóa bỏ khỏi ký ức các vấn đề này ở Châu Á càng sớm càng tốt.
Nhìn nhận vấn đề theo hướng phân tích trên cho thấy cực bất chẳng đã chúng ta buộc phải quay về phương cách và châm ngôn của ông Đặng Tiểu Bình cách đây hàng thập kỷ đó là gác tranh chấp sang một bên và cùng khai thác chung - lời khuyên thường được trích dẫn bởi những người ủng hộ đường lối ôn hòa mang tính chiến lược. Tuy nhiên, câu nói của ông Đặng gồm có 3 phần, và ý chính lại nằm ở phần thứ nhất: “Chủ quyền là của chúng ta [ví dụ, của Trung Quốc], gác tranh chấp, hướng tới cùng khai thác.” Cái khó ở đây là làm thế nào để các nước chấp nhận ý thứ nhất – đó là sở hữu độc quyền – mà không làm ảnh hưởng đến ý thứ hai – sự kiềm chế của các bên – và không làm mất đi ý thứ ba – các bên cùng có lợi.
Mối liên hệ giữa các vùng biển?
Một lý do nữa cũng khiến chúng ta nhớ lại những lời khuyên của ông Đặng đó là căng thẳng leo thang gần đây giữa Trung Quốc và Nhật Bản về Quần đảo Pinnacle (Senkaku/Điếu Ngư/Tiaoyutai) tại Biển Hoa Đông. Sợi dây liên kết ở đây liên quan đến tranh chấp các đảo ở phía bắc (Quần đảo Pinnacle – ND), vào tháng 5 năm 1979, Đặng Tiểu Bình lần đầu tiên công khai đưa ra lời khuyên đặt vấn đề kinh tế lên trước vấn đề chủ quyền. Và cho dù Biển Đông và Biển Hoa Đông mỗi nơi đều đang có sự tranh chấp của nhiều nước khác nhau, tuy nhiên Trung Quốc (và Đài Loan) có yêu sách chủ quyền tại cả hai khu vực.
Đặc biệt với sự trỗi dậy của tư tưởng thù địch trong vấn đề lãnh thổ ở Biển Hoa Đông thời gian gần đây, bất kỳ chính phủ nào có yêu sách tại một trong hai vùng biển trên sẽ nhận thức được những bài học rút ra từ các “chiêu trò” được sử dụng trong các vụ việc, cũng như tác động của các sự cố xảy ra tại vùng biển còn lại, và có thể sẽ xem xét sự liên quan của nó để hỗ trợ cho chiến thuật của họ tại vùng biển tranh chấp. Hai nước đang sử dụng các thức này một cách rõ ràng nhất đó là Trung Quốc, nước đang tích cực củng cố yêu sách của họ tại cả hai vùng biển, và Nhật Bản, với một nền kinh tế đang được “tái sinh” và một Thủ tướng theo chủ nghĩa dân tộc, được nhiều người dự đoán là sẽ có một lập trường an ninh cứng rắn hơn tại cả hai vùng biển – công khai kiềm chế Trung Quốc tại Biển Hoa Đông, và lặng lẽ làm điều tương tự với Trung Quốc tại Biển Đông.
Lập trường của Đài Loan – thường rất sai lầm khi chúng ta xem quan điểm của họ là bản sao của Trung Quốc – thể hiện sự chuyển giao ý tưởng từ tranh chấp biển phía nam (Biển Đông – ND) cho tranh chấp biển phía bắc (Biển Hoa Đông – ND). “Bộ quy tắc ứng xử” mà chính phủ Quốc dân Đảng kiến nghị trong Sáng kiến Hòa bình tại Biển Hoa Đông năm 2012 rõ ràng là một ý tưởng được vay mượn từ nỗ lực đàm phán (cho đến nay vẫn chưa có kết quả) về bộ những quy tắc hành xử tương tự cho Biển Đông.[2] Gần đây nhất thì một chuyên gia về Biển Đông của Đài Loan, TS. Yann-huei Song, đã đề xuất rằng các nước có tranh chấp tại khu vực phía bắc nên xem xét việc thiết lập một khuôn khổ đối thoại không chính thức, giống như khuôn khổ đối thoại mà Indonesia tổ chức hàng năm cho các bên tranh chấp ở khu vực biển phía nam.[3]
Đối với Mỹ, việc Mỹ hiểu như thế nào về trách nhiệm của họ trong tranh chấp tại Quần đảo Pinnacle và Quần đảo Trường Sa theo hiệp ước an ninh của họ với Nhật Bản và Philippines sẽ vẫn là một chủ đề được quan tâm và được đem ra so sánh tại khu vực Đông Á. Một ví dụ khác về mối liên hệ bắc-nam, đó là kết quả của vụ Philippin khởi kiện Trung Quốc dựa theo Công ước của LHQ về Luật Biển sẽ ảnh hưởng đến ý chí của bất kỳ quốc gia yêu sách nào tại Biển Đông và Biển Hoa Đông trong việc có sử dụng con đường pháp lý để giải quyết tranh chấp hay không.
Một ví dụ khác để minh họa cho mối liên hệ giữa Biển Đông và Biển Hoa Đông đó là ở cả hai khu vực, các bên yêu sách đều sử dụng chiến thuật có thể tạm gọi là “sự đã rồi trên biển”. Do không có thỏa thuận nào về đàm phán và phân xử chủ quyền pháp lý, kiểm soát trên thực địa đã trở thành xu hướng của tranh chấp. Những ví dụ tại Biển Đông đó là các động thái gần đây và liên tục của Trung Quốc nhằm ngăn chặn các con đường tiếp cận tới Bãi cạn Scarborough và việc Đài Loan thiết lập một “bến đỗ” ngoài khơi tại đảo mà họ gọi là Đảo Taiping (Đảo Ba Bình - ND). Một ví dụ khác, cho dù động cơ của hành động này có là hòa bình đi chăng nữa, đó là việc chính phủ Nhật Bản mua lại – thực chất đó là việc quốc hữu hóa – ba đảo thuộc Quần đảo Pinnacle vào năm 2012.
Dĩ nhiên, mỗi khu vực có tranh chấp – Biển Đông ở phía nam và Biển Hoa Đông ở phía bắc – đều có đặc trưng của riêng nó. Phần lớn các khu vực của Biển Đông và các thực thể đất liền tại đây bị tranh chấp bởi hai hoặc nhiều hơn trong số 6 bên yêu sách với mức độ quyết đoán khác nhau (Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippin, Đài Loan và Việt Nam), trong khi đó bên thứ 7 (Indonesia) chỉ giữ lập trường tự vệ khi mong muốn bảo vệ vùng EEZ của quần đảo Natuna khỏi sự xâm lấn tiềm tàng của Trung Quốc dựa trên đường chín đoạn bị nhiều điều tiếng của nước này. Ngược lại, tranh chấp tại Quần đảo Pinnacle tại Biển Hoa Đông chỉ là câu chuyện của ba bên – Trung Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Cho dù có tính thêm Hàn Quốc, nước đang có lập trường không giống với Trung Quốc về sử dụng Hoàng Hải thế nào cho hợp lý, thì danh sách các nước có tranh chấp của phía bắc vẫn ngắn hơn danh sách của phía nam.
Tuy nhiên, điểm khác biệt đáng chú ý có lợi hơn cho Trung Quốc rất nhiều là chính là chênh lệch trong phân bổ nguồn lực quân sự ở vùng phía nam so với phía bắc. Bắc Kinh hiện đang tiếp tục bao vây không cho người dân Philippines đánh cá tại Bãi cạn Scarborough mà không phải chịu bất cứ sự trừng phạt nào. Liệu Bắc Kinh có hân hoan trước việc đe dọa “thành công” mà định sử dụng vũ lực ngăn cản người dân Nhật Bản đến thăm các đảo thuộc Quần đảo Pinnacle? Tuy nhiên, nếu nước này làm như vậy, Tokyo hoàn toàn có đủ sức mạnh tốt hơn hẳn Manila để ngăn Trung Quốc hành động như đang làm ở phía nam, đó là tạo “sự đã rồi trên biển. Hiện tại, nguy cơ xảy ra chiến tranh giữa các quốc gia tại cả hai khu vực đều ở mức thấp. Tuy nhiên, chính tiềm lực quân sự lớn hơn và phân tán hơn ở khu vực phía bắc là một phần lý do lý giải tại sao một cuộc xung đột vũ trang nổ ra tại phía bắc sẽ có nguy cơ leo thang trầm trọng hơn so với một cuộc xung đột ở phía nam. Đó là chưa kể đến các tác động lan tỏa có thể có của một cuộc đối đầu từ vùng biển này sang vùng biển khác.
Một cách nhìn khác lạc quan hơn: Liệu những sự việc diễn ra và những bài học rút ra tại một vùng biển có đáng được xem xét tại vùng biển khác hay không? Tại sao không? Chắc chắn rằng, những hội thảo không chính thức do Indonesia tổ chức từ năm 1990 được TS. Song nhắc đến không phải khởi điểm là để giải quyết vấn đề chủ quyền tại Biển Đông. Đấy chưa bao giờ là ý định của các hội thảo này. Hội thảo về Tiến trình quản lý nguy cơ xung đột tại Biển Đông – tên chính thức của loạt hội thảo trên – vẫn chỉ là một cuộc gặp không chính thức, không quá trịnh trọng quy tụ các học giả Kênh II có chuyên môn liên quan và các quan chức trên danh nghĩa cá nhân của họ. Bên cạnh 4 quốc gia yêu sách Đông Nam Á và chủ nhà Indonesia, Trung Quốc hiện tại cũng đã tham gia vào hội thảo và nước này cũng đã chấp nhận sự tham gia của Đài Loan. Hội thảo đã đưa ra nhiều chương trình và hoạt động nhằm cải thiện kiến thức chuyên môn về và nâng cao sự tin cậy lẫn nhau thông qua các kênh đối thoại và đào tạo. Chủ đề trọng tâm bao gồm sự đa dạng sinh học và việc giám sát môi trường. Về nguyên tắc, chừng nào vấn đề chủ quyền không nằm trong chương trình nghị sự, sẽ chẳng có hại gì khi mời các nhà khoa học từ Trung Quốc, Nhật Bản, và Đài Loan với chuyên môn về hải dương học, sinh học biển, khí tượng và môi trường đến thảo luận các cách thức hợp tác trong những lĩnh vực trên, bởi chúng đều có ảnh hưởng đến Biển Hoa Đông. Một vài dấu hiệu đáng khích lệ về hợp tác đã tồn tại trong khu vực, bao gồm thỏa thuận nghề cá gần đây giữa Nhật Bản và Đài Loan, trong đó cố tình tránh khu vực Quần đảo Pinnacle và các khu vực khác đã nằm trong thỏa thuận nghề cá năm 1997 giữa Trung Quốc và Nhật Bản.[4]
Vai trò của Đài Loan trong bối cảnh này cần được quan tâm đặc biệt. Cho dù hai khu vực bất ổn – Biển Đông và Biển Hoa Đông – có những đặc điểm khác nhau thế nào đi nữa, thì giữa hai khu vực vẫn có một điểm chung: đó là sự tham gia của Bắc Kinh và Đài Bắc. Từ điểm chung này, có 2 câu hỏi nảy sinh. Câu hỏi cho Bắc Kinh là: Các bạn muốn gì? Hoặc, nếu các bạn không biết các bạn muốn gì, hoặc không muốn nói, thì hãy cho chúng tôi biết điều các bạn không muốn. Cách diễn giải bành trướng và hung hăng nhất về những gì Trung Quốc muốn tại các vùng biển ở Đông Á, được hiểu một cách rộng nhất bao gồm Biển Đông, Biển Hoa Đông, Biển Hoàng Hải và Biển Nhật Bản là: quyền kiểm soát con đường tiếp cận tới các nguồn tài nguyên nằm trong hoặc dưới đáy các vùng biển này và quyền kiểm soát hoạt động của tất cả các phương tiện di chuyển tại đây, cho dù đó là bầu trời trên vùng biển, trên biển, hoặc dưới đáy biển.
Nhiệm vụ của Bắc Kinh là không nên để chúng ta hiểu theo nghĩa bành trướng một cách kệch cỡm như vậy, và để làm được điều đó, thay vì bác bỏ những lời cáo buộc trên là phi lý (mặc dù nó thực sự phi lý), Bắc Kinh phải nói rõ những gì mà họ muốn.Và nếu như việc này là đòi hỏi quá mức – giả dụ như các nhà lãnh đạo của Trung Quốc không biết họ muốn gì, hoặc các cuộc tranh luận về chủ đề này bên trong Trung Quốc quá gay gắt khiến cho họ phải dè dặt trong phát ngôn – thì ít nhất Bắc Kinh nên dàn xếp cuộc tranh luận đang diễn ra giữa các nhà phân tích nước ngoài về ý nghĩa của “đường chín đoạn”: Đây có phải là yêu sách để đòi quyền chủ quyền trên biển, trong lòng biển, bầu trời trên vùng biển và dưới đáy vùng biển mà đường 9 đoạn thể hiện, bao gồm cả các thực thể đất liền hay không? Hay phạm vi nước này đòi hỏi chủ quyền chỉ giới hạn trong các thực thể đất liền mà thôi?
Nếu đường chín đoạn đưa ra một yêu sách dựa trên các vùng biển, thì yêu sách này sẽ không phù hợp với nguyên tắc cốt lõi của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), đó là “đất thống trị biển”. Xét trên tiền đề đó, quyền tiếp cận và sử dụng các vùng biển xuất phát từ chủ quyền đối với các thực thể đất liền và được tính dựa trên các tiêu chí như đặc điểm địa lý, vị trí, kích cỡ và một số tiêu chí khác của các thực thể này. Nhưng nếu yêu sách này được dựa trên đất liền, nó sẽ mở ra khả năng để chúng ta có thể xác định độ rộng cũng như các đặc điểm của những các vùng biển đi kèm.
Đây không phải là một vấn đề tầm thường. Uy tín của Trung Quốc với tư cách là một cường quốc trỗi dậy đang bị đe dọa. Việc nước này từ chối làm rõ đường chín đoạn – một cách rõ ràng, thẳng thắn và chính thức – sẽ khiến chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa các vùng biển cũng như các thực thể đất liền trong đường này thực chất là gì. Nó sẽ ám chỉ sự mập mờ – rằng Bắc Kinh không sẵn sàng bác bỏ nhưng cũng không thừa nhận quan điểm bành trướng coi Biển Đông là “ao nhà” của mình. Trong trường hợp đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng không nên ngạc nhiên nếu những người đồng cấp của họ, theo lối tư duy cẩn trọng, sẽ suy nghĩ theo chiều hướng xấu nhất về Trung Quốc, và đổ lỗi cho Trung Quốc né tránh là bởi nước này đang che giấu một điều gì đó chứ không phải là vì Trung Quốc đang do dự.
Đằng sau sự mơ hồ?
Được biết, với việc Trung Quốc gần đây vừa phát hành chính thức bản đồ khu vực Nam Trung Quốc, một số nhà ngoại giao của châu Á đã nói rằng Trung Quốc “đã tiến thêm một bước nữa” đến chủ nghĩa bành trướng bằng việc mô tả đường chín đoạn “như là đường biên giới quốc gia”. Tuy nhiên, những lời cáo buộc này đã bị bác bỏ thẳng thừng bởi người đứng đầu Viện nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, TS. Wu Shicun.[5] Rõ ràng, bất ổn vẫn tiếp tục thắng thế ở khu vực trong thời gian tới.
Năm 2012, một nhà nghiên cứu hàng đầu về ý định Trung Quốc tại Biển Đông, ông Taylor Fravel, suy đoán rằng Bắc Kinh có thể đã từ bỏ yêu sách bành trướng đòi các vùng nước và các thực thể đất liền nằm trong đường chín đoạn. Ông nói rằng, có lẽ đường chín đoạn sẽ được đánh bóng lại để trở thành yêu sách chủ quyền chỉ với các thực thể đất liền phù hợp với UNCLOS. Để lấy ví dụ, ông Fravel trích bình luận tại họp báo của một quan chức thuộc ngoại giao Trung Quốc rằng “không quốc gia nào kể cả Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ khu vực Biển Đông.”[6] Tuy nhiên, đường chín đoạn chưa bao giờ có hình dáng giống như đường bờ biển của các quốc gia ven biển,và phần tây nam của Biển Đông cũng kéo dài khá xa so với giới hạn của đường chín đoạn. Có thể nói rằng ý của vị quan chức này không phải là nhằm thu hẹp đường chín đoạn mà là khẳng định lại điều khá hiển nhiên – rằng một số phần của Biển Đông nằm bên ngoài yêu sách củaTrung Quốc. Mặc dù vậy, việc Fravel kêu gọi Trung Quốc phải làm rõ ý nghĩa của đường chín đoạn là điều hoàn toàn xác đáng.
Theo TS. Hong Nong, Phó Viện trưởng của Viện Nghiên cứu Nam hải, các học giả Trung Quốc đang bị phân chia theo 4 trường phái tư tưởng trong việc định nghĩa đường chín đoạn: là “đường biên giới” của Trung Quốc, là “vùng nước lịch sử”, là “quyền lịch sử” hay là “sở hữu” của họ.[7] Sự phân loại này sẽ giới hạn các cuộc tranh cãi về đường chín đoạn theo 4 cách diễn giải, tuy nhiên ý nghĩa vận dụng của các cách diễn giải này vẫn chưa rõ ràng. Mọi việc càng trở nên khó xác định bởi “lý thuyết về ‘chủ quyền + UNCLOS + các quyền lịch sử’” mà theo TS. Hong, được “hầu hết” các học giả Trung Quốc đều sử dụng. Do các “trường phái” học thuật và “lý thuyết” này thiếu sự rõ ràng, chưa kể đến nhu cầu còn cấp thiết hơn là làm rõ cách giải thích chính thức về đường chín đoạn, không khó để hình dung Trung Quốc đơn thuần muốn kiểm soát toàn bộ Biển Đông – bao gồm các vùng biển các thực thể đất liền – dựa vào bất cứ cách lập luận nào có thể phục vụ cho mục tiêu đó. Với tham vọng bành trướng tối đa này, nếu bỏ qua bất cứ căn cứ nào sẵn có, bao gồm cả đường chín đoạn đầy bí ẩn, sẽ làm hỏng mục tiêu trên bởi không ai biết trước được rằng cách tiếp cận nào, dựa theo hay không dựa theo UNCLOS, sẽ thành công. Trong bức tranh chiến lược đó, từ góc độ của Bắc Kinh, duy trì sự mập mờ là một việc làm cần thiết, còn tìm kiếm sự rõ ràng là sai lầm.
Nhưng sự mập mờ có thể sẽ trở thành món nợ cho Trung Quốc. Sức ép gia tăng về việc phải làm rõ ý nghĩa đường chín đoạn sẽ khiến lãnh đạo Trung Quốc hành động giống như dự đoán của ông Fravel: khẳng định một cách công khai và chính thức rằng đường chín đoạn không thể hiện chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển nằm trong đường này, mà Trung Quốc chỉ khẳng định chủ quyền đối với các thực thể đất liền nằm trong đường chín đoạn. Dựa trên quy định của UNCLOS cũng như từ sự đo đạc chính xác và phân loại cụ thể các đoạn trên đường này, các nhà vẽ bản đồ từ đó có thể xác định chính xác phạm vi và những phần nào của Biển Đông sẽ là “của Trung Quốc” nếu (và chỉ nếu) một ngày nào đó Trung Quốc được xác định là họ thực sự có chủ quyền đối với các thực thể đất liền đó. Và tương tự như vậy, nếu tất cả các bên yêu sách khác cũng giới hạn yêu sách của mình tới các thực thể đất liền đã được xác định, đồng thời tuân theo nguyên tắc “đất thống trị biển” của UNCLOS, bản đồ cuối cùng sẽ thể hiện rạch ròi các phần tranh chấp và các phần không tranh chấp trên Biển Đông.
Ngược lại, chừng nào Bắc Kinh còn tiếp tục khẳng định sự mập mờ không thể tranh cãi về “chủ quyền không thể tranh cãi” trên Biển Đông,[8] thì việc phân định các vùng không tranh chấp trên biển sẽ là không thể. Ít nhất là cho đến khi đạt được sự đồng thuận quốc tế về ranh giới rõ ràng của bản thân Biển Đông, từ đường biên giới này mới xác định ra phần không tranh chấp giữa đường chín đoạn kín, bành trướng kia và các ranh giới mới được xác định của vùng Biển Đông có phần lớn hơn.
Nhưng còn có một cách khác thay vì ngồi trên bờ biển và chờ đợi Godot[9] đến và kiểm nhận một phiên bản bành trướng trong tham vọng của Bắc Kinh. Đã đến lúc chúng ta phải hành động, đưa ra một tấm bản đồ thực tế hơn, lấy yếu tố đất liền làm trung tâm, có thể phân định các phần của Biển Đông dựa trên các chỉ dẫn từ các thực thể đất liền đã được quy định UNCLOS, dựa trên các số liệu địa lý và hải dương học hiện có mà xác định, đo đạc và phân biệt thế nào là dải đá ngầm, bãi cạn, rạn san hô, các đảo, các đá… Có thể một số điểm sẽ vẫn phải để trống (vì chưa được khám phá), tuy nhiên chí ít thì sự mập mờ sẽ được giảm bớt và chỉ giới hạn ở một số khu vực. Và nếu một tấm bản đồ như vậy được xuất hiện tràn ngập trên mạng, điều nàysẽ khuyến khích tất cả các bên xây dựng các yêu sách lãnh thổ của mình phù hợp với UNCLOS. Trong một khoảng thời gian quá dài, các chính sách ích kỷ trên Biển Đông đã bị ảnh hưởng tiêu cực từ sự thiếu hiểu biết, bỏ qua UNCLOS - con đường giải quyết tranh chấp mà không phải quốc gia nào cũng chọn.
Nếu điều này xảy ra, và nếu thực hiện điều này có thể tăng thêm cơ hội dựa vào luật pháp quốc tế, thì một ngày nào đó người ta có thể nói rằng nỗ lực trước đây của Philippines nhằm xác định rõ những khu vực có tranh chấp và không có tranh chấp là một việc làm có phần nóng vội chứ không hẳn là thiếu thực tế.[10]
Ở mức tối thiểu, cách diễn giải ít bành trướng và ít hung hăng nhất về mong muốn của Bắc Kinh tại Biển Đông không phải là triệt tiêu toàn bộ ảnh hưởng của nước này tại đây. Đây là một việc vừa không khả thi vừa không khôn ngoan. Ngay cả khi Biển Đông được quốc tế hóa, dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc, thì Trung Quốc vẫn sẽ giữ một tiếng nói nào đó tại vùng biển này. Tuy nhiên, có rất nhiều cách phân bổ và phân loại mức độ, số lượng các loại quyền lợi, quyền hạn cho các quốc gia có liên quan. Và rốt cục, cho dù các quốc gia ven Biển Đông đều bình đẳng như nhau, Trung Quốc vẫn sẽ là nước được bình đẳng hơn (first among the equals).
Khi xét đến các kết quả có thể có như trên thì có một số câu hỏi mà tất cả quốc gia có yêu sách một phần lãnh thổ hoặc các quyền tại Biển Đông cần phải trả lời:
Nếu bỏ qua các giả định về chủ quyền ở Biển Đông của quốc gia ven biển có yêu sách, thì cần những gì để tạo nên một công thức “công bằng” và “hợp lý” để phân bổ và chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm giữa các bên yêu sách trên bầu trời vùng biển, trên biển, và dưới đáy biển tại Biển Đông? Quyền lợi, trách nhiệm đối với cái gì, và dựa trên những bằng chứng và tiêu chí nào? Và liên quan việc sử dụng Biển Đông bởi các quốc gia không yêu sách khác ở Châu Á và trên thế giới, thì Biển Đông nên mở hay đóng ở mức độ nào đối với các hoạt động đó  – và điều đó được xác định dựa trên các bằng chứng và tiêu chí nào?
Những câu hỏi này có vẻ như khá ngây ngô. Các Bộ Ngoại giao, thường không thích các giả thuyết, sẽ cho rằng việc trả lời các câu hỏi trên sẽ làm tình hình trở nên phức tạp hơn. Nhưng các học giả có thể sẽ rất hứng thú. Và có lẽ, trong tương lai, nếu một nhóm nào đó gồm các cá nhân và các chuyên gia có uy tín được thành lập và muốn đưa ra những giải pháp sáng tạo cho vấn đề Biển Đông, những câu hỏi này có thể sẽ có giá trị nào đó, tuy không phải là những nhân tố thay đổi cuộc chơi, nhưng là các cách thức để giúp các bên yêu sách trở nên đồng cảm với nhau hơn, giúp các yêu sách của họ trở nên dễ dàng thương lượng hơn, và do đó cuộc chơi tại Biển Đông cũng sẽ đỡ nguy hiểm hơn.
TS. Donald K. Emmerson là Giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Stanford (Mỹ) và là Giám đốc của Diễn đàn Đông Nam Á. Bài tham luận được trình bày tại hội thảo “Quản lý Căng thăng ở Biển Đông” được tổ chức bởi CSIS vào ngày 5-6 tháng 06 năm 2013 tại Washington D.C, Mỹ. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên trang CSIS.
Đón đọc tham luận tiếp theo của Đại sứ Hemant Krishan Singh được trình bày tại Hội thảo: “Biển Đông trong địa chính trị khu vực
Người dịch: Quang Tiệp
Hiệu đính: Minh Ngọc



[1]“Chinese ambassador: China has indisputable sovereignty over South China Sea islands,” Xinhua,
[2] Ministry of Foreign Affairs, Republic of China (Taiwan), “East China Sea Peace Initiative,”
[3]“Academic says non-official dialogue needed for East China Sea initiative,” Taipei Times, 21 tháng 5, 2013,
[4]James Manicom, “The State of Cooperation in the East China Sea,” NBR Analysis, April 2013,
[5]Jane Perlez, “Hagel Calls for Action to Protect Cyberspace,” The New York Times, 2 tháng 6, 2013, tr. 9.
[6]M. Taylor Fravel, “Clarification of China’s Claim?” China Power, THE DIPLOMAT Blogs, 5 tháng 3, 2012,
[7](Hong Nong, “Interpreting the U-shape Line in the South China Sea,” China-US Focus, 15 tháng 5, 2012,
[8] Ví dụ, xem trích dẫn tuyên bố của một người phát ngôn Bộ Quốc phòng: “China Says Its South Sea Claims Are ‘Indisputable’” Bloomberg News, 29 tháng 7, 2010, http://www.bloomberg.com/news/2010-07-30/china-hasindisputable-sovereignty-in-south-china-sea-defense-aide-says.html.Vào ngày 13 tháng 4 năm 2009, Bắc Kinh thông báo với Tổng thư ký LHQ rằng “Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có chủ quyền không thể tranh cãi tại Quần đảo Hoàng Nham và Quần đảo Nam Sa [Bãi cạn Scarborough và Quần đảo Hoàng Sa] và các vùng nước xung quanh khu vực này” http://www.un.org/Depts/los/LEGISLATIONANDTREATIES/PDFFILES/DEPOSIT/communicationsredeposit/mzn69_2009_chn.pdf.  Nhưng theo như cách nói này, nguyên tắc đất thống trị biển, cho dù được ngầm chỉ tới thông qua hai địa danh kể trên, vẫn khó hiểu bởi sự mập mờ của cụm từ “các vùng nước xung quanh” – “xung quanh” ở đây là theo như UNCLOS qui định hay theo như Trung Quốc nghĩ? Và liệu một tuyên bố mơ hồ không thể? Và chúng ta liệu có tranh cãi được gì về một tuyên bố mơ hồ như này?
[9] “Waiting for Godot” là vở kịch nổi tiếng, nói về hai người đàn ông cả đời chờ đợi một nhân vật không quen biết tên là “Godot” – ghi chú của người dịch.
[10] Là một người Mỹ, tôi thấy mình phải có nghĩa vụ chỉ ra hành động đạo đức giả trong việc Mỹ đề xuất UNCLOS cho những nước châu Á, chỉ chưa đầy một năm sau thời điểm 34 nghị sĩ Đảng Cộng Hòa tại Washington kiên quyết giữ lập trường phản đối việc phê chuẩn Công ước, từ đó khiến cho Quốc hội không đạt đủ 2/3 số phiếu cần thiết cho việc Công ước được thông qua. Kristina Wong và Sean Lengell, “DeMint: Law of the Sea Treaty Now Dead,” The Washington Times16 tháng 6, 2012.