Rủi
ro xung đột tại Hoa Đông có nguy cơ trầm trọng hơn so với Biển Đông bởi
khả năng “đáp trả” trong tương quan lực lượng tại đây. Nếu bỏ
qua các giả định về chủ quyền thì cần những gì để tạo nên một công thức
“công bằng” và “hợp lý” để chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm giữa các bên
yêu sách ở Biển Đông?
Tôi
được đề nghị nghiên cứu về “Biển Đông trong nền chính trị khu vực”, xin
dẫn nguyên văn tiêu đề của phiên thảo luận này. “Chính trị khu vực” là
khái niệm khiến cho các nước ASEAN vừa cảm thấy hào hứng, vừa cảm thấy e
dè. E dè là bởi phải mất 11 năm kể từ ngày chính thức bắt đầu quan hệ
đối thoại (1991) giữa Trung Quốc và ASEAN, hai bên mới ký được Tuyên bố
ứng xử của các bên trên Biển Đông DOC (2002). DOC đã bị vi phạm nhiều
lần và ở diện rộng trong 9 năm sau đó, trước khi các quốc gia ASEAN và
Trung Quốc ký được hướng dẫn thực thi DOC vào năm 2011. Tuy nhiên, những
hướng dẫn này cũng nhiều lần bị xâm phạm bởi các động trái thực tế của
các bên kể từ năm 2011.
Bản hướng dẫn thực thi DOC thậm chí không còn xuất hiện trên website của ASEAN, www.asean.org.
Trước khi văn bản này được khôi phục trên mạng và các nhà chức trách có
thẩm quyền lý giải tại sao lại xóa bỏ nó, không khó để kết luận rằng
chính bởi những ngôn từ trong bản hướng dẫn thực thi DOC đã bị tranh cãi
quá gay gắt trong nội bộ ASEAN nên người ta không thể tiếp tục để văn
bản này xuất hiện trên website của ASEAN. Hoặc, có khả năng ai đó đã
nghĩ rằng tốt hơn hết là bộ hướng dẫn thực thi DOC nên được xóa đi và
chúng ta cùng tiến thẳng tới việc kết thúc các thảo luận đã kéo dài quá
lâu để bắt đầu đàm phán một Bộ quy tắc ứng xử (COC) thực sự “có ràng
buộc” tại Biển Đông – các cuộc thảo luận này đã được tiến hành liên tục,
bắt đầu từ khoảng thời gian hơn một thập kỷ trước thời điểm DOC được ký
kết vào năm 2002.
Thay
thế DOC bằng COC, coi COC như một vấn đề Biển Đông được ưu tiên trong
chương trình nghị sự (và trên website) của ASEAN, ít nhất cũng khiến Bắc
Kinh không thể tiếp tục lấy cớ là thực thi DOC để trì hoãn việc hình
thành COC. Lý do quan trọng nhất cho việc tại sao COC lại bị kéo dài tới
tận một phần tư thế kỷ mới đạt được chừng này kết quả, mà thật ra kết
quả này cũng chả đáng kể gì, đó là: thứ nhất,
bởi Bắc Kinh chưa bao giờ chấp nhận việc họ sẽ bị hạn chế sự tự do, yếu
tố giúp Trung Quốc làm bất cứ điều gì mà họ muốn tại Biển Đông. Thứ hai,
đó là thái độ không sẵn sàng của một vài thành viên ASEAN trong việc
gây sức ép buộc một Trung Quốc “cứng rắn” phải nhượng bộ do họ lo sợ
hoặc bị Trung Quốc trừng phạt, hoặc bị mất đi các lợi ích kinh tế, hoặc
bởi cả hai lý do trên.
Chiến lược của Bắc Kinh là sự pha trộn giữa: (i) các hành động can thiệp – vụ Trung Quốc chiếm giữ Bãi cạn Scarborough, (ii) thái độ không khoan nhượng – việc Trung Quốc luôn luôn khẳng định rằng họ có “chủ quyền không thể tranh cãi trên các đảo tại Biển Đông và các vùng nước lân cận các đảo này”[1], (iii) chiến thuật mơ hồ
- việc Trung Quốc từ chối làm rõ vị trí của các vùng nước “lân cận”
này, các khu vực này lớn nhỏ ra sao, và lý do tại sao Trung Quốc lại có
quyền tài phán chủ quyền không thể tranh cãi tại đây. Sự mơ hồ này cũng
được thể hiện qua quan điểm của người Trung Quốc khi họ nói rằng “thời
cơ là chưa chín muồi” cho việc thiết lập COC mà không nói rằng khi nào
thì thời cơ sẽ chín muồi, hoặc đưa ra các dấu hiệu báo trước giai đoạn
chín muồi này. Trong khi đó, bởi áp lực từ phía Trung Quốc, một số yếu
tố của COC được các nhà ngoại giao của ASEAN đề xuất đã bị giảm dần “sức
nặng” theo thời gian. Do ý tưởng của Bộ quy tắc ứng xử không phải và
cũng chưa bao giờ nhằm để giải quyết các câu hỏi hóc búa về chủ quyền và
việc phân bố chủ quyền cho các quốc gia, nên người ta có thể tự hỏi
rằng liệu có thể nhượng bộ thêm bao nhiêu được nữa từ bộ quy tắc ứng xử
vốn đã không có mấy “sức nặng” này.
Tuy
nhiên, ngay cả khi DOC ngày càng trở nên không thực tế và COC chưa rõ
số phận ra sao thì ASEAN vẫn chưa bao giờ từ bỏ việc theo đuổi một thỏa
thuận như vậy. Trái lại, Brunei, nước chủ tịch hiện thời của ASEAN, đã
đưa vấn đề COC trở thành ưu tiên an ninh hàng đầu của khối. Tuy nhiên
đây không phải bởi nước chủ tịch nhận thấy đây là chính là bước đột phá
khi thời cơ rốt cuộc đã chín muồi giúp ngăn cản không cho các sự cố xảy
ra trên Biển Đông, trong đó có các sự cố gây ra bởi các động thái đơn
phương của Trung Quốc nhằm thiết lập quyền kiểm soát trên thực tế. Thay
vào đó, sự kiên trì của ASEAN khi theo đuổi một công việc có vẻ hơi hão
huyền (thiết lập COC - ND) chủ yếu phản ánh mong muốn bảo vệ danh tiếng
của riêng họ - “tính trung tâm” trong việc xây dựng hòa bình của châu Á,
điều mà ASEAN đang tiếp tục củng cố và khẳng định một cách rõ ràng.
Tuy
nhiên, vấn đề quan trọng hơn đang bị đe dọa lại chính là sự toàn vẹn và
sự gắn kết của chính bản thân ASEAN. Việc ký kết COC với Trung Quốc,
cho dù trong trường hợp COC được ký kết chỉ là một văn bản có chút ít
“sức nặng” hay chỉ là một văn bản không có ràng buộc gì cả, sẽ cho thấy
một điều đó là ASEAN có thể cùng nhau đàm phán một văn bản với người
láng giềng khổng lồ của mình. Nếu ASEAN không đạt được kết quả như vậy,
thì khối này sẽ ngày càng khó ngăn Trung Quốc tiếp tục sử dụng từng
thành viên của ASEAN để gây khó dễ với thành viên khác thông qua các mối
quan hệ song phương theo mô hình “trục và nan hoa” nhằm tối đa hóa ảnh
hưởng của Bắc Kinh với phần thiệt hại thuộc về các nước ASEAN.
Từ
lý do đó, có thể thấy không phải ngẫu nhiên khi tại Washington, chủ đề
của các hội thảo CSIS về Biển Đông lại thể hiện mức độ kỳ vọng giảm dần
theo các năm. Trong hội thảo đầu tiên vào tháng 6 năm 2011, người ta có
thể hy vọng về việc cải thiện những gì sẵn có, đó là “An ninh hàng hải
tại Biển Đông.” Chủ đề của hội thảo năm thứ hai, vào tháng 6 năm 2012 là
“Tìm kiếm các giải pháp cho việc quản lý tranh chấp tại Biển Đông” như
thể thừa nhận rằng an ninh hàng hải là một điều quá khó để có thể đạt
được tại Biển Đông, tranh chấp không thể giải quyết, do đó điều chúng ta
có thể làm đó là hạ nhiệt tranh chấp, không để tranh chấp làm nảy sinh
các căng thẳng khó giải quyết.
Hiện
tại, tại hội thảo lần 3 vào tháng 6 năm 2013, chúng ta đã hạ mức kỳ
vọng xuống “Quản lý căng thẳng tại Biển Đông”. Tiêu đề này có thể được
hiểu là an ninh thực sự đòi hỏi tranh chấp phải được giải quyết nhưng
các tranh chấp này thậm chí đến quản lý còn khó, chưa nói đến việc giải
quyết. Tất cả những gì còn lại là cố gắng hạn chế hậu quả của các tranh
chấp này, đó là những căng thẳng do tranh chấp phát sinh. Và nếu điều
này chúng ta cũng không làm được, thì chúng ta còn gì khác để làm nữa?
Có lẽ khi đó các bên liên quan và các nhà phân tích sẽ phải buộc quên đi
các tranh chấp, quên đi các căng thẳng, quên đi chủ quyền, và khai thác
các chủ đề khác để hướng đến việc xóa bỏ khỏi ký ức các vấn đề này ở
Châu Á càng sớm càng tốt.
Nhìn
nhận vấn đề theo hướng phân tích trên cho thấy cực bất chẳng đã chúng
ta buộc phải quay về phương cách và châm ngôn của ông Đặng Tiểu Bình
cách đây hàng thập kỷ đó là gác tranh chấp sang một bên và cùng khai
thác chung - lời khuyên thường được trích dẫn bởi những người ủng hộ
đường lối ôn hòa mang tính chiến lược. Tuy nhiên, câu nói của ông Đặng
gồm có 3 phần, và ý chính lại nằm ở phần thứ nhất: “Chủ quyền là của chúng ta
[ví dụ, của Trung Quốc], gác tranh chấp, hướng tới cùng khai thác.” Cái
khó ở đây là làm thế nào để các nước chấp nhận ý thứ nhất – đó là sở
hữu độc quyền – mà không làm ảnh hưởng đến ý thứ hai – sự kiềm chế của các bên – và không làm mất đi ý thứ ba – các bên cùng có lợi.
Mối liên hệ giữa các vùng biển?
Một
lý do nữa cũng khiến chúng ta nhớ lại những lời khuyên của ông Đặng đó
là căng thẳng leo thang gần đây giữa Trung Quốc và Nhật Bản về Quần đảo
Pinnacle (Senkaku/Điếu Ngư/Tiaoyutai) tại Biển Hoa Đông. Sợi dây liên
kết ở đây liên quan đến tranh chấp các đảo ở phía bắc (Quần đảo Pinnacle
– ND), vào tháng 5 năm 1979, Đặng Tiểu Bình lần đầu tiên công khai đưa
ra lời khuyên đặt vấn đề kinh tế lên trước vấn đề chủ quyền. Và cho dù
Biển Đông và Biển Hoa Đông mỗi nơi đều đang có sự tranh chấp của nhiều
nước khác nhau, tuy nhiên Trung Quốc (và Đài Loan) có yêu sách chủ quyền
tại cả hai khu vực.
Đặc
biệt với sự trỗi dậy của tư tưởng thù địch trong vấn đề lãnh thổ ở Biển
Hoa Đông thời gian gần đây, bất kỳ chính phủ nào có yêu sách tại một
trong hai vùng biển trên sẽ nhận thức được những bài học rút ra từ các
“chiêu trò” được sử dụng trong các vụ việc, cũng như tác động của các sự
cố xảy ra tại vùng biển còn lại, và có thể sẽ xem xét sự liên quan của
nó để hỗ trợ cho chiến thuật của họ tại vùng biển tranh chấp. Hai nước
đang sử dụng các thức này một cách rõ ràng nhất đó là Trung Quốc, nước
đang tích cực củng cố yêu sách của họ tại cả hai vùng biển, và Nhật Bản,
với một nền kinh tế đang được “tái sinh” và một Thủ tướng theo chủ
nghĩa dân tộc, được nhiều người dự đoán là sẽ có một lập trường an ninh
cứng rắn hơn tại cả hai vùng biển – công khai kiềm chế Trung Quốc tại
Biển Hoa Đông, và lặng lẽ làm điều tương tự với Trung Quốc tại Biển
Đông.
Lập
trường của Đài Loan – thường rất sai lầm khi chúng ta xem quan điểm của
họ là bản sao của Trung Quốc – thể hiện sự chuyển giao ý tưởng từ tranh
chấp biển phía nam (Biển Đông – ND) cho tranh chấp biển phía bắc (Biển
Hoa Đông – ND). “Bộ quy tắc ứng xử” mà chính phủ Quốc dân Đảng kiến nghị
trong Sáng kiến Hòa bình tại Biển Hoa Đông năm 2012 rõ ràng là một ý
tưởng được vay mượn từ nỗ lực đàm phán (cho đến nay vẫn chưa có kết quả)
về bộ những quy tắc hành xử tương tự cho Biển Đông.[2]
Gần đây nhất thì một chuyên gia về Biển Đông của Đài Loan, TS.
Yann-huei Song, đã đề xuất rằng các nước có tranh chấp tại khu vực phía
bắc nên xem xét việc thiết lập một khuôn khổ đối thoại không chính thức,
giống như khuôn khổ đối thoại mà Indonesia tổ chức hàng năm cho các bên
tranh chấp ở khu vực biển phía nam.[3]
Đối
với Mỹ, việc Mỹ hiểu như thế nào về trách nhiệm của họ trong tranh chấp
tại Quần đảo Pinnacle và Quần đảo Trường Sa theo hiệp ước an ninh của
họ với Nhật Bản và Philippines sẽ vẫn là một chủ đề được quan tâm và
được đem ra so sánh tại khu vực Đông Á. Một ví dụ khác về mối liên hệ
bắc-nam, đó là kết quả của vụ Philippin khởi kiện Trung Quốc dựa theo
Công ước của LHQ về Luật Biển sẽ ảnh hưởng đến ý chí của bất kỳ quốc gia
yêu sách nào tại Biển Đông và Biển Hoa Đông trong việc có sử dụng con
đường pháp lý để giải quyết tranh chấp hay không.
Một ví dụ khác để minh họa cho mối liên hệ
giữa Biển Đông và Biển Hoa Đông đó là ở cả hai khu vực, các bên yêu
sách đều sử dụng chiến thuật có thể tạm gọi là “sự đã rồi trên biển”. Do
không có thỏa thuận nào về đàm phán và phân xử chủ quyền pháp lý, kiểm
soát trên thực địa đã trở thành xu hướng của tranh chấp. Những ví dụ tại
Biển Đông đó là các động thái gần đây và liên tục của Trung Quốc nhằm
ngăn chặn các con đường tiếp cận tới Bãi cạn Scarborough và việc Đài
Loan thiết lập một “bến đỗ” ngoài khơi tại đảo mà họ gọi là Đảo Taiping
(Đảo Ba Bình - ND). Một ví dụ khác, cho dù động cơ của hành động này có
là hòa bình đi chăng nữa, đó là việc chính phủ Nhật Bản mua lại – thực
chất đó là việc quốc hữu hóa – ba đảo thuộc Quần đảo Pinnacle vào năm
2012.
Dĩ
nhiên, mỗi khu vực có tranh chấp – Biển Đông ở phía nam và Biển Hoa
Đông ở phía bắc – đều có đặc trưng của riêng nó. Phần lớn các khu vực
của Biển Đông và các thực thể đất liền tại đây bị tranh chấp bởi hai
hoặc nhiều hơn trong số 6 bên yêu sách với mức độ quyết đoán khác nhau
(Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippin, Đài Loan và Việt Nam), trong
khi đó bên thứ 7 (Indonesia) chỉ giữ lập trường tự vệ khi mong muốn bảo
vệ vùng EEZ của quần đảo Natuna khỏi sự xâm lấn tiềm tàng của Trung Quốc
dựa trên đường chín đoạn bị nhiều điều tiếng của nước này. Ngược lại,
tranh chấp tại Quần đảo Pinnacle tại Biển Hoa Đông chỉ là câu chuyện của
ba bên – Trung Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Cho dù có tính thêm Hàn
Quốc, nước đang có lập trường không giống với Trung Quốc về sử dụng
Hoàng Hải thế nào cho hợp lý, thì danh sách các nước có tranh chấp của
phía bắc vẫn ngắn hơn danh sách của phía nam.
Tuy
nhiên, điểm khác biệt đáng chú ý có lợi hơn cho Trung Quốc rất nhiều là
chính là chênh lệch trong phân bổ nguồn lực quân sự ở vùng phía nam so
với phía bắc. Bắc Kinh hiện đang tiếp tục bao vây không cho người dân
Philippines đánh cá tại Bãi cạn Scarborough mà không phải chịu bất cứ sự
trừng phạt nào. Liệu Bắc Kinh có hân hoan trước việc đe dọa “thành
công” mà định sử dụng vũ lực ngăn cản người dân Nhật Bản đến thăm các
đảo thuộc Quần đảo Pinnacle? Tuy nhiên, nếu nước này làm như vậy, Tokyo
hoàn toàn có đủ sức mạnh tốt hơn hẳn Manila để ngăn Trung Quốc hành động
như đang làm ở phía nam, đó là tạo “sự đã rồi trên biển. Hiện tại, nguy
cơ xảy ra chiến tranh giữa các quốc gia tại cả hai khu vực đều ở mức
thấp. Tuy nhiên, chính tiềm lực quân sự lớn hơn và phân tán hơn ở khu
vực phía bắc là một phần lý do lý giải tại sao một cuộc xung đột vũ
trang nổ ra tại phía bắc sẽ có nguy cơ leo thang trầm trọng hơn so với
một cuộc xung đột ở phía nam. Đó là chưa kể đến các tác động lan tỏa có
thể có của một cuộc đối đầu từ vùng biển này sang vùng biển khác.
Một
cách nhìn khác lạc quan hơn: Liệu những sự việc diễn ra và những bài
học rút ra tại một vùng biển có đáng được xem xét tại vùng biển khác hay
không? Tại sao không? Chắc chắn rằng, những hội thảo không chính thức
do Indonesia tổ chức từ năm 1990 được TS. Song nhắc đến không phải khởi
điểm là để giải quyết vấn đề chủ quyền tại Biển Đông. Đấy chưa bao giờ
là ý định của các hội thảo này. Hội thảo về Tiến trình quản lý nguy cơ
xung đột tại Biển Đông – tên chính thức của loạt hội thảo trên – vẫn chỉ
là một cuộc gặp không chính thức, không quá trịnh trọng quy tụ các học
giả Kênh II có chuyên môn liên quan và các quan chức trên danh nghĩa cá
nhân của họ. Bên cạnh 4 quốc gia yêu sách Đông Nam Á và chủ nhà
Indonesia, Trung Quốc hiện tại cũng đã tham gia vào hội thảo và nước này
cũng đã chấp nhận sự tham gia của Đài Loan. Hội thảo đã đưa ra nhiều
chương trình và hoạt động nhằm cải thiện kiến thức chuyên môn về và nâng
cao sự tin cậy lẫn nhau thông qua các kênh đối thoại và đào tạo. Chủ đề
trọng tâm bao gồm sự đa dạng sinh học và việc giám sát môi trường. Về
nguyên tắc, chừng nào vấn đề chủ quyền không nằm trong chương trình nghị
sự, sẽ chẳng có hại gì khi mời các nhà khoa học từ Trung Quốc, Nhật
Bản, và Đài Loan với chuyên môn về hải dương học, sinh học biển, khí
tượng và môi trường đến thảo luận các cách thức hợp tác trong những lĩnh
vực trên, bởi chúng đều có ảnh hưởng đến Biển Hoa Đông. Một vài dấu
hiệu đáng khích lệ về hợp tác đã tồn tại trong khu vực, bao gồm thỏa
thuận nghề cá gần đây giữa Nhật Bản và Đài Loan, trong đó cố tình tránh
khu vực Quần đảo Pinnacle và các khu vực khác đã nằm trong thỏa thuận
nghề cá năm 1997 giữa Trung Quốc và Nhật Bản.[4]
Vai
trò của Đài Loan trong bối cảnh này cần được quan tâm đặc biệt. Cho dù
hai khu vực bất ổn – Biển Đông và Biển Hoa Đông – có những đặc điểm khác
nhau thế nào đi nữa, thì giữa hai khu vực vẫn có một điểm chung: đó là
sự tham gia của Bắc Kinh và Đài Bắc. Từ điểm chung này, có 2 câu hỏi nảy
sinh. Câu hỏi cho Bắc Kinh là: Các bạn muốn gì? Hoặc, nếu các bạn không
biết các bạn muốn gì, hoặc không muốn nói, thì hãy cho chúng tôi biết
điều các bạn không muốn. Cách
diễn giải bành trướng và hung hăng nhất về những gì Trung Quốc muốn tại
các vùng biển ở Đông Á, được hiểu một cách rộng nhất bao gồm Biển Đông,
Biển Hoa Đông, Biển Hoàng Hải và Biển Nhật Bản là: quyền kiểm soát con
đường tiếp cận tới các nguồn tài nguyên nằm trong hoặc dưới đáy các vùng
biển này và quyền kiểm soát hoạt động của tất cả các phương tiện di
chuyển tại đây, cho dù đó là bầu trời trên vùng biển, trên biển, hoặc
dưới đáy biển.
Nhiệm
vụ của Bắc Kinh là không nên để chúng ta hiểu theo nghĩa bành trướng
một cách kệch cỡm như vậy, và để làm được điều đó, thay vì bác bỏ những
lời cáo buộc trên là phi lý (mặc dù nó thực sự phi lý), Bắc Kinh phải
nói rõ những gì mà họ muốn.Và nếu như việc này là đòi hỏi quá mức – giả
dụ như các nhà lãnh đạo của Trung Quốc không biết họ muốn gì, hoặc các
cuộc tranh luận về chủ đề này bên trong Trung Quốc quá gay gắt khiến cho
họ phải dè dặt trong phát ngôn – thì ít nhất Bắc Kinh nên dàn xếp cuộc
tranh luận đang diễn ra giữa các nhà phân tích nước ngoài về ý nghĩa của
“đường chín đoạn”: Đây có phải là yêu sách để đòi quyền chủ quyền trên
biển, trong lòng biển, bầu trời trên vùng biển và dưới đáy vùng biển mà
đường 9 đoạn thể hiện, bao gồm cả các thực thể đất liền hay không? Hay
phạm vi nước này đòi hỏi chủ quyền chỉ giới hạn trong các thực thể đất
liền mà thôi?
Nếu
đường chín đoạn đưa ra một yêu sách dựa trên các vùng biển, thì yêu
sách này sẽ không phù hợp với nguyên tắc cốt lõi của Công ước của Liên
Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), đó là “đất thống trị biển”. Xét trên
tiền đề đó, quyền tiếp cận và sử dụng các vùng biển xuất phát từ chủ
quyền đối với các thực thể đất liền và được tính dựa trên các tiêu chí
như đặc điểm địa lý, vị trí, kích cỡ và một số tiêu chí khác của các
thực thể này. Nhưng nếu yêu sách này được dựa trên đất liền, nó sẽ mở ra
khả năng để chúng ta có thể xác định độ rộng cũng như các đặc điểm của
những các vùng biển đi kèm.
Đây
không phải là một vấn đề tầm thường. Uy tín của Trung Quốc với tư cách
là một cường quốc trỗi dậy đang bị đe dọa. Việc nước này từ chối làm rõ
đường chín đoạn – một cách rõ ràng, thẳng thắn và chính thức – sẽ khiến
chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa các vùng biển cũng như các thực thể
đất liền trong đường này thực chất là gì. Nó sẽ ám chỉ sự mập mờ – rằng
Bắc Kinh không sẵn sàng bác bỏ nhưng cũng không thừa nhận quan điểm
bành trướng coi Biển Đông là “ao nhà” của mình. Trong trường hợp đó, các
nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng không nên ngạc nhiên nếu những người đồng
cấp của họ, theo lối tư duy cẩn trọng, sẽ suy nghĩ theo chiều hướng xấu
nhất về Trung Quốc, và đổ lỗi cho Trung Quốc né tránh là bởi nước này
đang che giấu một điều gì đó chứ không phải là vì Trung Quốc đang do dự.
Đằng sau sự mơ hồ?
Được
biết, với việc Trung Quốc gần đây vừa phát hành chính thức bản đồ khu
vực Nam Trung Quốc, một số nhà ngoại giao của châu Á đã nói rằng Trung
Quốc “đã tiến thêm một bước nữa” đến chủ nghĩa bành trướng bằng việc mô
tả đường chín đoạn “như là đường biên giới quốc gia”. Tuy nhiên, những
lời cáo buộc này đã bị bác bỏ thẳng thừng bởi người đứng đầu Viện nghiên
cứu Nam Hải của Trung Quốc, TS. Wu Shicun.[5] Rõ ràng, bất ổn vẫn tiếp tục thắng thế ở khu vực trong thời gian tới.
Năm
2012, một nhà nghiên cứu hàng đầu về ý định Trung Quốc tại Biển Đông,
ông Taylor Fravel, suy đoán rằng Bắc Kinh có thể đã từ bỏ yêu sách bành
trướng đòi các vùng nước và các thực thể đất liền nằm trong đường chín
đoạn. Ông nói rằng, có lẽ đường chín đoạn sẽ được đánh bóng lại để trở
thành yêu sách chủ quyền chỉ với các thực thể đất liền phù hợp với
UNCLOS. Để lấy ví dụ, ông Fravel trích bình luận tại họp báo của một
quan chức thuộc ngoại giao Trung Quốc rằng “không quốc gia nào kể cả
Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ khu vực Biển Đông.”[6]
Tuy nhiên, đường chín đoạn chưa bao giờ có hình dáng giống như đường bờ
biển của các quốc gia ven biển,và phần tây nam của Biển Đông cũng kéo
dài khá xa so với giới hạn của đường chín đoạn. Có thể nói rằng ý của vị
quan chức này không phải là nhằm thu hẹp đường chín đoạn mà là khẳng
định lại điều khá hiển nhiên – rằng một số phần của Biển Đông nằm bên
ngoài yêu sách củaTrung Quốc. Mặc dù vậy, việc Fravel kêu gọi Trung Quốc
phải làm rõ ý nghĩa của đường chín đoạn là điều hoàn toàn xác đáng.
Theo
TS. Hong Nong, Phó Viện trưởng của Viện Nghiên cứu Nam hải, các học giả
Trung Quốc đang bị phân chia theo 4 trường phái tư tưởng trong việc
định nghĩa đường chín đoạn: là “đường biên giới” của Trung Quốc, là
“vùng nước lịch sử”, là “quyền lịch sử” hay là “sở hữu” của họ.[7]
Sự phân loại này sẽ giới hạn các cuộc tranh cãi về đường chín đoạn theo
4 cách diễn giải, tuy nhiên ý nghĩa vận dụng của các cách diễn giải này
vẫn chưa rõ ràng. Mọi việc càng trở nên khó xác định bởi “lý thuyết về
‘chủ quyền + UNCLOS + các quyền lịch sử’” mà theo TS. Hong, được “hầu
hết” các học giả Trung Quốc đều sử dụng. Do các “trường phái” học thuật
và “lý thuyết” này thiếu sự rõ ràng, chưa kể đến nhu cầu còn cấp thiết
hơn là làm rõ cách giải thích chính thức về đường chín đoạn, không khó để hình dung Trung Quốc đơn thuần muốn kiểm soát toàn bộ Biển Đông – bao gồm các vùng biển và
các thực thể đất liền – dựa vào bất cứ cách lập luận nào có thể phục vụ
cho mục tiêu đó. Với tham vọng bành trướng tối đa này, nếu bỏ qua bất
cứ căn cứ nào sẵn có, bao gồm cả đường chín đoạn đầy bí ẩn, sẽ làm hỏng
mục tiêu trên bởi không ai biết trước được rằng cách tiếp cận nào, dựa
theo hay không dựa theo UNCLOS, sẽ thành công. Trong bức tranh chiến
lược đó, từ góc độ của Bắc Kinh, duy trì sự mập mờ là một việc làm cần
thiết, còn tìm kiếm sự rõ ràng là sai lầm.
Nhưng
sự mập mờ có thể sẽ trở thành món nợ cho Trung Quốc. Sức ép gia tăng về
việc phải làm rõ ý nghĩa đường chín đoạn sẽ khiến lãnh đạo Trung Quốc
hành động giống như dự đoán của ông Fravel: khẳng định một cách công
khai và chính thức rằng đường chín đoạn không
thể hiện chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển nằm trong đường này, mà
Trung Quốc chỉ khẳng định chủ quyền đối với các thực thể đất liền nằm
trong đường chín đoạn. Dựa trên quy định của UNCLOS cũng như từ sự đo
đạc chính xác và phân loại cụ thể các đoạn trên đường này, các nhà vẽ
bản đồ từ đó có thể xác định chính xác phạm vi và những phần nào của
Biển Đông sẽ là “của Trung Quốc” nếu
(và chỉ nếu) một ngày nào đó Trung Quốc được xác định là họ thực sự có
chủ quyền đối với các thực thể đất liền đó. Và tương tự như vậy, nếu tất
cả các bên yêu sách khác cũng giới hạn yêu sách của mình tới các thực
thể đất liền đã được xác định, đồng thời tuân theo nguyên tắc “đất thống
trị biển” của UNCLOS, bản đồ cuối cùng sẽ thể hiện rạch ròi các phần
tranh chấp và các phần không tranh chấp trên Biển Đông.
Ngược
lại, chừng nào Bắc Kinh còn tiếp tục khẳng định sự mập mờ không thể
tranh cãi về “chủ quyền không thể tranh cãi” trên Biển Đông,[8]
thì việc phân định các vùng không tranh chấp trên biển sẽ là không thể.
Ít nhất là cho đến khi đạt được sự đồng thuận quốc tế về ranh giới rõ
ràng của bản thân Biển Đông, từ đường biên giới này mới xác định ra phần
không tranh chấp giữa đường chín đoạn kín, bành trướng kia và các ranh
giới mới được xác định của vùng Biển Đông có phần lớn hơn.
Nhưng còn có một cách khác thay vì ngồi trên bờ biển và chờ đợi Godot[9]
đến và kiểm nhận một phiên bản bành trướng trong tham vọng của Bắc
Kinh. Đã đến lúc chúng ta phải hành động, đưa ra một tấm bản đồ thực tế
hơn, lấy yếu tố đất liền làm trung tâm, có thể phân định các phần của
Biển Đông dựa trên các chỉ dẫn từ các thực thể đất liền đã được quy định
UNCLOS, dựa trên các số liệu địa lý và hải dương học hiện có mà xác
định, đo đạc và phân biệt thế nào là dải đá ngầm, bãi cạn, rạn san hô,
các đảo, các đá… Có thể một số điểm sẽ vẫn phải để trống (vì chưa được
khám phá), tuy nhiên chí ít thì sự mập mờ sẽ được giảm bớt và chỉ giới
hạn ở một số khu vực. Và nếu một tấm bản đồ như vậy được xuất hiện tràn
ngập trên mạng, điều nàysẽ khuyến khích tất cả các bên xây dựng các yêu
sách lãnh thổ của mình phù hợp với UNCLOS. Trong một khoảng thời gian
quá dài, các chính sách ích kỷ trên Biển Đông đã bị ảnh hưởng tiêu cực
từ sự thiếu hiểu biết, bỏ qua UNCLOS - con đường giải quyết tranh chấp
mà không phải quốc gia nào cũng chọn.
Nếu
điều này xảy ra, và nếu thực hiện điều này có thể tăng thêm cơ hội dựa
vào luật pháp quốc tế, thì một ngày nào đó người ta có thể nói rằng nỗ
lực trước đây của Philippines nhằm xác định rõ những khu vực có tranh
chấp và không có tranh chấp là một việc làm có phần nóng vội chứ không
hẳn là thiếu thực tế.[10]
Ở
mức tối thiểu, cách diễn giải ít bành trướng và ít hung hăng nhất về
mong muốn của Bắc Kinh tại Biển Đông không phải là triệt tiêu toàn bộ
ảnh hưởng của nước này tại đây. Đây là một việc vừa không khả thi vừa
không khôn ngoan. Ngay cả khi Biển Đông được quốc tế hóa, dưới sự bảo
trợ của Liên Hợp Quốc, thì Trung Quốc vẫn sẽ giữ một tiếng nói nào đó
tại vùng biển này. Tuy nhiên, có rất nhiều cách phân bổ và phân loại mức
độ, số lượng các loại quyền lợi, quyền hạn cho các quốc gia có liên
quan. Và rốt cục, cho dù các quốc gia ven Biển Đông đều bình đẳng như
nhau, Trung Quốc vẫn sẽ là nước được bình đẳng hơn (first among the equals).
Khi
xét đến các kết quả có thể có như trên thì có một số câu hỏi mà tất cả
quốc gia có yêu sách một phần lãnh thổ hoặc các quyền tại Biển Đông cần
phải trả lời:
Nếu
bỏ qua các giả định về chủ quyền ở Biển Đông của quốc gia ven biển có
yêu sách, thì cần những gì để tạo nên một công thức “công bằng” và “hợp
lý” để phân bổ và chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm giữa các bên yêu sách
trên bầu trời vùng biển, trên biển, và dưới đáy biển tại Biển Đông?
Quyền lợi, trách nhiệm đối với cái gì, và dựa trên những bằng chứng và
tiêu chí nào? Và liên quan việc sử dụng Biển Đông bởi các quốc gia không
yêu sách khác ở Châu Á và trên thế giới, thì Biển Đông nên mở hay đóng ở
mức độ nào đối với các hoạt động đó – và điều đó được xác định dựa
trên các bằng chứng và tiêu chí nào?
Những
câu hỏi này có vẻ như khá ngây ngô. Các Bộ Ngoại giao, thường không
thích các giả thuyết, sẽ cho rằng việc trả lời các câu hỏi trên sẽ làm
tình hình trở nên phức tạp hơn. Nhưng các học giả có thể sẽ rất hứng
thú. Và có lẽ, trong tương lai, nếu một nhóm nào đó gồm các cá nhân và
các chuyên gia có uy tín được thành lập và muốn đưa ra những giải pháp
sáng tạo cho vấn đề Biển Đông, những câu hỏi này có thể sẽ có giá trị
nào đó, tuy không phải là những nhân tố thay đổi cuộc chơi, nhưng là các
cách thức để giúp các bên yêu sách trở nên đồng cảm với nhau hơn, giúp
các yêu sách của họ trở nên dễ dàng thương lượng hơn, và do đó cuộc chơi
tại Biển Đông cũng sẽ đỡ nguy hiểm hơn.
TS. Donald K. Emmerson là Giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Stanford (Mỹ) và là Giám đốc của Diễn đàn Đông Nam Á. Bài tham luận được trình bày tại hội thảo “Quản
lý Căng thăng ở Biển Đông” được tổ chức bởi CSIS vào ngày 5-6 tháng 06
năm 2013 tại Washington D.C, Mỹ. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên
trang CSIS.
Đón đọc tham luận tiếp theo của Đại sứ Hemant Krishan Singh được trình bày tại Hội thảo: “Biển Đông trong địa chính trị khu vực”
Người dịch: Quang Tiệp
Hiệu đính: Minh Ngọc
[1]“Chinese ambassador: China has indisputable sovereignty over South China Sea islands,” Xinhua,
[2] Ministry of Foreign Affairs, Republic of China (Taiwan), “East China Sea Peace Initiative,”
[3]“Academic says non-official dialogue needed for East China Sea initiative,” Taipei Times, 21 tháng 5, 2013,
[4]James Manicom, “The State of Cooperation in the East China Sea,” NBR Analysis, April 2013,
[5]Jane Perlez, “Hagel Calls for Action to Protect Cyberspace,” The New York Times, 2 tháng 6, 2013, tr. 9.
[6]M. Taylor Fravel, “Clarification of China’s Claim?” China Power, THE DIPLOMAT Blogs, 5 tháng 3, 2012,
[7](Hong Nong, “Interpreting the U-shape Line in the South China Sea,” China-US Focus, 15 tháng 5, 2012,
[8]
Ví dụ, xem trích dẫn tuyên bố của một người phát ngôn Bộ Quốc phòng:
“China Says Its South Sea Claims Are ‘Indisputable’” Bloomberg News, 29
tháng 7, 2010, http://www.bloomberg.com/news/2010-07-30/china-hasindisputable-sovereignty-in-south-china-sea-defense-aide-says.html.Vào
ngày 13 tháng 4 năm 2009, Bắc Kinh thông báo với Tổng thư ký LHQ rằng
“Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có chủ quyền không thể tranh cãi tại Quần
đảo Hoàng Nham và Quần đảo Nam Sa [Bãi cạn Scarborough và Quần đảo Hoàng
Sa] và các vùng nước xung quanh khu vực này” http://www.un.org/Depts/los/LEGISLATIONANDTREATIES/PDFFILES/DEPOSIT/communicationsredeposit/mzn69_2009_chn.pdf.
Nhưng theo như cách nói này, nguyên tắc đất thống trị biển, cho dù
được ngầm chỉ tới thông qua hai địa danh kể trên, vẫn khó hiểu bởi sự
mập mờ của cụm từ “các vùng nước xung quanh” – “xung quanh” ở đây là
theo như UNCLOS qui định hay theo như Trung Quốc nghĩ? Và liệu một tuyên
bố mơ hồ không thể? Và chúng ta liệu có tranh cãi được gì về một tuyên
bố mơ hồ như này?
[9]
“Waiting for Godot” là vở kịch nổi tiếng, nói về hai người đàn ông cả
đời chờ đợi một nhân vật không quen biết tên là “Godot” – ghi chú của
người dịch.
[10]
Là một người Mỹ, tôi thấy mình phải có nghĩa vụ chỉ ra hành động đạo
đức giả trong việc Mỹ đề xuất UNCLOS cho những nước châu Á, chỉ chưa đầy
một năm sau thời điểm 34 nghị sĩ Đảng Cộng Hòa tại Washington kiên
quyết giữ lập trường phản đối việc phê chuẩn Công ước, từ đó khiến cho
Quốc hội không đạt đủ 2/3 số phiếu cần thiết cho việc Công ước được
thông qua. Kristina Wong và Sean Lengell, “DeMint: Law of the Sea Treaty
Now Dead,” The Washington Times16 tháng 6, 2012.