Theo nhandan.com.vn |
Tình hình kinh tế thế giới những tháng đầu năm
2011 có những diễn biến hết sức phức tạp và chịu tác động sâu sắc của
các biến động chính trị ở Bắc Phi, Trung Ðông và thảm họa động đất, sóng
thần ở Nhật Bản. Trong bối cảnh chung đó, kinh tế Việt Nam không tránh
khỏi chịu ảnh hưởng tiêu cực và gặp phải một số khó khăn. Trong đó, nổi
lên là vấn đề lạm phát tăng cao trở thành thách thức đối với công tác
điều hành vĩ mô cả năm 2011, năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Ðại hội
Ðảng toàn quốc lần thứ XI; đồng thời ảnh hưởng đến công tác bảo đảm an
ninh trật tự, nhất là trong thời điểm toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân ta
chuẩn bị tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội
đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016.
Kinh tế thế giới đối mặt nhiều khó khăn
Kinh tế thế giới những tháng đầu năm
2011 đã phục hồi chậm lại do những khó khăn từ các đầu tàu kinh tế, như
xu hướng giảm phát của kinh tế Nhật Bản, việc chủ động điều chỉnh tốc độ
tăng trưởng chậm lại ở Trung Quốc, những khó khăn về nợ công ở châu Âu;
đặc biệt là trước những tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng chính trị
ở 11 nước Bắc Phi, Trung Ðông và thảm họa thiên tai tại Nhật Bản (ước
tính, lấy đi ít nhất 0,5% tăng trưởng kinh tế toàn cầu). Trong bối cảnh
đó, kinh tế thế giới lại phải đối mặt với những khó khăn, thách thức
khác:
Lạm phát đang trở thành mối lo hàng đầu
của tất cả các quốc gia, khi mà chỉ số chung của các loại hàng hóa
nguyên liệu thô đã tăng 8% chỉ trong vài tháng do ảnh hưởng từ các
chương trình nới lỏng tiền tệ của nhiều nền kinh tế lớn trong năm 2010
và tình hình bất ổn chính trị tại Bắc Phi, Trung Ðông. Nhiều nước ở châu
Á có mức lạm phát cao nhất trong nhiều năm qua, như Trung Quốc 5%, Ấn
Ðộ 8,2%, Hàn Quốc 4,7%... Trong bối cảnh đó, thảm họa động đất, sóng
thần và nguy cơ ảnh hưởng phóng xạ từ Nhật Bản đang có nguy cơ đẩy lạm
phát tiếp tục tăng cao hơn tại châu Á do nhu cầu nhập khẩu năng lượng,
vật tư xây dựng, nông hải sản của Nhật Bản tăng mạnh, trong khi nguồn
cung xuất khẩu các chi tiết công nghệ của Nhật Bản cho các ngành sản
xuất hàng điện tử của châu Á giảm (giá của các bộ mạch vi xử lý được sử
dụng trong các thiết bị điện tử đã tăng 8%, khí tự nhiên hóa lỏng tăng
hơn 10% tại thị trường châu Á kể từ sau thảm họa này).
Giá các mặt hàng chiến lược tăng mạnh
đang đe dọa đến an ninh năng lượng và an ninh lương thực của các quốc
gia. Giá dầu thô lên mức cao nhất trong hai năm rưỡi (113 USD/thùng ngày
8-4-2011, tăng gần 30% so với cùng kỳ năm trước), giá vàng đạt mức cao
nhất trong lịch sử (1,473 USD/ao-xơ ngày 8-4-2011), giá bạc cũng tăng
lên mức cao nhất trong vòng 31 năm qua. Ðặc biệt, giá lương thực, thực
phẩm tăng cao (tăng gần 30% so với giữa năm 2010, trong đó giá ngũ cốc
tăng hơn 40%) dẫn đến nguy cơ khủng hoảng lương thực thế giới.
Khủng hoảng nợ công vẫn tiếp tục phủ
bóng đen lên khu vực châu Âu. Tình hình nợ công tại Hy Lạp vẫn tồi tệ
khiến cơ quan xếp hạng tín dụng Moody hạ ba bậc xếp hạng tín dụng của
nước này, trong khi đó Bồ Ðào Nha cũng chính thức phải xin EU hỗ trợ.
Ngoài khu vực châu Âu, Mỹ và Nhật Bản cũng đang đứng trước nguy cơ bị
giảm mức xếp hạng tín dụng khi nợ công lên tới mức kỷ lục. Nợ công của
Mỹ đã vượt 14 nghìn tỷ USD và dự đoán sẽ chạm mức trần 14,3 nghìn tỷ USD
sau hơn một tháng nữa. Nợ công của Nhật Bản trước khi xảy ra động đất,
sóng thần cũng đã ở mức 200% GDP.
Thị trường tài chính tiền tệ quốc tế vẫn
biến động phức tạp: Thị trường chứng khoán thế giới bị tác động mạnh
trước những biến cố chính trị và thiên tai. Chỉ sau một tuần xảy ra thảm
họa tại Nhật Bản, chứng khoán thế giới chịu thiệt hại khoảng 1.600 tỷ
USD, trong khi đó xu hướng rút vốn khỏi thị trường chứng khoán của các
nước A-rập vẫn tiếp tục diễn ra. Còn tại các thị trường mới nổi ở châu
Á, nhà đầu tư đã rút gần 25 tỷ USD trong quý I-2011 (mức cao nhất kể từ
quý III-2008); Thị trường trái phiếu quốc tế cũng bị tác động khi Nhật
Bản phải cơ cấu lại việc nắm giữ loại tài sản này để tập trung nguồn lực
tài chính tái thiết đất nước, trong khi Trung Quốc cũng không có ý định
nắm giữ thêm trái phiếu Chính phủ Mỹ; Trên thị trường tiền tệ, đồng USD
tiếp tục xu hướng giảm giá so các đồng tiền chủ chốt, ngược lại đồng
ơ-rô trong quý I tăng giá mạnh nhất trong lịch sử (tăng 3,5%); Thị
trường bất động sản của hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Trung
Quốc chưa có dấu hiệu tích cực và đang ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống
ngân hàng. Tại Mỹ, thị trường nhà đất chưa phục hồi, giá nhà đất đã giảm
tháng thứ 6 liên tiếp và chỉ cao hơn 1% so với mức đáy trong thời kỳ
suy thoái tồi tệ nhất năm 2009, khiến cho hơn 800 ngân hàng nước này
tiếp tục lâm vào tình trạng khó khăn. Còn tại Trung Quốc, kế hoạch làm
dịu cơn sốt giá nhà đất của Chính phủ nước này chưa có kết quả (giá bất
động sản tăng bình quân hơn 6%/tháng) trong khi giá trị các khoản vay
dành cho bất động sản trong hai năm qua đã lên tới 2,7 nghìn tỷ USD.
Các luồng vốn đầu tư, thương mại toàn
cầu bị xáo trộn, khiến ngay cả Trung Quốc cũng phải chịu thâm hụt thương
mại cao nhất trong bảy năm qua (lên 7,3 tỷ USD tháng 2-2011). Ðặc biệt,
thiên tai tại Nhật Bản đang khiến cho hệ thống sản xuất toàn cầu của
một số mặt hàng điện tử, công nghệ cao chịu ảnh hưởng nặng nề, do khu
vực chịu ảnh hưởng thiên tai ở Nhật Bản là nơi sản xuất chính ra thị
trường thế giới những sản phẩm, như tấm silic sử dụng trong công nghệ
sản xuất chất bán dẫn, bộ vi xử lý cho các loại điện thoại thông minh,
tấm dẫn dị hướng cho công nghệ sản xuất màn hình LCD, pin lithium cho
các sản phẩm điện tử...
Những khó khăn về kinh tế đang gây ra
bức xúc trong xã hội, từ đó phát sinh những tiêu cực khó lường tới tình
hình chính trị của một số quốc gia. Những cuộc biểu tình phản đối, lật
đổ chính phủ ở Bắc Phi, Trung Ðông đều có nguồn gốc sâu xa từ những khó
khăn về kinh tế (như ở Ai Cập, có tới 30% dân số sống dưới mức nghèo
khổ, nợ nước ngoài chiếm gần 50% GDP, lạm phát tăng tới hơn 20% năm
2008, 14% năm 2009 và 10% năm 2010, trong số 80 triệu dân có hai phần ba
ở độ tuổi dưới 30 và nhóm tuổi này chiếm tới 90% số người thất nghiệp;
khoảng cách giàu nghèo gia tăng, chất lượng cuộc sống suy giảm...). Biểu
tình đã bùng phát nhanh chóng và gây ra những bất ổn chính trị nghiêm
trọng tại khu vực Trung Ðông, Bắc Phi và trong bối cảnh hội nhập, toàn
cầu hóa hiện nay nó đã lan tỏa rất nhanh, ảnh hưởng tới tình hình khu
vực và bầu không khí chính trị quốc tế.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang
chuyển từ trạng thái tăng trưởng yếu sang lạm phát cao, nhiều nước đã
phải thay đổi lại chính sách kinh tế theo hướng chuyển mục tiêu thúc đẩy
tăng trưởng sang tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát;
với những biện pháp chủ yếu như: Thắt chặt chính sách tiền tệ thông qua
nâng lãi suất cơ bản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc (Ngân hàng Trung ương châu
Âu, Trung Quốc, Nga, Ấn Ðộ...); Ðưa ra các gói hỗ trợ tài chính để tăng
lương cho người lao động bù lạm phát, hỗ trợ cho sinh viên và người thất
nghiệp để cải thiện phúc lợi xã hội (A-rập Xê-út, Thái-lan...); Cơ cấu
lại đầu tư công theo hướng giảm tổng chi nhưng tăng chi cho khu vực nông
nghiệp để bảo đảm an ninh lương thực và an sinh xã hội cho khu vực nông
thôn (Trung Quốc, Ấn Ðộ); Tiếp tục duy trì các chương trình trợ giá
cho các mặt hàng chiến lược (Ấn Ðộ, An-giê-ri, Ma-rốc đối với mặt hàng
lương thực, thực phẩm, In-đô-nê-xi-a, Gioóc-đa-ni đối với xăng, dầu...).
Nhiều nước lớn đã phải điều chỉnh lại mục tiêu phát triển theo hướng
bền vững và hướng nội, như trong kế hoạch phát triển mới nhất Trung Quốc
đã hạ mục tiêu tăng trưởng GDP trong 5 năm tới xuống 7%/năm, so với
7,5% trong 5 năm qua. Chính sách của chính quyền Mỹ hiện cũng tập trung
chủ yếu vào các vấn đề đối nội, coi trọng phát triển nội lực, cơ cấu lại
nền kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách, tái cấu trúc lại bộ máy chính
quyền liên bang.
Dự báo, những chính sách có tính chất
thắt lưng buộc bụng và thắt chặt tiền tệ của các nước sẽ khiến cho nền
kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại trong ngắn hạn; lạm phát sẽ được
kiểm soát nhưng chỉ trong trường hợp không gặp bất lợi từ giá dầu và
giá lương thực, thực phẩm; và tại một vài nước, những khó khăn về kinh
tế sẽ là yếu tố để chuyển hóa thành những bất ổn về chính trị - xã hội.
Tác động trực tiếp kinh tế Việt Nam
Kinh tế Việt Nam đạt được hầu hết các
chỉ tiêu đề ra của năm 2010 (17/21 chỉ tiêu) đã tạo đà tăng trưởng cho
những tháng đầu năm 2011 (xuất khẩu những tháng đầu năm tăng 33%, cao
gấp ba lần kế hoạch đề ra, hoạt động sản xuất tiếp tục phục hồi với giá
trị sản xuất công nghiệp tăng hơn 14%...). Tuy nhiên, những biến động
tiêu cực của kinh tế thế giới những tháng đầu năm đã tác động trực tiếp
đến kinh tế Việt Nam (1) Lạm phát trở thành nguy cơ lớn nhất đối với nền
kinh tế (chỉ số giá tiêu dùng quý I tăng 6,12%, mức tăng cao nhất so
cùng kỳ ba năm trở lại đây) do nguyên nhân 'nhập khẩu lạm phát' từ thế
giới, ở trong nước giá lương thực, thực phẩm tăng liên tục vì mất mùa do
tình hình thời tiết phức tạp và nhất là quá trình tăng trưởng thời gian
qua của nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào việc bơm vốn; (2) Cán cân
thương mại thâm hụt ở mức cao (trung bình nhập siêu mỗi tháng một tỷ
USD) do giá các nguyên, nhiên liệu nhập khẩu tăng mạnh, trong khi xuất
khẩu gặp nhiều khó khăn, do nhu cầu tiêu dùng thế giới phục hồi chậm.
Vấn đề nhập siêu đang gây áp lực lên dự trữ ngoại hối quốc gia, tác động
tới tỷ giá USD/VND, đồng thời gián tiếp làm gia tăng nguy cơ lạm phát
đối với nền kinh tế; (3) Hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là các
doanh nghiệp nhập khẩu gặp khó khăn do chi phí nhập khẩu tăng; một số
ngành sản xuất đang có sự liên thông với chuỗi cung ứng toàn cầu, như
ngành lắp ráp ô-tô, máy tính, điện tử... sẽ bị tác động do sự đình đốn
của các hãng sản xuất Nhật Bản sau thảm họa động đất sóng thần; (4)
Khủng hoảng chính trị ở Bắc Phi, Trung Ðông đã tác động đến quan hệ kinh
tế của Việt Nam với các nước khu vực này, nhất là lĩnh vực thương mại,
du lịch và xuẩt khẩu lao động. Chỉ riêng việc hơn 10.000 lao động Việt
Nam từ Li-bi về nước cùng một thời điểm cũng là một bài toán đặt ra đối
với thị trường lao động và việc bảo đảm an sinh xã hội ở khu vực nông
thôn; (5) Thu hút đầu tư FDI, viện trợ nước ngoài ODA mặc dù chưa có tín
hiệu chịu tác động rõ nét, nhưng về lâu dài sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực do
nhiều nước phải thực hiện các biện pháp thắt chặt chi tiêu, hạn chế đầu
tư, nhất là việc Nhật Bản phải tập trung tài chính để tái thiết đất
nước sau thảm họa thiên tai.
Những biến động của tình hình chính trị
và kinh tế thế giới kết hợp với những khó khăn nội tại của kinh tế Việt
Nam đã tác động trực tiếp tới công tác bảo đảm an ninh trật tự, thể hiện
trên một số mặt: (a) Lạm phát tăng cao và tình hình thiên tai, dịch
bệnh diễn biến phức tạp đã tác động xấu đến kinh tế và đời sống của nhân
dân, ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo đảm an sinh xã hội, nhất là khu
vực nông thôn; (b) Các thế lực thù địch sẽ lợi dụng hiệu ứng từ các biến
cố chính trị tại Bắc Phi, Trung Ðông, những khó khăn về kinh tế - xã
hội ở trong nước để đẩy mạnh thực hiện âm mưu 'diễn biến hòa bình'; (c)
Trên thị trường tài chính, lãi suất thị trường duy trì ở mức cao so với
khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đã khiến cho dòng tiền thu hẹp và
gia tăng rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại, đồng thời
gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ)
dẫn đến thất nghiệp và ảnh hưởng đến những vấn đề an sinh xã hội và an
ninh khu vực nông thôn; (d) Sự thiếu minh bạch và việc tồn tại hai lãi
suất trong hoạt động ngân hàng (lãi suất niêm yết và lãi suất thỏa
thuận) đã tạo điều kiện cho những giao dịch 'chui', các hành vi móc
ngoặc, là điều kiện để tội phạm tham nhũng thể hiện; (e) Trong lĩnh vực
tiền tệ, áp lực tỷ giá gia tăng do tác động của lạm phát, nhập siêu và
nhất là sự tồn tại của thị trường tự do mua bán ngoại tệ và vàng đã gây
ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động quản lý Nhà nước về ngoại hối, gây ra
tình trạng đầu cơ làm giá trục lợi, làm méo mó thị trường.
Những định hướng giải pháp
Trước tình hình trên, Bộ Chính trị đã ra
Kết luận về tình hình kinh tế - xã hội năm 2011, Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết số 11/NÐ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và Nghị quyết số
77/NQ-CP ngày 3-4-2011 về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng
3-2011 đánh giá tình hình kinh tế - xã
hội ba tháng đầu năm. Ðiều này thể hiện rõ quyết tâm và sự đồng thuận
của hệ thống chính trị nhằm mục tiêu cao nhất là kiềm chế lạm phát và ổn
định kinh tế vĩ mô. Dư luận các nhà kinh tế và các tầng lớp nhân dân
trong nước đồng tình nhận định những chủ trương, chính sách trên là đúng
hướng, kịp thời, rõ ràng và có tính định lượng cụ thể, nếu thực hiện
hiệu quả sẽ giải quyết được các bất ổn của kinh tế vĩ mô hiện nay chung
quanh vấn đề lạm phát, tỷ giá và cán cân thương mại. Một số tổ chức kinh
tế quốc tế trong đó có Ngân hàng Thế giới (WB) cũng cho rằng, bước đi
chính sách của Việt Nam là đúng hướng, sẽ làm giảm một số rủi ro đối với
kinh tế, lạm phát cơ bản (không tính thực phẩm và năng lượng) giảm và
nền kinh tế tăng trưởng 6,3% trong năm nay, mặc dù thấp hơn mục tiêu
tăng trưởng trong kế hoạch giai đoạn 2011 - 2015, nhưng Việt Nam sẽ mau
chóng giành lại vị thế trước khủng hoảng trong trung hạn.
Ðể bảo đảm thực hiện có hiệu quả các mục
tiêu, nhiệm vụ theo Kết luận của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Chính
phủ, xin nêu lên một vài suy nghĩ nhằm làm rõ hơn các vấn đề trọng tâm
và đề xuất một số giải pháp:
Các cấp ủy Ðảng, chính quyền và các bộ,
ngành tổ chức quán triệt sâu sắc, nhất quán tinh thần Kết luận của Bộ
Chính trị và các Nghị quyết của Chính phủ; xác định nhiệm vụ chính trị
trọng tâm trong giai đoạn hiện nay là kiềm chế lạm phát và bảo đảm an
sinh xã hội; đồng thời nâng cao tinh thần cảnh giác của toàn Ðảng, toàn
quân và toàn dân trước các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch,
bọn phản động, cơ hội chính trị, bất mãn chính trị tìm cách lợi dụng
các vấn đề kinh tế để chuyển hóa thành vấn đề chính trị, chống Ðảng,
chống Nhà nước.
Về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo: Quán
triệt quan điểm bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế là cơ sở để giữ
vững an ninh chính trị, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và ngược lại ổn
định chính trị là cơ sở, điều kiện để phát triển kinh tế đất nước. Trong
hoạt động điều hành, cần coi trọng kỷ cương hành chính, sự chỉ đạo tập
trung, đồng bộ thống nhất của Chính phủ trên cơ sở phát huy sức mạnh
tổng hợp và quyết tâm của cả hệ thống chính trị. Trong hoạt động chấp
hành, các bộ, ngành, địa phương cần cụ thể hóa các giải pháp và thực
hiện quyết liệt, đồng bộ theo chức năng nhiệm vụ của mình. Trong quá
trình cụ thể hóa, cần định lượng, phân kỳ thời gian, làm rõ địa chỉ và
chỉ tiêu hóa các mục tiêu, nhiệm vụ một cách rõ ràng (nhất là liên quan
đến lĩnh vực đầu tư, tài chính, tiền tệ).
Ưu tiên trọng tâm chỉ đạo điều hành là
lĩnh vực tài chính, tiền tệ: Trong chính sách tiền tệ, phối hợp đồng bộ
và điều hành linh hoạt thị trường gắn với các biện pháp tăng cường quản
lý chặt chẽ để từng bước giảm dần tình trạng 'đô-la hóa', 'vàng hóa' của
nền kinh tế. Ðối với chính sách tài chính, bên cạnh việc giảm chi tiêu
công, cần thắt chặt tín dụng đối với khu vực phi sản xuất nhưng mở rộng
tín dụng cho khu vực nông thôn (để góp phần bảo đảm an sinh xã hội, cơ
cấu lại nền kinh tế) và lĩnh vực nông nghiệp (vì lương thực, thực phẩm
chiếm tới 40% trong giỏ tính chỉ số giá tiêu dùng CPI).
Tăng cường công tác giám sát, thanh tra,
kiểm tra chặt chẽ để kịp thời phát hiện những thiếu sót hoặc vi phạm
pháp luật liên quan công tác điều hành ổn định kinh tế vĩ mô; kiên quyết
chống tham nhũng, lãng phí, đi đôi với cải cách hành chính và nâng cao
kỷ luật trong hoạt động điều hành, chấp hành. Tăng cường công tác quản
lý thị trường chống các hành vi gian lận thương mại, vi phạm các quy
định pháp luật về tài chính, tiền tệ, giá cả...
Tăng cường công tác tham mưu, dự báo
đánh giá đúng tình hình trong nước, ngoài nước, nhất là tình hình kinh
tế thế giới và những tác động đến Việt Nam để kịp thời điều chỉnh chính
sách. Quan tâm nắm bắt tình hình đời sống, hiệu quả của chính sách an
sinh xã hội đối với các tầng lớp nhân dân bị ảnh hưởng nhiều nhất do giá
cả tăng cao để kịp thời điều chỉnh liều lượng chính sách cho phù hợp
với thực tế.
Tích cực thông tin tuyên truyền, vận
động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Cần xác định tình hình hiện
nay không bi quan quá mức, việc ban hành các nhóm giải pháp của Ðảng,
Chính phủ là kịp thời, đúng định hướng, phù hợp tình hình hiện nay. Bên
cạnh đó, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thông tin kinh tế vĩ mô,
thông tin có phân tích, cung cấp kịp thời để tránh bị dư luận phân tích
theo nhiều hướng khác nhau; phản biện kịp thời và xử lý những đối tượng
tung tin đồn thất thiệt hoặc xuyên tạc tình hình để trục lợi; chủ động
tiến công vô hiệu hóa, ngăn chặn đấu tranh với nguồn thông tin có tính
chất phản động, kích động và gây tâm lý hoang mang, hoài nghi hoạt động
điều hành quản lý của Nhà nước, nhất là thời điểm tiến hành bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2011-2016.
Về dài hạn, cần nghiên cứu xây dựng một
Ðề án tổng thể điều hành nền kinh tế với những giải pháp đồng bộ, chiến
lược để giải quyết tận gốc các nguyên nhân gây bất ổn và nền kinh tế
Việt Nam phát triển bền vững, bảo đảm cân bằng các cân đối kinh tế vĩ
mô: Nhằm mục tiêu xuyên suốt là ổn định vĩ mô, nâng cao chất lượng tăng
trưởng và bảo đảm an sinh xã hội. Thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế, trước
mắt là thông qua tái cơ cấu đầu tư. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh
tế theo chiều rộng sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu với động lực
là khoa học công nghệ và tiêu dùng trong nước. Có giải pháp dài hạn để
giải quyết những vấn đề gây mất cân đối vĩ mô nền kinh tế như bội chi
ngân sách, tình trạng nhập siêu, tình trạng hai tỷ giá, tình trạng
'đô-la hóa', 'vàng hóa' của nền kinh tế, thống nhất một phương tiện
thanh toán là đồng Việt Nam. Xây dựng chiến lược đầu tư công tập trung,
hiệu quả và bền vững đồng thời có cơ chế để kiểm soát đầu tư công, hạn
chế dàn trải, kém hiệu quả có thể dẫn đến tiêu cực, lãng phí. Khuyến
khích kinh tế tư nhân đầu tư vào một số công trình, lĩnh vực mà Nhà nước
hiện phải đầu tư dàn trải, đồng thời có kế hoạch kích thích sản xuất
đối với khối doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tiếp tục chú trọng tăng cường quốc
phòng, an ninh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại. Kết hợp chặt chẽ
kinh tế với quốc phòng an ninh và quốc phòng an ninh với kinh tế, thông
qua tăng trưởng kinh tế để góp phần nâng cao tiềm lực và hiện đại hóa
nền quốc phòng an ninh. Bên cạnh đó, công tác đối ngoại thực hiện hiệu
quả sẽ góp phần tranh thủ được sức mạnh ngoại lực cho phát triển kinh tế
và bảo vệ an ninh quốc gia, nhất là việc góp phần giải quyết những vấn
đề nhạy cảm trong khu vực.
Trong công tác bảo đảm an ninh trật tự,
cần tăng cường các biện pháp nắm chắc tình hình, nhất là các tác động từ
bên ngoài của các thế lực thù địch để kịp thời phát hiện, xử lý những
vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh quốc gia, không để bị động bất
ngờ; tập trung phát hiện, xử lý kịp thời các vấn đề phức tạp liên quan
đến an ninh kinh tế nhất là chính sách điều hành kinh tế vĩ mô, lạm
phát, giá cả, tài chính tiền tệ và những vấn đề liên quan trực tiếp đến
đời sống nhân dân; tham mưu phối hợp và giải quyết tốt các vụ việc tranh
chấp khiếu kiện thức tạp, ngăn chặn kịp thời các hành vi lợi dụng khiếu
kiện, đình công và bức xúc của một bộ phận nhân dân để kích động gây
rối; kiên quyết đấu tranh và xử lý các đối tượng phản động, chống đối
chính trị lợi dụng khó khăn kinh tế của đất nước để chống phá..
|