Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013

54. Biển Nam Hải: Tài nguyên, tranh chấp

Biển Nam Hải bao gồm một khu vực khoảng 1,4 triệu dặm vuông trong Thái Bình Dương, trải dài từ Singapore và Eo Biển Malacca đến Eo Biển Taiwan, phía Tậy Philippines, phía Bắc Indonesia, và phía Đông Việt Nam. Số hải đảo trong vùng lên tới hàng trăm, với các vùng tranh chấp rộng lớn liên quan đến các quần đảo Spratly Islands, Paracel Islands, Macclesfield Bank, và Scarborough Shoal và sáu quốc gia Đông Nam Á: Brunei, Malaysia, Philippines, Taiwan, Trung Quốc, Việt Nam.
Đây là những đảo phần lớn không có dân cư và chưa bao giờ có thổ dân bản địa, vì vậy, chủ quyền lịch sử tối thượng trở thành một vấn đề gai góc khó giải quyết.
Tuy nhiên, các cuộc tranh chấp không chỉ hạn chế về đất đai. Mỗi xứ đều có một Khu Vực Kinh Tế Độc Quyền (an Exclusive Economic Zone — EEZ), định hình bởi Quy Ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (1982 United Nations Convention on the Law of the Sea — UNCLOS). Bên trong mỗi EEZ, quốc gia sở quan có đặc quyền về tài nguyên hải sản và năng lượng.
Một EEZ trải dài ra khơi lối 200 hải lý (nautical miles) từ thềm lục địa hay bờ bể thuộc lãnh hải của xứ cận duyên, và có thể bao gồm thềm lục địa ngoài giới hạn 200 dặm. Những khu vực nầy, tuy vậy, đôi khi vẫn là đối tượng tranh giành, như vụ tranh chấp lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc trong tháng 12-2012 liên quan đến các tài nguyên dầu lửa và hải sản trong vùng biển gần quần đảo Paracel Islands.
ĐƯỜNG 9-DASH LINE LÀ GÌ?
Đường 9-Dash là đường ranh gây nhiều tranh cãi. TQ đã sử dụng 9-Dash Line để yêu sách chủ quyền trong Biển Nam Hải, nhất là đối với Scarborough Shoal và hai quần đảo Paracel và Spratly Islands. Đường ranh nầy — bao gồm hầu hết vùng Biển Nam Hải, đang trong vòng tranh chấp giữa Philippines, Brunei, Malaysia, Taiwan, Trung Quốc và Việt Nam. Tranh chấp đã khơi mào ngay sau khi TQ đệ nạp bản đồ lên Liên Hợp Quốc trong năm 2009.
Vào cuối năm 2012, Bắc kinh đã phát hành các hộ chiếu mới với bản đồ gồm các khu vực đang tranh cãi, căn cứ trên đường ranh đã gây ra làn sóng phản ứng chỉ trích quốc tế. Các xứ thành viên ASEAN cũng đã phủ nhận đường ranh nầy, nhưng TQ vẫn tiếp tục nhấn mạnh tính chính đáng lịch sử, căn cứ trên các cuộc điều tra, các ngư trường, và lịch sử tuần tiểu hải dương kể từ thế kỷ 15 — trái với các đường ranh UNCLOS đã thực thi trong vùng từ năm 1994.
CÁC KHU VỰC KHÔNG CÓ TRANH CHẤP
Phần lớn những trữ lượng hiện nay đều tọa lạc trong những vịnh nước cạn ven bờ đại dương. Tình trạng nầy phản ảnh công tác thăm dò còn hạn chế trong các khu vực nước sâu.
South China Sea estimated proved and probable reserves South China Sea- black
Từ lâu, Việt Nam, Malaysia, và Brunei đã từng có lịch sử khai thác dài lâu trong vùng Biển Nam Hải. Vì thiếu tiềm năng dầu lửa và hơi đốt trên đất liền, các xứ nầy đã phải chấp nhận đầu tư trong địa hạt kỹ thuật tìm kiếm và khai thác trong các vùng nước sâu, mạng lưới các hệ thống đường ống và khoan dò, với các đối tác nước ngoài cung cấp kỷ năng chuyên môn. Vì vậy, các quốc gia nầy trong thực tế đang có những trữ lượng dầu và hơi đốt quan trọng ngoài đại dương.
Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, nhiều công ty đã bắt đầu mạo hiểm tiến ra xa bờ vào các vùng nước sâu để tìm kiếm các trữ lượng mới, hầu bù đắp vào số trữ lượng tiệm giảm của các khu hiện đang được khai thác. Những khám phá tương đối mới như khu khai thác hơi đốt Liwan 3-1 của TQ, khám phá năm 2006, đã chứng tỏ tiềm năng của công tác thăm dò ngoài biển sâu. Các công ty năng lượng quốc gia của TQ đã khai triển các thành công ban đầu trong vùng vịnh Pearl River Mouth Basin và đã nhanh chóng bành trướng các hoạt động ngoài khơi trong một nổ lực tìm kiếm những trữ lượng mới và tăng gia ngạch số sản xuất.
NHỮNG TRANH CÃI TRONG VÙNG
Theo David Rosenberg, giáo sư khoa học chính trị thuộc Middlebury College, nguyên nhân xung đột trực tiếp trong vùng là sự tranh giành tài nguyên. Hiện có vào khoảng 500 triệu người sinh sống trong vòng 100 dặm dọc bờ biển Nam Hải, và dung lượng hàng hóa vận chuyển qua vùng nầy đã tăng vọt khi TQ và các quốc gia thành viên ASEAN gia tăng mậu dịch quốc tế, kể cả xuất nhập khẩu năng lượng.
Nhu cầu các tài nguyên, đặc biệt là hydrocarbons và ngư nghiệp, cũng đã làm gia tăng tình trạng cạnh tranh kinh tế trong vùng, nhất là trước làn sóng thành thị hóa nhanh chóng ven biển Trung Quốc. Như Rosenberg đã nói, “bên sau mọi điều vừa kể, điều cốt yếu là cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Á châu. Và Biển Nam Hải đã trở thành trục trung tâm.”[1]
Theo Ngân Hàng Thế Giới, Biển Nam Hải có một trữ lượng dầu đã được xác nhận ít nhất là 7 triệu thùng (barrels), và khoảng 900 trillion cubic feet (Tcf) hơi đốt thiên nhiên, những trữ lượng đem lại cơ hội kinh tế cực lớn cho các quốc gia nhỏ bé như Malaysia, Philippines, và Việt Nam, và an ninh năng lượng cho nền kinh tế lớn lao và tăng trưởng nhanh của Trung Quốc.
Trong tháng 12-2012, Cơ Quan Quản Trị Năng Lượng Quốc Gia của TQ (China’s National Energy Administration) đã nêu tên vùng biển đang tranh chấp như địa điểm chính ngoài khơi (main offshore site) để sản xuất hơi đốt thiên nhiên, và một công ty năng lượng lớn của TQ đã bắt đầu công tác khoan dò vùng nước sâu ngoài khơi bờ biển phía Nam.
Tình trạng cạnh tranh căng thẳng đã gia tăng khi Công Ty Dầu và Hơi Đốt Thiên Nhiên Quốc Doanh Ấn Độ loan báo cũng đã đối tác với Petro Vietnam trong việc thăm dò khai thác dầu trong vùng biển tranh chấp.
Trong khi việc thăm dò dầu lửa đang phơi bày một trong những nguy cơ xung đột lớn trong vùng, từ tháng 6-2011 vẫn chưa có một xô xát quan trọng nào xẩy ra. Tuy vậy, Việt Nam đã cáo buộc tàu đánh cá TQ đã cắt dây cáp một tàu thăm dò dầu lửa Việt Nam trong Khu Vực Đặc Quyền Kinh Tế EEZ của Việt Nam.
Các vụ xô xát ngư nghiệp cỡ nhỏ đã trở thành trung tâm các cuộc đối đầu hải dương khi số hải sản suy giảm đã buộc ngư dân phải hành nghề ngày một xa bờ trong vùng tranh chấp để tìm kiếm các loại ngư sản bất hợp pháp hữu lợi.
Trong một vụ va chạm gần đây nhất, lực lượng hải quân Philippines đã chận bắt tám tàu đánh cá TQ trong vùng Scarborough Shoal trong tháng 4-2012, tìm thấy những gì hải quân Phi xem như những hải sản bất hợp pháp trên tàu. Vụ chặn bắt các ngư dân vi luật đã dẫn đến những đụng độ kéo dài hai tháng giữa hai quốc gia. Việc cấm hoạt động chài lưới hàng năm và bắt bớ ngư dân đã được sử dụng như duyên cớ thuận tiện cho việc yêu sách chủ quyền, vì theo một phúc trình của Nhóm Khủng Hoảng Quốc Tế (International Crisis Group), những vụ nầy có thể được trình bày như những nổ lực chính đáng thực thi quyền bảo vệ các tài nguyên hải sản.
Rosenberg đã cho biết, “đây là đề tài không thuộc loại tin hàng đầu cỡ lớn, nhưng 1,5 tỉ người đang sống trong vùng và đang trông cậy chính yếu vào ngư nghiệp để kiếm sống và việc làm. Đó là nơi hầu hết các xung đột tiếp diễn, và hầu hết những vụ nầy đã được giải quyết trên căn bản quản lý xung đột theo lệ thường.”[2]
Kiên quyết chận đứng chính sách tranh giành biển đảo của Bắc Kinh bằng đạo quân đánh cá, Manila dự trù trừng phạt nặng nề 12 ngư dân Trung Quốc với tội “đánh bắt hải sản bất hợp pháp” trong lãnh hải của Philippines. Vụ việc xảy ra vào ngày 08/04/2013 : một tàu đánh cá treo cờ Trung Quốc bị mắc cạn trong vùng biển Sulu, một danh lam của Philippines, được tổ chức UNESCO công nhận là di sản thế giới. Toán 12 ngư dân Trung Quốc lập tức bị cảnh sát biển của Philippines bắt giữ. Theo Asia News, vụ việc đã làm tăng thêm căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước.
Một viên chức địa phương ở đảo đá ngầm Tubbataha cho biết : nhóm ngư dân Trung Quốc đã giải thích: họ chỉ “xui xẻo gặp nạn.” Với tội danh “đánh cá bất hợp pháp”, các ngư dân này có thể sẽ bị án tù, cộng thêm tiền phạt.
Đại sứ quán Trung Quốc đã gửi nhân viên đến thăm ngư dân của họ trong nhà tù. Tính từ năm 2002, đây là lần thứ bảy tàu cá Trung Quốc đã bị Philippines bắt giữ.
Trong chiến lược “cường quốc hải dương” của Bắc Kinh, Trung Quốc đã liên tục xâm phạm ngư trường của Hàn Quốc, tranh giành biển đảo với Nhật Bản và nhiều quốc gia Đông Nam Á, và gần đây nhất, đã bắn đạn lửa gây hỏa hoạn cho một tàu cá Việt Nam ngay trong ngư trường của Việt Nam
Theo nhận định của Asia News, hiện nay Nhật Bản và Philippines đang tích cực đối phó với tham vọng của Bắc Kinh, với hy vọng Việt Nam sẽ trở thành một “đồng minh đáng kính nể.”
Quần Đảo Spratly
EIA thẩm định vùng biển chung quanh quần đảo Spratly hầu như không có trữ lượng dầu hay hơi đốt thiên nhiên được xác nhận hay xác suất cao. Các nguồn tin trong kỹ nghệ năng lượng lại gợi ý có một trữ lượng chưa đến 100 tỉ cubic feet (Bcf) hơi đốt thiên nhiên, trên bình biện kinh tế, hiện có thể khai thác trong các lô vây quanh.
Tuy nhiên, quần đảo Spratly có thể chứa đựng nhiều “trữ lượng quan trọng các năng lượng chưa được khám phá”. Thẩm định của USGS ước tính một trữ lượng dầu từ 0,8 đến 5,4 tỉ thùng và từ 7,6 và 55,1 trillion cubic feet (Tcf) hơi đốt thiên nhiên (tài nguyên chưa được khám phá).
Bằng chứng cho thấy phần lớn các tài nguyên nầy đều tọa lạc trong khu Reed Bank phía Đông Bắc Spratly, do TQ, Taiwan và Việt Nam đang đòi hỏi chủ quyền. Riêng Philippines đã bắt đầu thăm dò khu nầy trong năm 1970 và khám phá có hơi đốt thiên nhiên năm 1976. Công ty Sterling Energy có trụ sở ở Hoa Kỳ đã trúng thầu năm 2002, và công ty Forum Energy đã thủ đắc nhượng quyền khai thác năm 2005. Tuy nhiên, sự chống đối của TQ đã chận đứng trình tự khai thác, và khu nầy vẫn chưa được triển khai.
Quần Đảo Paracel
Cho đến nay chưa ai khám phá được dầu hay hơi đốt quy ước trong quần đảo Paracel, và vì vậy, có thể nói khu vực nầy không có trữ lượng xác nhận hay có xác suất cao . Bằng chứng địa chất cũng cho thấy không có tiềm năng đáng kể nào về năng lượng quy ước.
Territorial Claims
South China Sea territorial claims Teritorial Claims
*excluding buffer zone along littoral states (calculations for buffer unknown)
Source: U.S. Engergy Information Administration
TRANH CHẤP ĐÃ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁC TUYẾN ĐƯỜNG THƯƠNG MÃI HẢI DƯƠNG
Vào khoảng 50% các tàu chở dầu toàn cầu đi xuyên qua Biển Nam Hải, gấp ba lần số tàu dầu đi qua kênh Suez và hơn 5 lần số đi qua kênh Panama. Nói một cách khác, tuyến đường đi qua Biển Nam Hải là tuyến đường rộn rịp nhất thế giới. Theo Hiệp Hội các Bến Cảng và Hải Cảng, hơn phân nửa con số mười cảng chuyên chở hàng đầu thế giới đều ở trong phạm vi và chung quanh Biển Nam Hải. Vì mậu dịch bên trong ASEAN đã gia tăng nhanh chóng, từ 29% trong năm 1980 đã lên đến 41% trong năm 2009 — duy trì tự do giao thông đã trở nên cực kỳ quan trọng đối với toàn vùng.
Theo Dr. Yann-Huei Song, thuộc Academia Sinica ở Taiwan, “đây là đề tài rất quan trọng, và đã trở thành mối quan tâm chính của Nhật, Hoa Kỳ, và giờ đây ngay cả Liên Hiệp Âu Châu.”[3] Tuy nhiên, Yann-Huei nói, TQ chắc không gây gián đoạn lưu thông, một điều kiện thiết yếu cho các hoạt động thương mãi, tìm kiếm, và nhập khẩu của chính TQ.
Theo tạp chí Harvard Quarterly Paper, các chuyên gia lập luận: lợi ích chung của hội nhập kinh tế cấp vùng đã là một động lực cực kỳ cấn thiết đối với sự hợp tác cấp vùng trong các địa hạt tài nguyên, bảo quản, và vận chuyển an toàn.
QUYỀN LỢI QUÂN SỰ LÀ GÌ?
Á Châu-Thái Bình Dương cũng đã chứng kiến khuynh hướng quân sự hóa gia tăng như một phản ứng trước quyền lực ngày một hùng mạnh của TQ, nâng cao tiềm năng xung đột vũ lực và các tranh chấp thêm phần khó giải quyết.
Việt Nam và Malaysia đã dẫn đầu trong nổ lực tăng cường quân sự trong vùng và gia tăng mậu dịch vũ khí với Liên Bang Nga và Ấn Độ, trong khi Philipines đã tăng gấp đôi ngân sách quốc phòng trong năm 2011 và cam kết tập trận chung với Hoa Kỳ trong 5 năm sắp tới. Philippines cũng đã khởi động một chương trình canh tân một tỉ mỹ kim, phần lớn để mua tàu chiến và phản lực cơ của Hoa Kỳ.
Theo David Rosenberg, “bên sau tất cả những động thái nầy, cốt lõi là một cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Á Châu. Và Biển Nam Hải đã trở thành một trục trung tâm.”[4]
Các tàu chiến thường can dự vào các tranh chấp hải dương, như biến cố Scarborough Shoal trong tháng 4-2012 khi Philippines cho biết tàu chiến lớn nhất của họ, mua từ Hoa Kỳ, đã đụng đầu với các tàu giám sát của TQ khi tìm cách bắt các ngư dân TQ, nhưng đã bị chận đứng bởi các tàu giám sát. Theo ICG, sự dính líu của hải quân đã làm cho các thỏa hiệp chính trị thêm phần khó khăn.
Rosenberg đưa ra nhận xét: “Không có gì giống như NATO ở Á Châu, và đó là điều đáng lo. Không giống như Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu luôn can dự vào các vùng khác trên thế giới, các quốc gia Đông Nam Á buộc lòng phải chi tiêu nhiều hơn để bảo vệ quyền lợi trước mắt của chính mình. Đây không phải là chiến tranh lạnh, nhưng các quốc gia nầy chưa hoàn toàn cởi mở với nhau trong các chương trình canh tân quân sự.”[5]
LÀM GÌ ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP?
Theo Stewart Patrick, một trong những bế tắc lớn lao nhất cho một giải pháp là TQ nhấn mạnh căn bản song phương trong chính sách ngoại giao. Quốc gia chủ nghĩa cũng đã làm gia tăng bế tắc. Các tòa án quốc tế hiện hữu, như Tòa Quốc Tế về Luật Biển, cũng chỉ được các quốc gia sử dụng một các lựa chon tùy theo tiềm năng chính trị nội bộ cần tỏ ra hòa hoản.
TQ cũng đã nhiều lần bác bỏ các cơ chế trung gian hòa giải của Liên Hợp Quốc. Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN tháng 7- 2012 đã tìm cách giảm thiểu xung đột, cuối cùng cũng đã không thể thành đạt ngay cả ra một thông cáo chung — một thực tế, theo vài chuyên gia, đã chứng tỏ những khó khăn trong cách tiếp cận đa phương của các quốc gia trong vùng. Bản tuyên bố sáu điểm của ASEAN trong tháng 7 đã không nhắc gì đến các xô xát hay va chạm đặc biệt nào, và chỉ ghi nhận một thỏa thuận soạn thảo và thể hiện một thỏa hiệp ứng xử cấp vùng, tôn trọng luật pháp quốc tế, và hành xử tự chế.
Josh Kurlantzick, thuộc Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại (Council on Foreign Relations — CFR) đã nói trong tháng 8-2012, “trong khi ASEAN là diễn đàn thích hợp để làm trung gian trong các vụ tranh chấp, tổ chức vẫn chưa tìm được một lập trường cần thiết để chuyển biến thành một tổ chức hội nhập mạnh mẽ có khả năng lãnh đạo.”[6] Trong một bài viết IIGG tháng 11-2012, Kurlantzick đã xem xét khả năng ASEAN có thể tăng cường vai trò của tổ chức trong vùng để đáp ứng những thử thách như Biển Nam Hải.
Vì vậy, theo ICG, các chuyên gia đã đề nghị phương cách đồng quản lý các tài nguyên như phương cách tốt nhất để làm dịu bớt tình hình căng thẳng hiện nay. TQ và Việt Nam đã tìm cách hợp tác trong một vùng đánh cá chung trong Vịnh Bắc Việt, nơi cả hai quốc gia đã mô tả các yêu sách và quy định phương cách hành nghề của ngư dân. Tuy nhiên, khai thác dầu lửa vẫn là một đề tài tranh cãi nóng bỏng, khi Việt Nam và Philippines đã thể hiện các dự án thăm dò hơi đốt thiên nhiên với các công ty đối tác ngoại quốc trong vùng đang tranh cãi.
ĐIỀU NẦY CÓ NGHĨA GÌ ĐỐI VỚI CHỐT Á CHÂU CỦA HOA KỲ?
Chốt Á Châu-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, cùng với vô số xung đột trong khu vực, đã làm gia tăng quan tâm đối với tương lai quyền lợi của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á. Chính quyền Obama không những đã tăng cường quan hệ với ASEAN, mà cũng đã xây đắp quan hệ chặt chẽ với Myanmar, nơi Obama đã khai triển sự chú tâm và chiến lược can dự mới. Hoa Kỳ cũng đã tăng cường “hợp tác an ninh” với Việt Nam, trong khi Malaysia và Singapore cũng đã có nhiều tín hiệu muốn gia tăng “hợp tác an ninh” với Mỹ.
Một tài liệu nghiên cứu trong năm của Đại Học Johns Hopkins ghi nhận: Đông Nam Á đã chuyển biến trong hai thập kỷ vừa qua thành một khu vực, nơi uy lực và tham vọng chiến lược của TQ đang đối mặt với sự hiện diện quân sự lâu năm của Hoa Kỳ, và là “nơi nhận thức của TQ về quy chế Biển Nam Hải trong căn bản đối nghịch với sự đồng thuận lâu năm giữa các cường quốc hải dương.”[7]
Các chuyên gia cho biết Hoa Kỳ đang đối diện một thế lưỡng nan và một hành động giữ thăng bằng khó khăn trong vùng: trong khi vài thành viên ASEAN đang mong muốn Hoa Kỳ giữ một vai trò đầy sức thuyết phục để đối kháng với điều họ xem như thái độ khẳng định ngày một rõ nét của TQ, trong khi vài thành viên khác lại muốn thấy một vai trò can dự giảm thiểu của Mỹ.
Bonnie Glaser, thuộc CFR, đã đưa ra nhận xét: trong Tài Liệu Ghi Nhớ Hoạch Định Bất Trắc (Contingency Planning Memorandum), xét cho cùng, ưu tiên hàng đầu của tất cả các bên là phải tìm mọi cách tránh né mọi xung đột quân sự; ngay cả khi đang so găng với các láng giềng Đông Nam Á, TQ cũng đang trở thành đối tác thương mãi lớn nhất và một trong những quốc gia đầu tư trực tiếp lớn nhất trong hầu hết các quốc gia Đông Nam Á từ khi khu vực tự do mậu dịch ASEAN-TRUNG QUỐC thành hình.
Ở đây, tưởng cần nhắc lại bài học của Cuộc Chiến Việt Nam người Mỹ tưởng chừng không bao giờ có thể quên. Nhưng rồi người Mỹ cũng đã quên bẵng ngay từ những ngày chuẩn bị cuộc chiến thay đổi chế độ ở Afghanistan và Iraq.
Chúng ta chỉ còn biết cầu nguyện tất cả các bên nhìn lại những gì gần đây nhất, ngay cả hiện nay đã và đang xẩy ra không những cho các quốc gia nạn nhân, Iraq, Afghanistan, Pakistan, Libya, Syria…mà ngay cả cho nhân dân trong “siêu cường duy nhất” và “các cường quốc Tây Phương” luôn muốn can dự.
MẬU DỊCH TOÀN CẦU
Hơn một nửa lượng hàng hóa mua bán trên thế giới đều đi qua Eo Biển Malacca, Sunda, và Lombok, với phần lớn tiếp tục đi đến Biển Nam Hải. Gần 1/3 dầu thô và quá một nửa số hơi đốt thiên nhiên toàn cầu đều đi ngang qua Biển Nam Hải, biến vùng nầy thành một trong các tuyến đường thương mãi hải dương quan trọng nhất thế giới.
Mậu dịch hải dương hướng đến phương Đông xuyên qua Biển Nam Hải đều đi qua Eo Biển Malacca, Sunda, và Lombok, mặc dù có rất ít nguồn tin chi tiết về dung lượng trao đổi. Một cuộc nghiên cứu trong năm 2006 do Bộ Đất Đai, Hạ Tầng Cơ Sở, và Vận Tải của Nhật (Japan’s Ministry of Land, Infrastructure, and Transport — MLIT) ước tính, đã có đến gần 94 nghìn tàu biển cỡ 100 trọng tấn hay lớn hơn đi qua Eo Biển Malacca năm 2004 trong số 607 nghìn tàu biển chuyển vận, hay 15% tổng số các tàu chở hàng trên thế giới. Trong số nầy, 32% là tàu chở containers, 25% tàu chở dầu, 15% tàu chở hàng và 15% tàu chở hàng rời, với số còn lại chở hơi đốt thiên nhiên ở thể lỏng (LNG), và các loại tàu khác.
Một cuộc nghiên cứu kế tiếp vào cuối năm 2007 đã ước tính 117 nghìn tàu biển đã chạy qua Malacca trong năm 2010 với một tổng số trọng tải 4,7 tỉ tấn. Tạp Chí Vận Tải Đại Dương 2001 của Hội Nghị Liên Hợp Quốc về Mậu Dịch và Phát Triển (The United Nations Conference on Trade and Development [UNCTAD] Review of Maritime Transport 2011), đã ước tính 8,4 tỉ tấn hàng mậu dịch hải dương trên thế giới trong năm 2010. Dung lượng nầy phản ảnh hơn một nửa số tàu thương mãi hàng năm đã chạy qua Eo Biển Malacca, Sunda, và Lombok trong năm 2010.
Với số cầu năng lượng gia tăng của Á châu, EIA chờ đợi một phần ngày một lớn số dầu sản xuất trong Vùng Vịnh Ba Tư và Phi Châu đều đi qua Biển Nam Hải. Ngoài ra, các quốc gia Á Châu cũng đang đầu tư vào quá trình thăm dò và khai tác hơi đốt thiên nhiên mới trong vùng, cũng sẽ chiếm một phần gia tăng trong số LNG mua bán trên toàn cầu.
DẤU THÔ
Theo tài liệu của Lloyd’s List Intelligence tanker-tracking service và GTIS Global Trade Atlas, vào khoảng 14 triệu thùng dầu thô đi qua Biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan mỗi ngày, hay gần 1/3 số dầu vận chuyển trên toàn cầu. Trên 90% tổng số dòng chảy đến từ Eo Biển Malacca, trong khi phần còn lại đến từ thương mãi cấp vùng trong nội bộ Đông Nam Á.
Trước hết, khoảng 15,2 triệu thùng dầu mỗi ngày (MMbbl/d) đi qua Eo Biển Malacca trong năm 2011, tuyến đường biển ngắn nhất giữa các nhà cung cấp Phi Châu và Vịnh Ba Tư và các thị trường Á Châu. Một số lớn dầu thô đi đến Eo Biển Malacca (1,4 MMbbl/d) tiếp tục hành trình đến Singapore và Malaysia, nơi dầu thô được tinh lọc và tái xuất cảng như dầu tinh lọc.
Kế đến, phần còn lại của dòng chảy (12,8 triệu thùng, MMbbl/d) tiếp tục đi qua Biển Nam Hải đến Trung Quốc (4,5 MMbbl/d) và Nhật (3,2 MMbbl/d), hai quốc gia tiêu thụ năng lượng lớn nhất ở Á Châu.
Cuối cùng, khoảng 15% dầu đi qua Biển Nam Hải sẽ tiếp tục đi qua Biển Đông Trung Hoa, phần lớn đến Nam Hàn.
Dòng chảy dầu thô trong Biển Nam Hải cũng còn đến từ thương mãi cấp vùng bên trong nội bộ Đông Nam Á, đặc biệt dầu xuất khẩu từ Malaysia (0,4 MMbbl/d), Indonesia (0,3 MMbbl/d), và Australia (0,2 MMbbl/d). Mậu dịch bên trong vùng được phân phối gần như đồng đều giữa Singapore, Nam Hàn, Nhật, và Trung Quốc, với những số nhỏ hơn đến các xứ Đông Nam Á khác. 1/5 dòng chảy dầu thô bên trong vùng Đông Nam Á, nhiều nhất cho bất cứ xứ nào nhập khẩu, đến Singapore để tinh lọc. Khoảng 0,2 MMbbl/d dầu thô đi về phía Nam qua Eo Biển Lombok để đến Australia và Thái Bình Dương.
HƠI ĐỐT THIÊN NHIÊN THỂ LỎNG — LNG
EIA ước tính khoảng 6 trillion cubic feet (Tcf) hơi đốt thiên nhiên thể lỏng (LNG), hay hơn phân nửa số LNG mậu dịch toàn cầu, đã đi qua Biển Nam Hải trong năm 2011, sử dụng các dữ kiện từ PFC Energy và Cedigaz. Khoảng 56% con số nầy (3,4 Tcf) nhập khẩu vào Nhật, 24% vào Nam Hàn (1,4 Tcf), 19% vào TQ (0,6 Tcf) và Taiwan (0,6 Tcf), và phần còn lại đến các xứ khác trong vùng.
Xứ xuất khẩu lớn nhất qua đại dương là Qatar với 1,2 Tcf. Tính chung, Qatar, Malaysia, Indonesia, và Australia chiếm gần đến 75% số LNG xuất khẩu đến vùng nầy.
Tiếp theo sau cuộc khủng hoảng Fukushima, Nhật đã nâng cao số LNG nhập khẩu. Trong 6 tháng đầu năm 2012, khu vực Biển Nam Hải đã chiếm khoảng 58% dung lượng LNG trao đổi, theo số liệu của PFC Energy. Với số cầu hơi đốt ngày một gia tăng trong vùng Đông Á, EIA dự báo thị phần mậu dịch LNG toàn cầu của khu vực Biển Nam Hải sẽ tăng gia trong những năm tới. Phần lớn số cung mới sẽ đi qua Eo Biển Malacca, mặc dù các quốc gia như Singapore và Indonesia đang đầu tư vào các nhà máy tái khí hóa mới, được tiếp liệu bởi các khu khai thác hơi đốt trong vùng Biển Nam Hải, để gia tăng khả năng xuất khẩu LNG của chính những xứ nầy.
TÓM LƯỢC
Trong những năm gần đây, một số quốc gia Á Châu đang tranh đua đòi hỏi chủ quyền đối với khu vực Biển Nam Hải và tài nguyên trong khu vực. Hiện nay, chưa hề có một giải pháp quốc tế nào cho những tranh chấp vừa nói.
Trên phương diện lịch sử, vùng Biển Nam Hải đã luôn là một nguồn xung đột giữa một số quốc gia. Ngư thuyền từ một quốc gia bị các quốc gia đòi hỏi chủ quyền sách nhiễu, đôi khi đưa đến một số thường dân thương vong. Một số công ty tư nhân được phép thăm dò dầu lửa và hơi đốt thiên nhiên bởi một xứ đã bị từ chối không được phép tiếp cận những lô đang còn tranh chấp bởi tàu vũ trang của các quốc gia đòi hỏi chủ quyền khác. Xung đột quân sự thỉnh thoảng đã xẩy ra giữa các quốc gia duyên hải. Xung đột quan trọng nhất đã xẩy ra trong năm 1974 khi TQ cưởng chiếm quần đảo Paracel từ Việt Nam.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật Bản đã đòi hỏi hai quần đảo Spratly và Paracel. Thỏa ước Hòa Bình với Nhật năm 1951 đã không giái quyết xứ nào được quyền sở hữu hai quần đảo nầy sau khi Nhật từ bỏ đòi hỏi.
Quy Ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) vẫn chưa giải quyết các tranh chấp chủ quyền ở vùng Biển Nam Hải. Quy Ước 1982 đã đưa ra một số hướng dẫn liên quan đến quy chế các hải đảo, các thềm lục địa, các khu đặc quyền kinh tế (EEZ), lãnh hải, và biên giới lãnh thổ.
UNCLOS tuyên bố các quốc gia cùng đòi hỏi chủ quyền trong cùng một khu vực phải giải quyết qua thương nghị với thiện chí.
Theo điều 121(3) của UNCLOS (1973), các hải đảo có thể phát sinh các EEZ và ấn định các thềm lục địa. Hành động đơn thuần chiếm đóng các hải đảo không tự động đem lại các quyền nầy, nhất là trong những khu vực đang tranh cãi. Vấn đề thực sự là cần xem xét các khối đất như đá và đảo nhỏ hay hải đảo.Theo điều 121 (3) của UNCLOS, “những khối đá không thể giúp duy trì chỗ cư trú cho con người hay có một đời sống kinh tế riêng sẽ không phát sinh khu vực đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.”[8]
Những tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải đã khuấy đục quan hệ giữa TQ và các xứ Philippines, Việt Nam, Taiwan, Malaysia, và Brunei trong những năm gần đây. Tình hình căng thẳng còn leo thang sau ngày T T Barack Obama loan báo chốt Á Châu Thái Bình Dương.
Vùng ‘lưỡi bò” — bao phủ gần như toàn bộ Biển Nam Hải, được xem như giàu hải sản, tài nguyên thiên nhiên, và cũng là con đường thương mãi hải dương thiết yếu — luôn bị đe dọa bởi nổ lực cân bằng ngoại giao và quân sự trong chiến lược mới của Hoa Kỳ.
Các yêu sách chủ quyền trong vùng của TQ và lập trường đề kháng mạnh mẽ các nổ lực giàn xếp quốc tế đã nhận chìm mọi cố gắng giải quyết các cuộc khủng hoảng và tăng cường tinh thần quốc gia trong mọi xứ liên hệ, đặc biệt là Việt Nam và Philippines. Các chuyên gia đều nhận thấy tiềm năng xung đột leo thang, với nguy cơ khủng hoảng luôn đe dọa toàn vùng Nam Hải cũng như quyền lợi của chính Hoa Kỳ trong khu vực.
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
16-4-2013
[1] Rosenberg said, “Behind it all, it’s essentially the industrial revolution of Asia. And the South China Sea has become the hub of that.”
[2] …This is an issue that doesn’t make big headlines, but 1.5 billion people live there and rely heavily on fisheries for food and jobs. That’s where most of the conflict goes on, and most of these have been dealt with on a routine conflict management basis.
[3] …This is a very important issue, and has become the main concern of Japan, the United States and even right now the European Union.
[4] Behind it all, it’s esentially the industrial revolution of Asia. And the South China Sea has become the hub of that.
[5] There’s nothing like NATO in Asia, and that’s what’s worrisome. Unlike the U.S. and EU, which are engaged in other regions of the world, the Southeast Asian countries are compelled to spend more protecting their most immediate interests. It’s not the Cold War by any means, but they’re still not very open with each other about military modernization.
[6] …while ASEAN was an appropriate venue to mediate this dispute, the organization still has not yet found its footing in transitioning to a forceful, integrated organization that can provide leardership.
[7] …where a Chinese perception of the status of the South China Sea is fundamentally at odds with a long-settled consensus among major maritime states.
[8] According to Article 121 (3) of UNCLOS, rocks which cannot sustain human habitation or economic life of their own shall have no exclusive economic zone or continental shelf.