Việc
Nhật Bản tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP) được xem là sự kiện quan trọng nhất trong quan hệ giữa Mỹ với châu
Á-Thái Bình Dương trong thập kỷ qua. Không có một Nhật Bản hồi sinh
kinh tế, châu Á sẽ ngày càng bị hút ra khỏi Mỹ và rơi vào quỹ đạo kinh
tế-chiến lược của Trung Quốc.
Ảnh
hưởng của Trung Quốc hiện nay xuất phát chủ yếu từ kinh tế. Trong khi
đó, Mỹ hiện có tương đối ít đòn bẩy kinh tế trong trục châu Á của mình,
với một vài hiệp định thương mại tự do (FTA) ký kết với những nước thân
cận như Ôxtrâylia, Xinhgapo và Hàn Quốc. Thay vào đó, Mỹ tập trung chủ
yếu vào các nỗ lực chính trị và quân sự, chẳng hạn cải thiện quan hệ với
Việt Nam hoặc triển khai bổ sung các nguồn phòng thủ tên lửa đạn đạo
khu vực.
Một
khi được thực hiện, TPP - có sự tham gia của Nhật Bản - sẽ lấp đầy
khoảng trống kinh tế trong chính sách châu Á của Mỹ bằng cách gia tăng
luồng thương mại giữa các thành viên, khiến họ bớt phụ thuộc vào thương
mại với Trung Quốc và tăng vị thế kinh tế với nước láng giềng khổng lồ
này. Quan trọng hơn là sự tham gia của Nhật Bản, với tư cách là nền kinh
tế lớn nhất châu Á trong TPP, sẽ làm tăng gấp bội ảnh hưởng về kinh tế
của hiệp định này. Nó cũng đưa Mỹ trở lại cuộc chơi thương mại tự do.
TPP cũng sẽ bổ sung các mối quan hệ an ninh của Oasinhtơn, bởi các nước
thành viên chủ yếu là đồng minh quân sự thân cận của Mỹ với những quan
ngại chung về sự phô trương quân sự hiếu chiến của Trung Quốc.
Chiến
lược của Mỹ ở châu Á phụ thuộc vào sự hồi sinh của nền kinh tế Nhật
Bản, mà nền kinh tế này sẽ phụ thuộc vào chương trình kinh tế ba mũi
nhọn của ông Abe (hay còn gọi là Abenomics). Hai thành tố đầu tiên của
Abenomics là tài chính và tiền tệ, đã được thực hiện và dự kiến tiếp
diễn trong tương lai gần. Ông Abe dự kiến tiến hành cải cách cấu trúc
trong nước để đánh thức nền kinh tế Nhật Bản sau giấc ngủ vùi suốt hai
thập kỷ.
Về
mặt chính trị, ông Abe dựa vào các cuộc đàm phán TPP như một phương
tiện để lèo lái chương trình cải cách. Nguyên tắc trung tâm của chương
trình này là cải thiện tính cạnh tranh và giành lại lợi thế xuất khẩu
cho Nhật Bản. TPP sẽ dẫn đến chi phí thấp hơn cho hàng hóa nhập khẩu,
tăng cường sự tiếp cận khu vực của các nhà xuất khẩu Nhật Bản và giảm sự
phụ thuộc thương mại của Nhật Bản vào Trung Quốc. Tuy nhiên, điều này
đòi hỏi những sáng kiến (hiện vẫn đang được tranh cãi ở trong nước) phải
được thông qua như tăng tỷ lệ thuế tiêu thụ, nâng sự tham gia của lực
lượng lao động, giảm giá điện, và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Thách
thức lớn nhất đối với Thủ tướng Abe là việc cắt giảm thuế quan và các
hàng rào phi thuế quan của Nhật Bản đối với những mặt hàng chủ lực như
gạo, do khu vực cử tri nông thôn đã bỏ phiếu cho đảng Dân chủ Tự do
(LDP) cầm quyền và sự phản đối tiềm tàng trong nội bộ đảng. Chính vì
thế, không mấy ngạc nhiên khi ông Abe tuyên bố bảo hộ một phần khu vực
nông nghiệp quan trọng để thuyết phục các nghị sĩ ủng hộ những chính
sách còn lại trong chương trình cải cách.
Chính
trường Nhật Bản sẽ ngày càng có vai trò xác định sự thành công của TPP.
Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ và đồng minh, trong khi thừa nhận
những lợi ích kinh tế quốc gia riêng, cần ủng hộ chương trình cải cách
của ông Abe. Nhật Bản cần được phép chậm giảm thuế quan nông nghiệp
trong thời gian dài, để vừa khuyến khích cải cách nông nghiệp dài hạn ở
trong nước, vừa ngăn chặn sự phản đối trong LDP, nhân tố có thể đặt dấu
chấm hết cho sự tham gia TPP của Nhật Bản.
Sự
thất bại của Abenomics có thể tạo ra nguy cơ bất ổn toàn cầu nghiêm
trọng. Nếu ông Abe thất bại ở trong nước, cải cách cơ cấu sẽ bị trì
hoãn. Có hai kịch bản đáng lo ngại và đều tồi tệ đối với Nhật Bản và các
nước. Thứ nhất, nếu không thực hiện được cải cách, chương trình nới
lỏng tiền tệ lớn của ông Abe cùng với gói kích thích thâm hụt mạnh mẽ có
thể dẫn đến lạm phát đình trệ - sự kết hợp tồi tệ giữa lạm phát cao,
kìm hãm tăng trưởng và thất nghiệp tăng. Thứ hai, do gánh nặng nợ nần
khổng lồ của Nhật Bản ở mức 230% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), việc chỉ
tăng 2% lãi suất trái phiếu chính phủ Nhật Bản sẽ nâng chi phí dịch vụ
nợ lên mức 100% ngân sách chính phủ. Kịch bản này là thực sự có thể xảy
ra do tình trạng thâm hụt thương mại cùng tăng trưởng yếu kéo dài của
Nhật Bản. Trường hợp xấu nhất có thể dẫn đến tình trạng bán tháo trái
phiếu Nhật Bản của các nhà đầu tư nước ngoài lẫn trong nước.
Tất
cả những kịch bản đó đều gây hậu quả tệ hại là đẩy Nhật Bản đến tình
trạng vỡ nợ nghiêm trọng, nhấn chìm cuộc đàm phán TPP. Tồi tệ hơn là một
Nhật Bản tuyệt vọng về kinh tế có thể chuyển hướng theo con đường dân
tộc chủ nghĩa độc hại, và trớ trêu là đẩy nước này vào vòng tay của
Trung Quốc cũng như phá hủy chiến lược châu Á của Mỹ.
Theo “The Diplomat”
Thuỳ Anh(gt)