20:1' 1/8/2013
Vấn đề hợp tác trong lý thuyết quan hệ quốc tế
Liên minh (Alliance):
Là mối quan hệ hợp tác chính thức hoặc không chính thức giữa hai hoặc
nhiều nước nhằm hỗ trợ lẫn nhau trên một mức độ nào đó về phối hợp chính
sách liên quan đến các vấn đề về an ninh hiện tại và tương lai. Hình
thái “an ninh tập thể” thường là cách thể hiện mô hình này. Theo đó các
nước ký kết một hiệp ước (chính thức hoặc không chính thức) cam kết giúp
đỡ nhau khi bất cứ thành viên nào bị đe dọa.
Chức
năng của liên minh là để “củng cố an ninh của đồng minh” thông qua việc
hợp tác để “hợp lực” chống lại một thế lực khác. Lịch sử quan hệ quốc
tế cho thấy, sự phát triển của mô hình liên minh là các đồng minh đánh
giá nhau qua khả năng trợ giúp nhau về mặt quân sự nhằm răn đe hoặc
trừng phạt một liên minh đối lập.
Đối tác (Partnership):
Là thuật ngữ chỉ mối quan hệ cộng tác - hợp tác nhưng ở mức độ cao hơn
và cụ thể hơn. Các nhà nghiên cứu định nghĩa: “Đối tác bao gồm hai hay
nhiều bên hành động cùng nhau để nâng cao hợp tác bằng việc thực hiện
những mục tiêu chung. Xây dựng những kênh/cơ chế giải quyết các bất
đồng/tranh chấp, biện pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác và phương pháp đánh
giá tiến bộ cũng như chia sẻ những thành tựu hợp tác”. Hành động cùng
nhau chung mục tiêu và chung lợi ích là những tiêu chí của quan hệ đối
tác. Một mối quan hệ đối tác bao gồm sự gần gũi, bình đẳng, có đi có
lại, và thỏa thuận về những mục tiêu chung.
Chiến lược (Strategic):
Nghĩa rộng là sự quan trọng có tính toàn cục, then chốt và có giá trị
tương đối lâu dài về mặt thời gian, đặc biệt, trong các bối cảnh liên
quan đến việc sử dụng sức mạnh quân sự. “Chiến lược” dùng để chỉ tính
tổng thể, để tạo sự khác biệt với những chi tiết (chiến thuật); nghệ
thuật sử dụng nguồn lực, kết hợp với các giá trị về đạo đức, để đạt được
những mục tiêu. Trong nhiều tình huống, từ “chiến lược” thường liên
quan đến các lĩnh vực an ninh - quân sự mặc dù không hoàn toàn là một
thuật ngữ chỉ dùng trong lĩnh vực an ninh - quân sự.
Đối tác chiến lược
(Strategic Partnership) chỉ một mối quan hệ hợp tác quan trọng (nhưng
không nhất thiết chỉ tập trung trong lĩnh vực an ninh - quân sự) vừa có
tính hướng vào mục tiêu cụ thể, vừa có hàm ý mong muốn quan hệ lâu dài
(quan hệ “win - win” cùng có lợi). Đặc điểm của quan hệ đối tác chiến
lược là không có giới hạn về không gian, thời gian; không hạn chế về đối
tượng áp dụng; không hạn chế về lĩnh vực hợp tác, và không nhất thiết
phải mang nội dung an ninh - quân sự.
Đối tác
chiến lược là một dạng quan hệ hợp tác phong phú, trong đó thành phần,
nội dung, hình thức, mức độ… hoàn toàn tùy thuộc vào sáng kiến của các
bên. Các nhà nghiên cứu quốc tế cho rằng, hạn chế duy nhất đối với mối
quan hệ đối tác chiến lược là “sức tưởng tượng của các bên tham gia”.
Thuật
ngữ “đối tác chiến lược” lần đầu được sử dụng vào khoảng những năm 1990,
1991 để chỉ quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Từ đó, thuật ngữ này được sử
dụng rộng rãi.
Theo
quan niệm của GS. Va-lê-ri Lót-xkin (Nga), “đối tác chiến lược” phải bao
gồm những nội dung sau: không tấn công lẫn nhau; không liên minh chống
lại các nước khác; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; phải
có lòng tin lẫn nhau. Đối với Mỹ, đối tác chiến lược phải bao gồm hợp
tác chặt chẽ về quân sự, an ninh.
Về hình
thức: đối tác chiến lược có thể diễn ra linh hoạt (chính thức hoặc không
chính thức, song phương hoặc đa phương, diện và mức độ tham gia rộng
hoặc hẹp, nhiều hoặc ít…) và có tính mở vì không hướng tới một kết cục
cụ thể.
Trong
thực tế, có những mối quan hệ tuy không phải là đối tác chiến lược,
nhưng thực chất lại còn hơn cả đối tác chiến lược. Ví dụ: Quan hệ Mỹ -
EU tuy không phải là đối tác chiến lược, nhưng mối quan hệ hợp tác thì
vô cùng chặt chẽ. Còn quan hệ Bra-xin - EU tuy là quan hệ đối tác chiến
lược nhưng mức độ quan hệ không thể so sánh được với quan hệ Mỹ - EU.
Quan hệ đối tác chiến lược của Việt Nam
Với Việt
Nam, đối tác chiến lược là mối quan hệ chiến lược gắn với ngoại giao,
kinh tế. Theo TS. Lê Hồng Hiệp (Học viện Ngoại giao): Quan hệ đối tác
chiến lược mà Việt Nam quan niệm bao gồm hợp tác về an ninh, thịnh vượng
và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.
- An
ninh: quan hệ đối tác chiến lược đó sẽ giúp cho Việt Nam củng cố nền
tảng ngoại giao và quốc phòng, hỗ trợ tích cực cho Việt Nam trong việc
giữ gìn an ninh, bảo toàn chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
- Thịnh
vượng: mối quan hệ kinh tế với đối tác đó phải góp phần quan trọng vào
sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nó thể hiện trên các lĩnh
vực: quan hệ thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển (ODA) và chuyển
giao công nghệ. Ví dụ như: thương mại song phương phải đạt kim ngạch tối
thiểu 10 tỷ USD, đầu tư song phương đạt từ 5 tỷ USD trở lên,… Nếu các
tiêu chí đó chưa đạt được thì phải xét đến quy mô và mức độ phát triển
của quốc gia đó.
- Nâng
cao vị thế của Việt Nam: quốc gia đối tác chiến lược phải là những nước
lớn, hoặc cường quốc hạng trung tiêu biểu; có vị thế và ảnh hưởng quan
trọng, đáng kể đối với đời sống chính trị thế giới và khu vực.
Ngoài 3
tiêu chí an ninh, thịnh vượng, nâng cao vị thế của Việt Nam cần phải có
những tiêu chí khác nữa như quan hệ lâu dài, cùng có lợi (mức độ lợi ích
có thể chia đều, hoặc hơn kém do hai nước quy định), có niềm tin tưởng
vào nhau…
Tháng
1-2013, nhân chuyến thăm I-ta-li-a của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai
nước đã ký tuyên bố thiết lập quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam -
I-ta-li-a. Ngày 26-6-2013, Việt Nam và Vương quốc Thái Lan ra Tuyên bố
chung Việt Nam - Thái Lan về chuyến thăm chính thức Thái Lan của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng theo lời mời của Thủ tướng Y. Si-na-oa-tra, theo
đó, hai nhà lãnh đạo đã quyết định đưa quan hệ hai nước lên đối tác
chiến lược. Trong buổi hội đàm ngày 27-6-2013 tại Gia-các-ta, Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang và Tổng thống In-đô-nê-xi-a S. B. Y-u-đô-y-ô-nô
chính thức tuyên bố nâng cấp quan hệ Việt Nam - In-đô-nê-xi-a thành đối
tác chiến lược, nhằm đưa quan hệ hai nước lên một tầm cao mới.
Đây là
những mối quan hệ đối tác chiến lược mới nhất mà Việt Nam thiết lập với
một nước khác. Trước đó, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến
lược với Liên bang Nga (năm 2001), Nhật Bản (năm 2006), Ấn Độ (năm
2007), Trung Quốc (năm 2008), Hàn Quốc, Tây Ban Nha (năm 2009), Vương
quốc Anh (năm 2010), và Đức (năm 2011). Trong các quan hệ đối tác chiến
lược này, có một số mối quan hệ đã được nâng lên tầm “đối tác chiến lược
toàn diện” như với Trung Quốc và Liên bang Nga.
Bên cạnh
đó, từ năm 2009, Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ “đối tác toàn diện”
với Ô-xtrây-li-a. Trong chuyến thăm gần đây tới Pháp của Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao Phạm Bình Minh, hai nước cũng thống nhất sẽ sớm nâng quan hệ
song phương lên tầm “đối tác chiến lược”.
Việc mở
rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ với những quốc gia quan trọng trên thế
giới phù hợp với lợi ích của mỗi nước, góp phần vào hòa bình, ổn định,
thịnh vượng của khu vực và thế giới chính là sự thể hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế./.