Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

39. Trung Quốc thúc đẩy nền ngoại giao kỷ nguyên mới

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Hai, ngày 29/7/1013
TTXVN (New York 25/7)
“Tạp chí Chính trị Thế giới” của Mỹ ngày 1/7 cho biết các phương tiện truyền thông chính thức ở Trung Quốc đã và đang khuyếch trương “nền ngoại giao kỷ nguyên mới” của đội ngũ lãnh đạo mới sau Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 12 (NPC) tháng 3/2013.
Tờ “Nhân dân Nhật báo” của Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 25/5 khẳng định rõ ràng các lãnh đạo Trung Quốc đang tuyên bố với cộng đồng quốc tế rằng chính phủ chứ không phải Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ thực hiện chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Nhưng ai cũng biết, Chính phủ Trung Quốc nằm dưới sự lãnh đạo và kiểm soát của Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đảng sẽ quyết định chính sách đối ngoại, còn Chính phủ là cơ quan thực hiện. Tất nhiên, Chính phủ mới của Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường, đang thể hiện một cách tiếp cận mới. Họ rất lạc quan với các đối tác nước ngoài và có xu hướng sử dụng cả tiếng Anh trong các cuộc tiếp xúc. Các bà vợ của hai nhà lãnh đạo cũng vượt ra ngoài khuôn khổ những quy định truyền thống của Đảng. Đây là một dấu hiệu cho thấy các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang hướng tới xu hướng toàn cầu về hoạt động ngoại giao, xã hội và lãnh đạo. Vợ Chủ tịch Tập Cận Bình là một ca sĩ nhạc dân gian nổi tiếng và là một Thiếu Tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA). Trong khi đó, vợ ông Lý Khắc Cường là một chuyên gia tiếng Anh đã dịch một số cuốn sách từ tiếng Anh sang tiếng Trung Quốc. Hãng tin Tân Hoa ngày 14/5 khẳng định: “Từ chuyến thăm Nga và 3 nước châu Phi cuối tháng 3/2013 của ông Tập Cận Bình đến chuyến thăm Ấn Độ, Pakixtan, Thụy Sĩ và Đức cuối tháng 5 và tháng 6/2013 của Thủ tướng Lý Khắc Cường đều thể hiện chiến lược ngoại giao mới, trong đó khẳng định với thế giới rằng Trung Quốc cam kết phát triển hòa bình”. Nhiều bài báo khác xác định nền ngoại giao “mới” của Trung Quốc coi sự phát triển của nước khác là một “cơ hội” chứ không phải “mối đe dọa”. Nói cách khác, một số quốc gia như Mỹ, các đồng minh và bạn bè mới của Mỹ không nên chống lại sự phát triển của Trung Quốc bằng chính sách ngăn chặn và đối đầu mà bằng cách tiếp cận được Trung Quốc gọi là cơ hội cùng có lợi. “Cuộc cách mạng” hay đúng hơn là “phục hưng” nền ngoại giao của Trung Quốc, như các nhà lãnh đạo mới có thể thích gọi như vậy, được đánh dấu bởi hai chuyến công du nước ngoài đầu tiên của ông Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường trên cương vị mới đã được chuẩn bị kỹ nhằm đạí được những mục đích nhất định. Chủ tịch Tập Cận Bình đến Nga đầu tiên, sau đó Tandania, Nam Phi và Cộng hòa Cônggô. Thủ tướng Lý Khắc Cường chọn Ấn Độ là điểm dừng chân đầu tiên, sau đó tiếp tục đến thăm Pakixtan và các nước châu Âu gồm Thụy Sĩ và Đức.
Trước hết, lòng tin giữa Nga và Trung Quốc đang ở mức độ thấp. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, Trung Quốc đã lợi dụng Nga cả về kinh tế và công nghệ, đặc biệt là công nghệ quân sự. Trong những năm 1990, hơn 4.000 nhà khoa học quân sự cấp cao và kỹ sư Nga làm việc trong tổ hợp công nghiệp quân sự của Trung Quốc, bởi vì họ không có việc làm ở trong nước. Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, quan trọng đối với Nga. Đồng thời, cuộc xung đột của Nga với phương Tây, đặc biệt với Mỹ, là lợi thế cho Trung Quốc, về cơ bản Trung Quốc nỗ lực sử dụng Nga để chống lại chính sách trở lại châu Á của Mỹ. Trung Quốc cũng tìm cách thuyết phục và ngăn chặn mối quan hệ ngày càng sâu sắc giữa Nga với Việt Nam trên lĩnh vực chuyển giao quân sự. Cải thiện mối quan hệ Nga-Nhật Bản đi ngược lại các lợi ích chiến lược của Trung Quốc. Các nguồn dầu khí của Nga có thể thúc đẩy khả năng năng lượng của Trung Quốc. Tổng thống Nga Vladimir Putin tiếp tục duy trì mối quan hệ ngày càng tăng với Trung Quốc. Nhưng các phương tiện truyền thông Trung Quốc ca ngợi mối quan hệ Trung Quốc-Nga nhiều hơn các phương tiện truyền thông Nga. Gần hai thập kỷ qua, việc Nga cung cấp khí đốt cho Trung Quốc vẫn chưa đi đến một thỏa thuận ràng buộc do vấn đề giá cả. Nhưng Nga cũng là một cường quốc. Công nghệ quân sự của Nga đi trước Trung Quốc ít nhất 3 thập kỷ. Việc Trung Quốc sao chép các thiết bị quân sự của Nga như máy bay SU- 27, khiến Nga tức giận và ngừng chuyển giao công nghệ cho Trung Quốc. Nhưng hai nước có mối quan tâm chung trong việc kìm chân Mỹ tại Vùng Vịnh. Khác các tổng thống tiền nhiệm, Tổng thống Putin là một nhà lãnh đạo có đầu óc dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ, có tầm nhìn và chiến lược độc lập. Nhưng trong bối cảnh địa chính trị phức tạp, khi sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc và việc Bắc Kinh áp đặt quan điểm trong một số trường hợp đã ảnh hưởng đến trật tự thế giới cũ, Trung Quốc và Nga nhận thấy cần hợp tác chiến lược trên một số lĩnh vực, ông Tập Cận Bình đã đạt được điều này với ông Putin bất chấp các bất đồng khác giữa hai bên.
Do cuộc chạy đua hướng tới vị thế cường quốc của Trung Quốc đang được thúc đẩy, Trung Quốc phải tiếp tục phát triển. Để duy trì tăng trưởng, đặc biệt tốc độ tăng trưởng công nghiệp, Trung Quốc cần nhiều dầu lửa, khí đốt tự nhiên, nguyên liệu thô và các thị trường mới ở nước ngoài để tiêu thụ hàng hóa và tạo công ăn việc làm cho người Trung Quốc ở nước ngoài. Lục địa châu Phi là mảnh đất hứa có thể đáp ứng nhu cầu đó của Trung Quốc. Trung Quốc được coi là một nước đang phát triển, một nước ủng hộ hay là nhà lãnh đạo của thế giới kém phát triển cũng như đang phát triển và phản đối sự bóc lột của chủ nghĩa thực dân. Các phương tiện truyền thông cho biết Trung Quốc đã thành lập một quỹ châu Phi trị giá 100 tỷ USD. Vấn đề là quỹ này đang được sử dụng như thế nào. Thực tế, các nhà kinh doanh Trung Quốc đang bóc lột người dân châu Phi thông qua hối lộ các quan chức cấp cao đồng thời chà đạp lên công nhân. Gần đây, công chúng châu Phi có nhiều phản ứng quyết liệt, do đó Chính phủ Trung Quốc buộc phải quan tâm và ra lệnh các công ty nhanh chóng khắc phục tình trạng đó bằng cách chi tiền cho các dự án an sinh xã hội. Và chuyển công du châu Phi của ông Tập Cận Bình đã thực hiện chính sách ngoại giao mới của Trung Quốc. Ngoài ra các quan chức Trung Quốc còn đến thăm hàng loạt nước khác nhau ở châu Phi, đặc biệt các nước sản xuất dầu khí và có nhiều bến cảng ở bờ biển phía Đông. Nhưng việc Trung Quốc thâm nhập các nước châu Phi đang đối mặt với một thách thức mạnh mẽ từ các nước đối tác phương Tây truyền thống ở châu Phi. Nước láng giềng của Trung Quốc là Ấn Độ bất ngờ nổi lên như một tâm điểm chú ý. Sau chuyến thăm Bắc Kinh năm 1988 của cố Thủ tướng Ân Độ Rajiv Gandhi, quan hệ Ấn-Trung đã và đang được cải thiện, mặc dù có nhiều trục trặc, vấn đề phức tạp nhất giữa hai nước là tranh chấp biên giới chưa được giải quyết. Các cuộc trao đổi cấp cao giữa hai nước bắt đầu năm 1993, trong đó có chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Narasimha Rao dẫn đến một loạt thỏa thuận bao gồm các biện pháp xây dựng lòng tin nhằm ổn định tình hình biên giới trên bộ. Nhưng ở thời điểm này hai bên đạt được tiến bộ rất chậm. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường đã thông qua một chiến lược mới đối với Ấn Độ. Tại Hội nghị thượng đỉnh BRIC ở Durban cuối tháng 4/2013, Chủ tịch Tập Cận Bình thông báo với Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh rằng Trung Quốc rất quan tâm tới chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Lý Khắc Cường. Tại sao đề nghị này lại do Chủ tịch Tập Cận Bình đưa ra là một câu hỏi quan trọng, bởi vì đây chỉ là chuyến thăm đáp lại chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Án Độ theo thỏa thuận trao đổi cấp cao song phương. Một câu hỏi khác mà hai bên vẫn chưa trả lởi là tại sao một trung đội Trung Quốc quyết định xâm nhập khu vực biên giới của Ấn Độ ở khu vực phía Tây ngày 15/4, khi chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Lý Khắc Cường được dự kiến trong tuần thứ 3 của tháng 5/2013. Các binh sĩ quân đội Trung Quốc tiếp tục ở vị trí chiếm đóng 3 tuần khi lực lượng quân đội Ấn Độ được điều động đến để chống lại họ. Lực lượng của hai bên không nổ súng và sau đó phía Trung Quốc đã rút khỏi khu vực.
Vậy tại sao phía Trung Quốc xâm nhập và khiêu khích Ấn Độ? Phải chăng đó chỉ là một hành động để thiết lập tuyên bố chủ quyền lãnh thổ cho tương lai? Phải chăng các quan chức chỉ huy quân đội Trung Quốc bất đồng với các ông chủ chính trị của họ về việc cải thiện quan hệ với Ấn Độ? Hoặc đây cũng là một quan điểm đã được các lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc xem xét và ủng hộ để đánh tiếng với Ấn Độ rằng Trung Quốc quyết định đẩy nhanh các cuộc đàm phán biên giới và thúc đẩy Hiệp định Quản lý Biên giới như Trung Quốc đề nghị nhằm ngăn chặn việc xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự của Ấn Độ dọc biên giới mặc dù Trung Quốc đã hoàn thành các công trình của họ? Hoặc phải chăng đó là dấu hiệu cho thấy vấn đề biên giới sẽ phải được giải quyết theo điều kiện của Trung Quốc? Mục đích chủ yếu trong chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Lý Khắc Cường là giới thiệu phong cách ngoại giao mới của Trung Quốc với Ấn Độ. Nền ngoại giao mới của Trung Quốc công nhận Ấn Độ là một quốc gia quan trọng ở châu Á và mong muốn Ấn Độ hợp tác với Trung Quốc về các vấn đề cốt lõi như: tranh chấp lãnh hải với Nhật Bản, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông. Nhưng Ấn Độ không đồng hành với Trung Quốc và chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Manmohan Singh đã khẳng định điều đó. Ấn Độ gần như không nhận được cam kết nào từ chuyến thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường và tránh xa các lợi ích cốt lõi mà Trung Quốc đưa ra. Ngược lại ông Lý Khắc Cường cùng không đả động đến tư cách thành viên mở rộng của Ấn Độ trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và tư cách thành viên của Ấn Độ trong Nhóm Các Nước cung cấp Hạt nhân (NSG) hoặc hoạt động của Trung Quốc ở khu vực Kashmir bị Pakixtan chiếm đóng (POK). Tại Pakixtan, ông Lý Khắc Cường cho biết các mỗi quan ngại của Ấn Độ về Pakixtan không gây ấn tượng với Trung Quốc.
Thực tế, ảnh hưởng của Trung Quốc ở Pakixtan ngày càng tăng. Trong thời gian Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đang ở thăm Nhật Bản, Trung Quốc đã ký một loạt thỏa thuận hợp tác chiến lược rãi rộng với Xri Lanca. Bắc Kinh cũng tăng cường can dự tình hình chính trị nội bộ của Nêpan. Về cơ bản, thái độ chiến lược của Trung Quốc đối với Ấn Độ vẫn không thay đổi.
Chìa khóa bảo đảm sự ổn định của châu Á phần lớn sẽ phụ thuộc vào việc mối quan hệ Mỹ-Trung phát triển thế nào trong thời gian còn lại trong nhiệm kỳ tổng thống của ông Obama. Dường như nhiệm kỳ thứ nhất và thứ hai của Tổng thống Obama có sự khác biệt quan trọng. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông Obama, Ngoại trưởng Mỹ là bà Hillary Clinton. Mặc dù tuyên bố Trung Quốc là chủ nợ của Mỹ và khó có thể giao chiến với chủ nợ, nhưng Ngoại trưởng Clinton dứt khoát bác bỏ các nỗ lực của Trung Quốc nhằm thuyết phục Mỹ ủng hộ vấn đề chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông và nhiều vấn đề khác. Trung Quốc hoan nghênh Chính quyền Obama bổ nhiệm ông John Kerry giữ chức Ngoại trưởng thay thế bà Hillary Clinton. Bắc Kinh coi ông Kerry là một người ủng hộ sự không can dự quân sự của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương và chú trọng hơn đến châu Âu và Trung Đông. Thực tế, ông Kerry chưa hề tuyên bố về chính sách trở lại châu Á của Mỹ – một chính sách thách thức vị thế bá chủ khu vực châu Á- Thái Bình Dương của Trung Quốc. Quan điểm chủ quyền mạnh mẽ của Trung Quốc về các hòn đảo trên biển Đông – nơi một số nước khác cũng tuyên chủ quyền, các tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông và tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) là những thách thức lớn đối với an ninh và ổn định của khu vực cũng như các nước sử dụng những tuyến đường hàng hải trong khu vực. Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Barack Obama đã có cuộc gặp thượng đỉnh ngày 7-8/6 tại California, nhưng không đạt kết quả quan trọng như dự kiến. Chuyến thăm Mỹ của ông Tập Cận Bình được bắt đầu sau chuyến thăm Nga – nơi ông nói về mối quan hệ “nước lớn”. Chuyến thăm Mỹ của ông cũng được thực hiện trên cơ sở mối quan hệ “nước lớn”. Hai vấn đề quan trọng nổi lên từ cuộc gặp thượng đỉnh Tập Cận Bình-Obama là Trung Quốc cho rằng quần đảo Senkaku/Điếu Ngư là lợi ích “cốt lối” của Trung Quốc. Ngược lại, ông Obama cảnh báo ông Tập Cận Bình rằng Mỹ sẽ ủng hộ Nhật Bản trong trường hợp xảy ra một cuộc xung đột về Senkaku. Bên cạnh đó, Mỹ cũng ép Nhật Bản không làm leo thang xung đột với Trung Quốc, không khiêu khích Trung Quốc và Hàn Quốc về các vấn đề lịch sử. Mặc dù Thủ tướng Nhật Bản dường như chấp nhận các đề nghị của Mỹ. Nhưng rõ ràng, Nhật Bản vẫn là trọng tâm trong chính sách trở lại châu Á của Mỹ. Thỏa thuận quân sự Mỹ-Philíppin đã được tăng cường, quan hệ Mỹ-Xinhgapo được nâng cấp và các nước khác trong khu vực, kể cả Việt Nam, đang nhận được sự chú ý nhiều hơn của Washington. Thực tế, một cuộc xung đột quân sự trong khu vực sẽ không có lợi cho bất cứ nước nào. Trong tình huống xảy ra xung đột, các lợi ích chiến lược có thể bị tổn thất. Trung Quốc có thể nhận thức được điều đó. Hiện nay, Trung Quốc là một cường quốc quân sự, nhưng Bắc Kinh có thể sử dụng loại vũ khí nào trong một cuộc xung đột khu vực? Trong cuộc chiến tranh thông thường, quân đội Trung Quốc chuẩn bị rất kém. Vì vậy Bắc Kinh đang lôi kéo Việt Nam.
Theo quan điểm của Ấn Độ, các mối quan hệ mới giữa Trung Quốc và Mỹ và tác động của nó đối với Nam Á và Ấn Độ Dương vẫn chưa rõ ràng. Nhưng chính phủ Ấn Độ và cộng đồng chiến lược không thể quên hai vấn đề. Do hậu quả của các cuộc thử nghiệm hạt nhân của Ấn Độ tháng 5/1998, cuối năm 1998 Tổng thống Bill Clinton đến thăm Trung Quốc và đề nghị Bắc Kinh tăng cường giám sát Nam Á. Đầu tiên, đề nghị này chỉ được tiết lộ với Tân Hoa Xã. Trong chuyến thăm Trung Quốc nhiệm kỳ đầu, Tổng thống Obama đề nghị thành lập mối quan hệ G-2 với Trung Quốc cũng như quản lý Nam Á. Nhưng hai Chủ tịch Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào đều lảng tránh trách nhiệm như vậy. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường, nền ngoại giao của Trung Quốc tham vọng và quyết đoán hơn nhiều. Sau năm 1998 và thỏa thuận hạt nhân Ấn Độ-Mỹ, Trung Quốc công khai bày tỏ lo ngại về mối quan hệ hợp tác quân sự Ấn Độ-Mỹ, đặc biệt các cuộc diễn tập của lục quân/hải quân hai nước, vấn đề chuyển giao công nghệ cao của Mỹ cho Ấn Độ và giúp đỡ hải quân Ấn Độ tăng cường khả năng ở Ấn Độ Dương. Trung Quốc cảm thấy an ninh hàng hải của Ấn Độ tại hai quần đảo Andamans và Nicobar ở Ấn Độ Dương có thể đe dọa Eo biển Malacca. Ngoài ra, Trung Quốc nghi ngờ các cuộc diễn tập của hải quân Ấn Độ với các nước Đông Nam Á. Trung Quốc đã đưa ra tất cả các vấn đề đó với Mỹ ở các cấp khác nhau. Mặc dù chính quyền Obama mô tả Ấn Độ như một trọng điểm của chính sách châu Á của Mỹ dưới sự lãnh đạo Obama-Hillary Clinton, nhưng liệu chính sách đó sẽ tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Obama- Kerry?
Ấn Độ cũng phải xác định chính sách đối ngoại lớn hơn của nước này. Các phương tiện truyền thông của Ấn Độ cho biết dường như các nhà lãnh đạo vẫn không muốn làm Trung Quốc khó chịu. Đây là một suy nghĩ vô lý không những hiện nay mà cả trong quá khứ. Vấn đề không phải làm Trung Quốc khó chịu mà là thiết lập lợi ích của Ấn Độ. Nếu không Ấn Độ sẽ được mô tả như một “kẻ luôn thua cuộc” và thất bại trước chính sách ngoại giao kỷ nguyên mới của Trung Quốc.
*
*          *
Tài liệu ra mới đây của viện “Jamestown Foundation” của Mỹ nhận định Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đang theo đuổi một chính sách ngoại giao toàn diện và đầy tham vọng. Bản chất của nền ngoại mới là coi trọng quan hệ với các cường quốc; ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng; mở rộng quan hệ với các nước đang phát triển; và cơ sở quan trọng nhằm thúc đẩy nền ngoại giao mới là các nghĩa vụ đa phương của Trung Quốc.
Ông Tập Cận Bình, đứng đầu Nhóm Chính sách Đối ngoại Hàng đầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), đã xem xét lại toàn bộ tuyên bố và đường lối đối ngoại của cố Chủ tịch Trung Quốc Đặng Tiểu Bình. Thực tế, Trung Quốc chuẩn bị vượt Mỹ trở thành một nền kinh tế lớn nhất thế giới trong thập kỷ này, do đó ông Tập Cận Bình đang tìm kiếm “một kiểu quan hệ cường quốc mới” với các siêu cường. Trung Quốc đang sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự mạnh mẽ để giành được tiếng nói lớn hơn trong trật tự toàn cầu. Những phát triển đó cùng với quyết tâm trở thành một “cường quốc biển” của Bắc Kinh sẽ hình thành chính sách của Trung Quốc trong các tranh chấp Biển Đông. Biểu hiện đầu tiên về chính sách đối ngoại quyết đoán của Trung Quốc là Bắc Kinh thường xuyên phối hợp hành động với các nước trên toàn cầu. Từ khi ông Tập Cận Bình và ông Lý Khắc Cường trở thành Chủ tịch nước và Thủ tướng Trung Quốc vào tháng 3/2013, các quan chức trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đến thăm hơn ¼ tổng số 193 nước thành viên Liên hợp quốc. Ông Tập Cận Bình đã thực hiện chuyến công du nước ngoài đầu tiên trên cương vị đứng đầu nhà nước đến Nga và châu Phi chỉ sau 2 tuần trở thành Chủ tịch nước. Tiếp đó, ông Tập Cận Bình đến các nước Mỹ Latinh và Mỹ chỉ sau 2 tháng kết thúc chuyến công du đầu tiên. Cũng như các chủ tịch Trung Quốc tiền nhiệm, ông Tập Cận Bình nhận thấy mối quan hệ với Mỹ rất quan trọng đối với nền ngoại giao toàn diện của Trung Quốc. Mặc dù ông Đặng Tiểu Bình đề nghị Bắc Kinh nên “tránh đối đầu” với siêu cường Mỹ, nhưng ông Tập Cận Bình lại muốn mối quan hệ “cho và nhận” với Mỹ trên cơ sở bình đẳng. “Kiểu Quan hệ Cường quốc Mới ” của Bắc Kinh được thể hiện rõ trong cuộc gặp thượng đỉnh không chính thức giữa ông Tập Cận Bình và Tổng thống Barack Obama đầu tháng 6/2013. Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì trích phát biểu của ông Tập Cận Bình với Tổng thống Obama rằng “Kiểu Quan hệ Cường quốc Mới” gồm ba yếu tố: Thứ nhất, quản lý thích hợp các mâu thuẫn và khác biệt thông qua đối thoại và hợp tác chứ không đối đầu”; Thứ hai, hai nước nên tôn trọng chế độ xã hội và con đường phát triển của nhau; Thứ ba, hai nước nên theo đuổi các kịch bản cùng thắng và làm sâu sắc hơn nữa các lĩnh vực cùng quan tâm. Do lo ngại chiến lược tái cân bằng châu Á của Chính quyền Obama, Bắc Kinh hy vọng “Kiểu Quan hệ Cường quốc Mới” sẽ giúp thay đổi động cơ của mối quan hệ song phương. Nhưng nhận thấy Mỹ và các nước khác hoặc các khối trong liên minh phương Tây như Liên minh châu Âu không sẵn sàng giải quyết những bất đồng với Trung Quốc trên tinh thần cùng thắng, 6 tháng qua Bắc Kinh khẳng định Trung Quốc không hề hổ thẹn khi sử dụng chiến thuật cứng rắn trong các tuyên bố và hành động. Tại Diễn đàn châu Á Bác Ngao vào tháng 4/2013, ông Tập Cận Bình công khai chỉ trích một nước nào đó “gây rối loạn cho một khu vực và thậm chí cả thế giới vì lợi ích riêng của nước đó”. Quốc gia mà ông Tập Cận Bình ám chỉ rất có khả năng là Mỹ. Một tháng sau, tân Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ Thôi Thiên Khải cảnh báo Washington không được ủng hộ Nhật Bản trong các tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Ngoài ra, trong chuyến thăm Đức gần đây, Thủ tướng Lý Khắc Cường cũng làm cho nước chủ nhà ngạc nhiên khi ông ta thường sử dụng những từ ngừ mạnh mẽ để chỉ trích những người theo chủ nghĩa bảo hộ ở châu Âu ủng hộ các loại thuế trừng phạt các sản phẩm tấm pin năng lượng mặt trời và thiết bị viễn thông của Trung Quốc. Ông Lý Khắc Cường cảnh báo những người theo chủ nghĩa bảo hộ đó ở châu Âu chắc chắn sẽ đi vào con đường diệt vong. Bắc Kinh đưa ra nhiều tuyên bố cùng với thúc đẩy sức mạnh cứng khi Bắc Kinh đang nắm và sử dụng các con bài quân sự và kinh tế để thúc đẩy các mục tiêu ngoại giao của Trung Quốc.
Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của ông Tập Cận Bình khi trở thành Chủ tịch Quân uỷ Trung ương cuối tháng 11/2012 là chỉ thị tất cả các đơn vị quân đội Trung Quốc “sẵn sàng chiến đấu và đánh thắng các cuộc chiến tranh”. So với những người tiền nhiệm như cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào, ông Tập Cận Bình sẵn sàng sử dụng sức mạnh quân sự mạnh hơn để ép các đối thủ. Ngoài cam kết cung cấp đầy đủ các nguồn lực để xây dựng các loại vũ khí hiện đại, ông Tập Cận Bình đã ký một hợp đồng trị giá 3,5 tỷ USD mua các loại tàu ngầm và máy bay chiến đấu của Nga trong chuyến thăm Mátxcơva hồi tháng 3/2013. Đây là thỏa thuận mua vũ khí do Nga sản xuất lớn nhất của Trung Quốc trong thập kỷ. Vừa qua Chính phủ Trung Quốc liên tục triển khai các tài sản của lực lượng cảnh sát biển ở khu vực gần quần đảo Điếu Ngư/Senkaku để khẳng định tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo này. Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) cũng thường xuyên tổ chức diễn tập ở biển Hoa Đông và Biển Đông, kể cả các cuộc diễn tập liên quan đến lực lượng của tất cả 3 hạm đội lớn của hải quân Trung Quốc. Trung Quốc, có tổng kim ngạch thương mại lớn nhất thế giới và nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn thứ 5 trên thế giới, cũng đang triển khai mạnh mẽ con bài kinh tế. Tại Diễn đàn Bác Ngao, ông Tập Cận Bình tuyên bố trước các nhà lãnh đạo thế giới rằng Trung Quốc sẽ nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ trị giá 10 nghìn tỷ USD trong 5 năm tới. Và FDI của Trung Quốc sẽ tăng lên 300 tỷ USD cùng kỳ. Đó là sức mạnh kinh tế cho phép Trung Quốc nâng cao sức mạnh quốc gia – nhưng sức mạnh quân sự có lẽ giảm trong thời gian trước mắt. Một trong nhũng lý do giải thích tại sao EU có thể có tư tưởng trừng phạt Trung Quốc bán phá giá các loại sản phẩm là FDI của Trung Quốc tăng mạnh ở châu Âu. Năm 2012, các công ty Trung Quốc đầu tư 12,6 tỷ USD ở EU, tăng 21% so với năm 2011. Các hoạt động kinh doanh khác nhau của Trung Quốc tại Mỹ Latinh là cơ sở để một số nhà phân tích khẳng định Trung Quốc đang triển khai “Chiến lược Trở lại Sân sau của Mỹ”. Không phải bỗng nhiên ông Tập Cận Bình đến thăm 3 nước Mỹ Latinh trước khi có cuộc gặp thượng đỉnh không chính thức với Tổng thống Obama. Trong chuyến thăm Mêhicô, ông Tập Cận Bình đã nâng cấp quan hệ của Trung Quốc với nước chủ nhà lên mức “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện”. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn thứ hai của Mêhicô sau Mỹ. Nền ngoại giao quyết đoán mới của Bắc Kinh có lẽ được thể hiện rõ nhất đối với vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Tăng cường hoạt động của Trung Quốc ở khu vực biển 1,35 triệu dặm vuông rất quan trọng cho tham vọng trở thành một “cường quốc biển”. Mặc dù chính cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào là người đầu tiên nhắc đến giấc mơ của Trung Quốc trở thành một cường quốc biển, nhưng ông Tập Cận Bình sẽ là nhà lãnh đạo biến “Giấc mộng Trung Hoa” thành hiện thực. Tăng cường sức mạnh trên biển của Trung Quốc là chủ đề trong chuyến thăm của ôna Tập Cận Bình tại một căn cứ hải quân trên đảo Hải Nam vào tháng 4/2013. Ông Tập Cận Bình nhắc nhở các quân nhân Trung Quốc rằng một trong những trách nhiệm của họ là bảo vệ Biển Đông và ghi nhớ các mục tiêu của Đảng để củng cố quân đội trong những hoàn cảnh mới. Ông Tập Cận Bình nói: “Chúng ta phải tin tưởng vững chắc vào sự nghiệp xây dựng quân đội hùng mạnh. Chúng ta phải cống hiến bản thân cho một quân đội hùng mạnh”. Các tướng lĩnh của quân đội Trung Quốc ở tuyến trước có khả năng được phép sử dụng vũ lực để thực hiện tham vọng đại dương của Trung Quốc. Như Trung Tướng Wang Sentai, Phó Chính ủy của Hải quân Trung Quốc, tuyên bố: “Trung Quốc là một cường quốc biển, nhưng chưa phải một cường quốc biển mạnh. Lịch sử nói với chúng ta rằng khi nào lực lượng hải quân của chúng ta còn yếu, đất nước của chúng ta còn có xu hướng đi xuống và khi hải quân mạnh, đất nước của chúng ta sẽ phát triển”. Thiếu tướng Luo Yuan, một bình luận viên cứng rắn của PLA, nhắc lại rằng Bắc Kinh có thể xem xét lựa chọn quân sự chống Philíppin. Tướng Lou khẳng định: “Quân đội Philíppin là một trong những quân đội yếu kém nhất ở châu Á. Nếu Philíppin tấn công 1cm, chúng ta sẽ trả đũa bằng cách tấn công 1m. Biển Đông sẽ trở thành một biển hòa bình sau khi chúng ta lấy lại 8 hòn đảo mà Philíppin chiếm đóng trái phép”. Do Chính quyền Obama quyết định chuyển phần lớn lực lượng hải quân Mỹ đến khu vực châu Á- Thái Bình Dương vào cuối thập kỷ, Biển Đông dường như trở thành trung tâm của mọi bất đồng. Như Đại tá Dai Xu, nhà bình luận quân sự nổi tiếng của Trung Quốc, chỉ rõ: “Biển Đông rất cần thiết cho chính sách ngăn chặn của Mỹ chống Trung Quốc. Cửa ngõ nối với đại dương của Trung Quốc có thể bị ngăn chặn bất cứ lúc nào”.
Nhưng Biển Đông cũng có thể là một trong những đấu trường – nơi quan hệ cho và nhận với Mỹ trong khuôn khổ của “Kiểu Quan hệ Cường quốc Mới” sẽ chịu hậu quả nặng nề nhất. Tại cuộc gặp với Obama, ông Tập Cận Bình nhắc lại những gì đã nói trong chuyến thăm Mỹ đầu năm 2012 rằng: “Thái Bình Dương đủ rộng để đảm bảo các lợi ích của Trung Quốc và Mỹ”. Và ông Tập Cận Bình cho biết thêm tại Sunny lands rằng ông rất quan tâm tới việc “hợp tác với Mỹ ở Thái Bình Dương”. Trước mắt, ông Tập Cận Bình hy vọng Mỹ sẽ không ngăn chặn các nỗ lực của Bắc Kinh trong việc đàm phán cách giải quyết với 4 quốc gia đang tranh chấp lãnh thổ với Trung Quổc ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa gồm: Việt Nam, Philíppin, Malaixia và Brunây. Ý đồ này của ông Tập Cận Bình được thể hiện rõ trong chuyến công du Đông Nam Á hồi tháng 5/2013 của Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị nhằm thúc đẩy sáng kiến mới về Biển Đông. Ông Vương tuyên bố với người đồng cấp Inđônêxia rằng: “Chúng ta phải nâng cao cảnh giác trước những nỗ lực của các lực lượng và các nước gây rối trong khu vực do các lợi ích riêng của họ”. Các phương tiện truyền thông Trung Quốc cho biết để đáp lại hành động hạn chế của Mỹ trên mặt trận Biển Đông, Bắc Kinh có thể sẵn sàng làm hết mình nhằm ngăn chặn các nỗ lực sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt của Bình Nhưỡng. Như chuyên gia quan hệ quốc tế Jin Canrong của Đại học Nhân dân ở Bắc Kinh cho biết: “Phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên là một trong những mối quan tâm chung giữa Trung Quốc và Mỹ. Hai nước có thể hợp tác để cùng giải quyết vấn đề”. Đồng thời Bắc Kinh hy vọng “con bài kinh tế” của Trung Quốc có thể đóng vai trò đáng kể trong việc giải quyết các tranh cãi lãnh thổ với hai nước Việt Nam và Philíppin. Mặc dù tăng sức ép tâm lý đối với Hà Nội và Manila, nhưng Bắc Kinh khó có thể ngừng các hoạt động thương mại và đầu tư ở hai nước. Ngoài ra, các nhà ngoại giao Trung Quốc cũng đang sử dụng chiến thuật vận động cộng đồng kinh doanh của hai nước để thuyết phục chính phủ áp dụng chính sách linh hoạt hơn với Trung Quốc. Tương tự, Bắc Kinh đang theo đuổi một chiến thuật chia để trị trên cơ sở kinh tế để ngăn chặn các nước ASEAN đạt được sự đồng thuận về vấn đề Biển Đông. Đến giữa năm 2012, tổng đầu tư của Trung Quốc ở các nước ASEAN đạt 18,8 tỷ USD. Riêng đầu tư trực tiếp trong ASEAN năm 2011 tăng lên 7 tỷ USD, hơn gấp đôi so với 3,26 tỷ USD năm 2010. Do những con số đó có vẻ còn khiêm tốn, Trung Quốc dự kiến tăng các khoản đầu tư cao hơn nữa bằng dự án đường sắt xuyên quốc gia và nhiều dự án đường cao tốc khác – trong đó chủ yếu tài chính của Trung Quốc – để kết nối với Khu vực Thương mại Tự do Trung Quốc-ASEAN có hiệu lực trong thời gian còn lại của thập kỷ này. Và các khoản đầu tư và viện trợ kinh tế của Trung Quốc tập trung ở các quốc gia khách hàng như Campuchia và Lào cũng như các nước tương đối trung lập như Thái Lan và Inđônêxia. Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Phnom Penh năm ngoái, rõ ràng các quan chức Campuchia thân Trung Quốc đã đẩy ASEAN đến chỗ bế tắc trong cách thức giải quyết các tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc. Đến giữa năm ngoái, Bắc Kinh chuyển sang quan điểm tương đối hòa dịu về tranh chấp Biển Đông. Trong thời gian đến thăm Bangkok, Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị tuyên bố với các phóng viên rằng: “Tăng cường hợp tác với ASEAN là ưu tiên hàng đầu trong chính sách láng giềng tốt của các nhà lãnh đạo mới ở Trung Quốc”, ông còn cho biết Bắc Kinh cam kết giải quyết bất đồng với các thành viên ASEAN “thông qua tham khảo ý kiến thân thiện và hợp tác cùng có lợi”. Tiếp đó tại Đối thoại Shangri-la ở Xinhgapo hồi đầu tháng 6/2013, Phó Tổng Tham mưu Trưởng PLA Qi Jianguo tái khẳng định Bắc Kinh sẽ ủng hộ hình thức “tìm cách phát triển chung trong khi gạt vấn đề tranh chấp chủ quyền sang một bên”. Rõ ràng việc các đối thủ cạnh trạnh về vấn đề Biển Đông của Trung Quốc sẽ phản ứng thế nào trước hàng loạt đề nghị của Bắc Kinh sẽ là một cuộc thử nghiệm về hiệu quả của nền ngoại giao mới của Chủ tịch Tập Cận Bình cả trên lĩnh vực hòa giải lẫn đối đầu.
*
*          *
“Tạp chí Á-Âu” gần đây đăng bài viết của tác giả B.R.Deepak, giáo sư nghiên cứu các vấn đề Trung Quốc của Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc và Đông Nam Á thuộc Đại học Tổng hợp Jawaharlal Nehru ở New Delhi, trong đó cho biết nhiều người cho rằng chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh là hành động “ăn miếng trả miếng” chuyến thăm Pakixtan của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường.
Các nhà phân tích tại Trung Quốc lại dự đoán việc tăng thêm ngày thứ ba trong chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Singh trong bối cảnh Ấn Độ và Trung Quốc đang có những căng thẳng biên giới nhằm chứng tỏ mối quan hệ Ấn Độ-Nhật Bản có chung các lợi ích chiến lược. Mặc dù Chính phủ Trung Quốc biết rằng chủ trương vươn tới Nhật Bản của Ấn Độ là một bộ phận trong chính sách “Hướng Đông” của Chính quyền New Delhi, nhưng các nhà lãnh đạo Bắc Kinh ngày càng nhận thấy kế hoạch phát triển ngoại giao của Ấn Độ ở khu vực Đông và Đông Bắc Á, đặc biệt thúc đẩy mối quan hệ chiến lược với Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc, cơ bản nhằm mục tiêu “ngăn chặn” Trung Quốc. Bắc Kinh cũng cho rằng Ấn Độ và các nước nói trên đang hợp tác chặt chẽ với Mỹ và ủng hộ chính sách trở lại châu Á của Mỹ để kiềm chế sự phát triển ngày càng tăng của Trung Quốc. Trung Quốc coi các hoạt động thăm dò dầu khí của Ấn Độ ở các khu vực trên Biển Đông là thông đồng với Việt Nam để phá hoại chủ quyền của Trung Quốc trong khu vực, mặc dù lâu nay New Delhi tuyên bố rõ ràng rằng sự hiện diện của Ấn Độ trong khu vực chủ yếu nhằm mục đích thương mại và an ninh năng lượng. Tuy nhiên ngôn ngữ trong tuyên bố chung được công bố cuối chuyến thăm Ấn Độ gần đây của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường khẳng định Ấn Độ và Trung Quốc coi nhau như các đối tác vì lợi ích chung chứ không phải kẻ thù hoặc đối thủ cạnh tranh. Hai bên cam kết có quan điểm tích cực và ủng hộ tình hữu nghị của nước kia với các nước khác. Chính Trung Quốc là nước đầu tiên tỏ ra khó chịu trước mối quan hệ thân thiện của Ấn Độ với Nhật Bản, mặc dù Ấn Độ cũng đang thể hiện nỗi lo ngại về “tình hữu nghị trong mọi thời tiết” giữa Trung Quốc và Pakixtan hiện nay và tương lai. Nỗi e ngại của Trung Quốc được thể hiện rất rõ trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Trung Quốc. Một số tờ báo như tờ “Thời báo hoàn cầu” mới đây công bố bài viết của tác giả Cankao Xiaoxi có nhan đề “Ấn Độ quan hệ thân thiện với Nhật Bản để thoát khỏi tình thế nguy hiểm”, trong đó nhận định: “Việc hâm nóng quan hệ Ấn Độ-Nhật Bản là nhằm cạnh tranh với Trung Quốc”; hoặc tờ “Nhân dân Nhật báo” lên tiếng cảnh báo New Delhi cần chống lại “những kẻ ăn trộm vặt” và “những kẻ khiêu khích” trong số các nhà hoạt động chính trị Nhật Bản đang tìm cách chia rẽ mối quan hệ Trung Quốc-Ấn Độ.
Trung Quốc nhận rõ hiện nay cơ cấu chính trị toàn cầu đang có những thay đổi cơ bản về sức mạnh chuyển từ Tây sang Đông và thế kỷ 2-1 sẽ là thế kỷ châu Á. Ngoài ra, Bắc Kinh cũng nhận thấy tương lai của thế kỷ 21 sẽ phụ thuộc các mối quan hệ giữa Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản và Mỹ. Do đó, là trung tâm động lực của sự thay đổi từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương, tất cả các bên liên quan nói trên đã và đang toan tính các chiến lược của họ ở Thái Bình Dương. Bắc Kinh coi “Sức mạnh an ninh dân chủ” của Thủ tướng Shinzo Abe kết hợp Ấn Độ, Nhật Bản, Ôxtrâylia và Mỹ là sức mạnh trực tiếp chống lại Trung Quốc. Trung Quốc đã nhiều lần cảnh báo, Mỹ cần thận trọng trong cách tiếp cận liên quan đến các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc trong khu vực. Về cam kết hỗ trợ Nhật Bản của Chính phủ Mỹ trong trường hợp xảy ra xung đột quân sự theo Hiệp ước An ninh và Hợp tác Nhật-Mỹ, Trung Quốc mong muốn Mỹ phải công nhận Hiệp ước đó là một sản phẩm của Chiến tranh Lạnh và không liên quan đến các điều kiện và hoàn cảnh hiện nay. Trong một cảnh báo với Mỹ, Trung Quốc tuyên bố sức mạnh quốc gia toàn diện của Trung Quốc đã tăng gấp bội, do đó Mỹ không nên “tự đốt ngón tay của mình để lấy những hạt dẻ của Nhật Bản ra khỏi đống lửa”. Hơn nữa, mặc dù quan hệ Ấn Độ-Nhật Bản có tiềm năng rất lớn về thương mại, đầu tư, quốc phòng và an ninh, nhưng mối quan hệ đó mới bắt đầu phát triển, đặc biệt trên lĩnh vực hợp tác an ninh. Ví dụ thương mại song phương giữa Ấn Độ và Nhật Bản chỉ đạt mức 14 tỷ USD/năm. Con số này là rất thấp nếu so với thương mại của Trung Quốc với Ấn Độ đạt 70 tỷ USD/năm và thương mại của Trung Quốc với Nhật Bản đạt 300 tỷ USD/năm. Nói chung, dư luận đánh giá Ấn Độ và Nhật Bản bị chậm trong việc xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược. Như một phân tích mới đây cho biết, chỉ từ năm 2008 các khoản đầu tư trực tiếp của Nhật Bản được đăng ký tại Ấn Độ mới bắt đầu tăng và đạt 5,5 tỷ USD và năm 2010 đạt được 13,5 tỷ USD. Bên cạnh đó, Viện trợ Phát triển Chính thức (ODA) của Nhật Bản dành cho Ấn Độ là rất ấn tượng, đặc biệt sau năm 2003 khi Nhật Bản quyết định chấm dứt cung cấp ODA cho Trung Quốc. Ấn Độ đã sử dụng ODA của Nhật Bản vào các lĩnh vực như phát triển cơ sở hạ tầng, các chương trình xóa đói giam nghèo, vệ sinh và bảo vệ môi trường…về quan hệ quốc phòng và an ninh, các lĩnh vực này đã trải qua những thay đổi to lớn kể từ tháng 10/2008 khi Ấn Độ và Nhật Bản ký một Tuyên bố chung về Hợp tác an ninh. Nhờ thành lập “Quan hệ đối tác toàn cầu và chiến lược Ấn Độ-Nhật Bản” và tổ chức các hội nghị thượng đỉnh hàng năm kể từ tháng 12/2006, quan hệ Ấn Độ-Nhật Bản chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ. Trong chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh từ ngày 27-30/5/2013, tin tức tại Nhật Bản rất quan tâm đến việc hai nước mua bán các máy bay đổ bộ US-2. Và tin tức này cũng xuất hiện rộng rãi trên các phương tiện truyền thông của Trung Quốc cũng như của Ấn Độ. Nhà nghiên cứu Lu Yaodone của Viện Nghiên cứu Nhật Bản thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc cho rằng sự kiện mua bán vũ khí này sẽ đánh dấu việc tăng cường liên minh giữa Nhật Bản và Ấn Độ về hợp tác quốc phòng và quân sự và Nhật Bản đang tìm cách lợi dụng các cuộc xung đột biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc, đồng thời ngăn chặn việc mua bán vũ khí có thể xảy ra trong tương lai. Ông Han Xudong, giáo sư của trường Đại học Quốc phòng ở Bắc Kinh, cho biết Trung Qụốc đang theo dõi chặt chẽ các cuộc diễn tập hải quân giữa Ấn Độ và Nhật Bản. Ông khẳng định: “Mối nguy hiểm của các cuộc diễn tập quân sự Ấn Độ-Nhật Bản đang chĩa về phía Trung Quốc”. Một cuộc đối thoại mới nhằm thảo luận các vấn đề hàng hải, trong đó có các thách thức an ninh hàng hải, đã làm các nhà chiến lược cũng như học giả Trung Quốc tức giận. Trung Quốc coi hành động can thiệp của Ấn Độ vào Biển Đông là nhằm thực hiện “học thuyết ngăn chặn”, mặc dù thực tế Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đang hợp tác với nhau để thực hiện các kế hoạch hộ tống các tàu thương mại cũng như các hoạt động chống cướp biển ở Vịnh Aden. Trung Quốc cho rằng Ấn Độ và Nhật Bản đang có ý đồ mở rộng đối thoại hợp tác hạt nhân dân sự và Ấn Độ tỏ ra rất quan tâm đến các lò phản ứng hạt nhân và tàu chiến được sản xuất bằng thép của Nhật Bản, mặc dù Ấn Độ cũng nhận thấy tính nhạy cảm của Nhật Bản trên lĩnh vực hạt nhân, đặc biệt sau thảm họa Fukushima năm 2011.
Quan hệ Trung Quốc và Nhật Bản ngày cáng trở nên xấu hơn trong thời gian gần đây, đặc biệt trong bối cảnh hai nước tranh chấp chủ quyền hòn đảo Senkaku/Điếu Ngư. Các nhà phân tích thường xuyên chỉ ra những lợi ích kinh tế và vị trí chiến lược của hòn đảo này. Cả hai nước đều muốn khai thác các nguồn dự trữ tài nguyên như: khoáng sản, dầu lửa và khí đốt tự nhiên khổng lồ bên dưới các đảo khi bản báo cáo năm 1969 của Liên hợp quốc khẳng định khu vực này có trữ lượng dầu lửa và khí đốt khổng lồ. Sau khi Liên hợp quốc công bố bản báo cáo, cả Nhật Bản và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền mạnh mẽ hơn đối với quần đảo này. Hơn nữa, do Nhật Bản đánh bắt cá trong vùng biển này từ năm 1895, Tokyo không muốn để các lợi ích rơi vào tay Trung Quốc. Do vị trí chiến lược của hòn đảo, nếu Nhật Bản tiếp tục kiểm soát, Chính phủ Nhật Bản có thể thiết lập các hệ thống trinh sát và giám sát trên không cũng như trên biển, các trận địa tên lửa hạm đối không trên hòn đảo. Bằng cách đó, Nhật Bản có thể phong tỏa tất cả các bến cảng và các tuyến đường hàng không xuất phát từ phía Bắc Đài Loan và cũng có thể đặt các khu vực như Phúc Châu, Ôn Châu và Ninh Ba của Trung Quốc đại lục dưới tầm kiểm soát của rađa Nhật Bản. Chính phủ Trung Quốc rất lo sợ khi Nhật Bản quyết định hành động như vậy. Bởi vì việc Nhật Bản thành lập các căn cứ quân sự và triển khai các vũ khí hạng nặng trên đảo sẽ tạo nên mối đe dọa nghiêm trọng đến an ninh và quốc phòng của Trung Quốc. Đây là sự cạnh tranh và thù hận lịch sử mà Trung Quốc tiếp tục nhắc nhở người dân về hành động xâm lược của Nhật Bản. Ví dụ, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 81 ngày Nhật Bản xâm lược Đông Bắc Trung Quốc ngày 18/9/2012, Viện Bảo tàng Lịch sử tại Thẩm Dương, tỉnh Liêu Ninh – được xây dựng để ghi nhớ cuộc chiến tranh chống Nhật Bản của Trung Quốc (1931-1945) – đã gióng 14 hồi chuông để thể hiện 14 năm Trung Quốc bị đau đớn và nhục nhã dưới bàn tay xâm lược của người Nhật. Tiếp đó nhiều cuộc biểu tình chống Nhật Bản đã nổ ra ở các thành phố lớn của Trung Quốc buộc nhiều công ty Nhật Bản phải đóng cửa. Trung Quốc cũng tố cáo Ấn Độ đang lợi dụng các vấn đề của Trung Quốc với Nhật Bản và thúc đẩy các mối quan hệ gần gũi hơn với Tokyo.
Một số nhà phân tích ở Ấn Độ thừa nhận sự chênh lệch ngày càng tăng về cơ cấu sức mạnh giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Do đó họ yêu cầu Chính phủ Ấn Độ phải đẩy mạnh quan hệ chặt chẽ với Mỹ, Nhật Bản, Việt Nam, Hàn Quốc và Inđônêxia… và các nước khác để ngăn chặn ngay lập tức chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc trong khu vực. Các nhà phân tích đó cho rằng cựu Thủ tướng Ấn Độ Nehru đã sai lầm khi coi sự phát triển Chủ nghĩa Cộng sản ở Trung Quốc như sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc châu Á vào cuối những năm 1940 và cảnh báo các nhà lãnh đạo Ấn Độ không được phép lặp lại sai lầm tương tự. Dường như hiện nay Ấn Độ đang thực hiện một trong những chiến lược của Trung Quốc trong khu vực và tiến gần hơn với Nhật Bản. Trong khi chuẩn bị rời Ấn Độ đến Nhật Bản, Thủ tướng Ấn Độ tuyên bố với các phương tiện truyền thông Nhật Bản tại New Delhi rằng: “Cả Ấn Độ và Nhật Bản là những quốc gia biển quan trọng. Vì vậy, bảo đảm an toàn và an ninh các tuyến đường giao thông trên biển, đặc biệt ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, là rất quan trọng đối với hai nước”. Nhưng những người thực dụng tại Ấn Độ cho rằng lập luận Trung Quốc là một cường quốc độc ác hay nhân từ là điều không thích hợp. Họ cho rằng Ấn Độ phải nhận thấy đây là đặc trưng của thể chế chính trị toàn cầu và cơ chế này làm cho sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ là không thể tránh khỏi.