An ninh và ổn định trong khu vực Á Châu-Thái Bình Dương trong thế kỷ
XXI đang bị khuấy động sau quá trình canh tân và tăng cường quân sự của
Trung Quốc và Chốt Á Châu-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Đã hẳn, từ lâu
ước mơ trỗi dậy như một siêu cường toàn cầu đồng vai vế với Hoa Kỳ trong
khu vực đã là động lực bên sau mọi động thái của Trung Quốc.
VA CHẠM QUYỀN LỢI GIỮA HOA KỲ VÀ TRUNG QUỐC
Chính vì vậy, các tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải — bùng phát với
chiến lược “Brinkmanship” hay “Đi dây trên bờ vực thẳm chiến tranh” của
Trung Quốc, dựa trên áp lực kinh tế, chính trị và quân sự đối với các
quốc gia nhược tiểu lân bang trong vùng Đông Nam Á với chủ quyền đang bị
thách thức — cần được xem như một hậu quả khó tránh.
Các tranh chấp trong Biển Nam Hải, ngày một nghiêm trọng trong nhiều
thập kỷ, đã được định hình kể từ 2008-2009, sau khi TQ tuyên bố Biển
Nam Hải là “quyền lợi thiết thân” hay “core interest” và, vì vậy, sẽ
sẵn sàng dùng vũ lực để bảo vệ chủ quyền tự xác định.
Một khẳng định như thế của TQ không có gì đáng ngạc nhiên đối với
cộng đồng thế giới bên ngoài và luôn phản ảnh khuynh hướng sử dụng sức
mạnh quân sự để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ hơn là qua các sáng
kiến thương nghị của các đại cường.
Những tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải — một vùng TQ tự khẳng định
có chủ quyền lịch sử bao gồm toàn bộ Biển Nam Hải, hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, cũng như các hải đảo nhỏ khác trong vùng Lưỡi Bò — không
may cho TQ, hiện không còn có thể xem như giới hạn giữa TQ và các quốc
gia thành viên ASEAN.
Nói một cách khác, các tranh chấp trong Biển Nam Hải ngày nay đã
khoác một kích cỡ quốc tế vượt khỏi các lời tuyên bố chủ quan về chủ
quyền bởi các nước tranh chấp, và đã được nâng lên một tầm cao với những
nguyên tắc phản ảnh sự quan tâm toàn cầu với nhu cầu “bảo vệ những
quyền lợi chung; quyền sử dụng không hạn chế các tuyến đường biển quốc
tế; và tự do lưu thông trên đại dương.”[1] Vì vậy, các tranh chấp,
trước đây chỉ giữa TQ và ASEAN, nay đã trở thành những xung đột giữa
TQ, Hoa Kỳ, và cộng đồng toàn cầu về quyền sử dụng không hạn chế tuyến
đường biển quốc tế xuyên qua Biển Nam Hải.
Trên bình diện địa chiến lược, Biển Nam Hải không phải là một “Biển Nội Địa của Trung Quốc.”[2]
“Về phương diện chiến lược và quân sự, Biển Nam Hải tọa lạc trong
một khu vực then chốt cho phép kiểm soát không những ‘Đông Nam Á’ mà cả
toàn bộ ‘Nam và Đông Á Châu’.”[3]
Với ý nghĩa chiến lược đó, toàn bộ “Biển Tây Thái Bình Dương,” bao
gồm cả Biển Nam Hải, với những đường ranh có tầm chiến lược quan trọng
đối với cả hai siêu cường Hoa Kỳ và Trung Quốc, cho đến nay, đang do Hoa
Kỳ khống chế. Và Hoa Kỳ chưa hề tỏ dấu hiệu sẵn sàng từ bỏ quyền khống
chế chiến lược của mình. Biển Tây Thái Bình Dương cũng thiết yếu đối
với TQ một khi TQ cảm nhận có nhu cầu thoát khỏi sự khống chế quân sự
của Hoa Kỳ trong vùng.
Chiến lược Brinkmanship của TQ, trên căn bản, đã manh nha từ hai
thập kỷ, trong suốt thời gian Hoa Kỳ mãi miết tập trung mọi nổ lực quân
sự vào vùng Balkans, Afghanistan và Iraq và thiếu quan tâm đến an ninh
và ổn định trong khu vực Á Châu-Thái Bình Dương. Tình trạng lơ là nầy
đã làm dễ dàng các chương trình tăng cường các lực lượng quân sự, đặc
biệt là hải quân, của Trung Quốc, và TQ đã không gặp phải bất cứ cản trở
nào từ phía Hoa Kỳ.
Với quyết định thiết lập chốt Á châu-Thái Bình Dương gần đây của
người Mỹ, theo giới quan sát, sự cạnh tranh chiến lược mới giữa Hoa Kỳ
và Trung Quốc trong khu vực đã là một trong những nguyên nhân khiến các
tranh chấp ở Biển Nam Hải, vốn đã âm ỉ từ lâu, bùng phát .
Chính sách “Không Ưa Thích Nguy Cơ” (Risk Aversion) và “Chiến Lược
Rào Giậu Trung Quốc” (China-Hedging Strategy) hiện nay của Hoa Kỳ cũng
là những yếu tố góp phần khiến Trung Quốc tin tưởng những động thái gây
hấn của họ ở Biển Nam Hải có thể sẽ không bị Hoa Kỳ thách thức.
Thực vậy, chiến lược Brinkmanship không chỉ nhằm kiểm soát số trữ
lượng dầu và hơi đốt lớn lao dưới lòng đại dương. Trung Quốc còn có
những mục tiêu chiến lược khi leo thang gây hấn trong vùng Biển Nam Hải —
những động thái cần được hiểu trong bối cảnh Đại Chiến Lược hay Grand
Strategy của Trung Quốc.
Đại Chiến Lược nhằm hai mục tiêu: (1) Buộc Hoa Kỳ phải triệt thoái
khỏi Đông Á và Tây Thái Bình Dương vì mỏi mệt chính trị và đã tỏ ra thụ
động trước chiến lược Brinkmanship trong Vùng Biển Tây Thái bình Dương
của TQ; và (2) Lực lượng hải quân TQ đã được vun đắp đến mức đã có thể
thu hẹp đáng kể sự chênh lệch so với ưu thế của hải quân Hoa Kỳ trong
Biển Tây Thái Bình Dương.
Mục tiêu cơ bản rộng lớn hơn là xây dựng khả năng các lực lượng không
những dọc bờ Thái Bình Dương của Trung Quốc mà còn cả trong Ấn Độ
Dương.
Đại Chiến Lược của TQ trong vùng Biển Nam Hải xoay quanh ba trụ cột:
(1) Chiếm trước, ngăn ngừa, cản trở bằng mọi giá quốc tế hóa các tranh
chấp trong vùng Biển Nam Hải; (2) phá vỡ sự nhất trí của khối ASEAN nhằm
ngăn ngừa chính sách khu vực hóa các tranh chấp; và (3) kiềm hãm và duy
trì trình độ sôi sục trong các tranh chấp Biển Nam Hải ở mức không đủ
để khởi động một sự can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ, cùng lúc vẫn
duy trì đủ một áp lực chiến lược đáng kể.
Nguy cơ trong chiến lược Brinkmanship là tính toán sai lầm quá trớn
của TQ về các tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải, và do đó, có thể khởi
động các xung đột vũ trang. Đến một mức độ nào đó, Hoa Kỳ cũng có thể
sẽ phải can thiệp để bảo vệ ưu thế khống chế chiến lược của mình trong
vùng Á châu-Thái Bình Dương và bảo vệ an ninh cho các đồng minh quân sự
và các quan hệ chiến lược mới trong vùng.
Đây là khuôn khổ chiến lược trong đó các tranh chấp trong vùng Biển
Nam Hải phải được phân tích và thẩm định trong thập kỷ thứ hai của thế
kỷ XXI. An ninh kinh tế và năng lượng chỉ giữ một vai trò thứ yếu. Các
yếu tố quyết định chiến lược đang làm lu mờ các tranh cãi về luật pháp
và chủ quyền trong vùng Biển Nam Hải.
Vấn đề cơ bản là thẩm định các tác động chiến lược xuất phát từ các
tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải ở cấp khu vực và trên toàn cầu. Thông
thường các hệ quả chiến lược cấp vùng cần được ưu tiên phân tích, trước
các tác động trên cách hành xử uy quyền toàn cầu.
Tuy vậy, tác động trên chiến lược toàn cầu sẽ được thảo luận trước
bởi lẽ chúng ta có đủ lý do để tin hiện nay những hệ quả nầy luôn che mờ
các hệ quả chiến lược cấp vùng, loại hệ quả thường đã được hàm chứa sẵn
trong những hệ quả toàn cầu.
TÁC ĐỘNG TRÊN CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU
Ngày nay, các tranh chấp ở Biển Nam Hải không còn là một âu lo cấp
vùng của Đông Á, Tây Thái Bình Dương, và Á Châu-Thái Bình Dương. Các
xung đột ở Biển Nam Hải liên can ngày một nhiều đến các xứ bên ngoài khu
vực cùng quan tâm đến các động lực tranh chấp.
Chính tình trạng thiếu nhất trí trong vùng Nam Á và thiếu khả năng
quân sự bên trong khu vực để có thể tạo thành một cản trở tối thiểu đối
với TQ trong các tranh chấp ở Biển Nam Hải đã mở đường cho các chủ thể
có quyền lợi quốc tế trong khu vực can dự vào hàng ngũ các quốc gia đối
nghịch với TQ.
Hoa Kỳ là đại cường đối trọng chính trong khi Nhật và Ấn Độ được thẩm
định như các đối trọng bổ sung trong vùng Á châu-Thái Bình Dương nhằm
ngăn chặn chiến lược Brinkmanship của TQ.
Liên Bang Nga như một đại cường Á châu-Thái Bình Dương cũng đang được
huy động. Và Liên Bang Nga cũng đã tuyên bố chốt chiến lược Á châu-Thái
Bình Dương của mình mặc dù thời khắc cũng như ý định đang còn rộng mở
cho thương nghị.
Can dự vào các tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải không những là các
động thái ngăn bờ TQ không mấy che đậy của Hoa Kỳ, mà còn các động thái
ngập ngừng ban đầu của Nhật Bản và Ấn Độ như những cản trở nếu chưa
mang tính quân sự, ít ra là ngăn chặn chính trị.
Chính sách Brinkmanship và sử dụng vũ lực trong các tranh chấp Biển
Nam Hải của TQ đã làm gia tăng các âu lo và quan tâm của Á châu trước
sức mạnh quân sự của TQ. Trong các thủ đô Á châu, nhận thức của giới
lãnh đạo ngày một mạnh mẽ: TQ không phải là một đại cường có ý thức
trách nhiệm đối với an ninh và ổn định ở Á Châu.
Đây là một vấn đề rộng lớn, do đó, các hệ lụy chiến lược toàn cầu nổi
trội bắt nguồn từ các tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải cần được phân
tích và nghiên cứu nghiêm túc:
(1) Hiện tượng Phân Cực ở Á Châu và Cán Cân Quyền Lực Mới ở Á Châu-Thái Bình Dương;
(2) Tây Thái Bình Dương không còn “thái bình”;
(3) Phản Ứng Toàn Cầu trước Chiến Lược Brinkmanship của TQ trong các tranh chấp Biển Nam Hải;
(4)Trung Quốc đang gây ra một Chiến Tranh Lạnh Mới trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương.
PHÂN CỰC VÀ CÁN CÂN LỰC LƯỢNG MỚI Ở Á CHÂU-THÁI BÌNH DƯƠNG
Lập trường hiếu động của TQ trong quá trình tranh chấp trong Biển Nam
Hải đang tác động mạnh mẽ tới hiện tượng phân cực chiến lược ở Á Châu.
Như một hệ quả, thế giới đang chứng kiến sự xuất hiện một cán cân quyền
lực mới trong khu vực Á Châu-Thái Bình Dương.
Một sự tái thẩm định chiến lược về môi trường an ninh Á Châu đã gợi
ý, “các tham vọng chiến lược của TQ về sự trỗi dậy của một Á Châu với TQ
như trung tâm hình như đã bị lên án. Sự thay đổi của TQ từ Đại Chiến
Lược dựa trên ‘uy quyền mềm’ qua hành xử ‘uy quyền cứng’ hình như đã
khai sinh một hiện tượng phân cực chiến lược của Châu Á-Thái Bình
Dương. Việc thay đổi của TQ trong Đại Chiến Lược hình như đã đưa tới
nhận thức một “Đe Dọa TQ” nhận chìm vùng Á Châu-Thái Bình Dương.”[4]
Việc TQ sử dụng các biện pháp hù dọa, áp lực quân sự và chính trị
trong các vụ xung đột ở Biển Nam Hải chống lại các quốc gia láng giềng
ASEAN, những quốc gia trong nhiều thập kỷ đã tìm cách hội nhập TQ vào
các cơ chế đối thoại ASEAN, không những đã phản bội lòng tin, mà trong
tiến trình, còn làm sứt mẻ uy tín của TQ như một đối tác có tinh thần
trách nhiệm và yêu chuộng hòa bình.
Trên phương diện lịch sử, Á Châu-Thái Bình Dương, vào những thời điểm
khác nhau, đã trải nghiệm nhiều mẫu cán cân quyền lực trong thực tế.
Tuy nhiên, các sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ trong vùng Balkans trong
thập kỷ 1990 và ở Afghanistan và Iraq trong thập kỷ 2000 đã đảo lộn cán
cân lực lượng hiện hữu trong vùng. Sự thiếu vắng một chiến lược sau đó
đã dẫn đến các chương trình canh tân và tăng cường quân sự nhanh chóng
của TQ.
Các tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải đã bùng phát trong giai đoạn
hậu-2009 và tác động của tình trạng nầy đã dọn đường cho Hoa Kỳ trở lại
với chốt Á Châu-Thái Bình Dương nhằm vãn hồi cán cân quyền lực đang bị
cố tình đảo lộn bởi TQ.
Trong năm 2013, vùng Á Châu-Thái Bình Dương đang chứng kiến sự ló
dạng của một cán cân lực lượng mới trong khu vực. Nói một cách tổng
quát, phương thức của Hoa Kỳ là tái tăng cường các cơ cấu đồng minh quân
sự hiện hữu ở Đông Bắc Á, cơ sở trên Nhật Bản, Nam Hàn, và Philippines;
chấn chỉnh sự thiếu vắng các quan hệ an ninh giữa Hoa Kỳ và các quốc
gia dọc bờ Nam Hải qua nỗ lực tìm kiếm những quan hệ chiến lược mới với
Indonesia, Singapore, Ấn Độ, và Việt Nam, cũng như mở cửa đón nhận
Myanmar.
Chúng ta có thể kết luận: Trong khi Hoa Kỳ đã không thành công trong
nổ lực phân cực chiến lược vùng Á Châu-Thái Bình Dương để ngăn ngừa
một đe dọa khả dĩ của Trung Quốc, chiến lược Brinkmanship của TQ, cùng
với thái độ nôn nóng minh chứng sức mạnh quân sự mới của mình ở Á Châu,
hình như đã đưa đến một tình trạng phân cực chiến lược bất lợi cho
chính TQ.
TÂY THÁI BÌNH DƯƠNG KHÔNG CÒN THÁI BÌNH
Vùng Tây Thái Bình Dương là nơi giao thoa giữa các quyền lợi chiến
lược và quyền lực giữa Hoa Kỳ và TQ. Đó cũng là nơi có sự hiện diện và
cạnh tranh quyền lực cấp vùng giữa TQ và Nhật, giữa TQ và Việt Nam cũng
như Philippines, trong các tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải.
Hoa Kỳ ngày một bị lôi cuốn vào các tranh chấp cấp vùng với TQ và
không thể thờ ơ với an ninh và ổn định trong vùng Tây Thái Bình Dương.
Xét cho cùng, Hoa Kỳ cũng có thể cần đến chiến lược ngăn bờ TQ trong
vùng Tây Thái Bình Dương. Tây Thái Bình Dương là một vùng dễ bốc lửa
giữa TQ và Hoa Kỳ, nơi tiếng súng đầu tiên có thể bùng nổ trừ phi giới
lãnh đạo TQ khôn ngoan đấu dịu thay vì tăng tốc chiến lược Brinkmanship
trong các tranh chấp ở Biển Nam Hải.
PHẢN ỨNG TOÀN CẦU
Cộng đồng toàn cầu và các đại cường cũng đã minh thị cam kết bảo vệ
các quyền lợi chung và quyền tự do lưu thông trên đại dương. Và giới
phân tích Đông Nam Á cũng đã đồng thuận: không xứ nào có quyền tuyên bố
Biển Nam Hải thuộc lãnh thổ quốc gia của riêng mình.
Hoa Kỳ, Anh Quốc, và Bộ Trưởng Ngoại Giao mới của Pháp cũng đã cam kết duy trì an ninh và ổn định trong vùng Đông Nam Á.
TRUNG QUỐC VÀ CHIẾN TRANH LẠNH MỚI
Từ lâu, TQ đã nhận thức Hoa Kỳ như hiện thân của đe dọa số 1. “Thái
độ ngờ vực, giọng điệu ứng xử, và chiến lược Brinkmanship chống đối Hoa
Kỳ cũng không mấy khác bầu không khí ngột ngạt trong thời kỳ dẫn đến
Chiến Tranh Lạnh thứ nhất. Nhưng khác với cuộc Chiến Tranh Lạnh thứ
nhất, cuộc Chiến Tranh Lạnh hiện nay rất dễ trở thành ‘Chiến Tranh Nóng’
giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong các tranh chấp bốc lửa xuyên Á và các
đề tài chiến lược khác.”[5]
Năm 2013, tình hình còn nghiêm trọng hơn khi TQ đã đạt gần đến đỉnh
điểm trong quá trình canh tân và tăng cường quân sự và có thái độ hiếu
động trước chốt chiến lược Hoa Kỳ ở Á Châu, cũng như chuẩn bị thiết kế
một cán cân lực lượng mới trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương. Sự leo
thang trong các tranh chấp Biển Nam Hải là một thách thức hùng mạnh TQ
có thể tung ra đối với Hoa Kỳ.
Tranh chấp cấp vùng, đối đầu, và xung đột không xẩy ra trong chân
không. Các biến động thường xẩy ra do môi trường an ninh bối cảnh, đã
hiện hữu hay có nhiều cơ may xẩy ra trong một tương lai có thể tiên
liệu. Vì vậy, những tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải cần được xem xét
trong toàn cảnh môi trường an ninh Á Châu trong thế kỷ XXI.
Nhận thức giữ một vai trò quan trọng trong việc định hình môi trường an ninh bối cảnh.
Trong các tranh chấp ở Biển Nam Hải, chiến lược Brinkmanship của TQ
cần được thẩm định từ các nhận thức về sự cam kết của Hoa Kỳ đối với an
ninh và ổn định của ASEAN hay sự thiếu dứt khoát và thiếu minh bạch của
Hoa Kỳ, một thực tế TQ có thể lợi dụng để thể hiện các mục tiêu chiến
lược nhằm thủ đắc quyền kiểm soát toàn vùng Biển Nam Hải.
TQ chẳng mấy quan tâm đến tính nhạy cảm trong chiến lược của ASEAN vì
ý thức được tập thể ASEAN không thể tạo thành một lực cản nhất trí tối
thiểu trước sức mạnh tấn công vào vùng Biển Nam Hải của TQ.
Trong những hệ quả chiến lược của sức ép tấn công của TQ đối với các
thành viên ASEAN, chúng ta có thể lưu ý đến những điểm nổi trội sau:
(1) Các Thành Viên ASEAN Cần Cải Tiến Khả Năng Quân Sự
Mặc dù khá chậm trể, các thành viên ASEAN đã bừng tỉnh khi nhận thức
được “Đe Dọa TQ” là một thực tế; và vì đó là một đe dọa hàng hải, các xứ
nầy nay cần tập trung nổ lực xây dựng khả năng cản trở của hải quân và
giám sát đại dương.
Trong địa hạt nầy, các thành viên ASEAN, kể cả các thành viên không
dính líu đến các tranh chấp hiện nay, cũng cần phải củng cố sự nhất trí
vì lý do đơn giản an ninh và ổn định của vùng Đông Nam Á không thể chia
cắt. Hợp tác an ninh cấp vùng, vì vậy, là một mục tiêu cấp thiết khi TQ
ngày một cường thịnh và gây hấn.
Mục tiêu cần được ghi nhận ở đây là các xứ thành viên ASEAN không
những cần cải tiến khả năng quân sự, mà các cường quốc vốn có quyền lợi
thiết thân trong vấn đề an ninh và ổn định trong vùng Biển Nam Hải cũng
cần chung sức giúp ASEAN xây dựng và cải tiến khả năng ngăn cản và quốc
phòng.
(2) Nhật Bản và Ấn Độ Cũng Cần Gấp Rút Tăng Cường Quân Sự
Lập trường cứng rắn của TQ không chỉ giới hạn trong vùng Biển Nam Hải
mà còn bao gồm các tranh chấp lãnh thổ và quân sự với Nhật và Ấn Độ.
Chính vì vậy, hai cường quốc nầy cũng phải tái thẩm định khả năng ngăn
chặn ảnh hưởng của một TQ ngày một hùng mạnh về kinh tế lẫn quân sự.
Nhật đã bắt đầu những bước dè dặt hướng đến một lực lượng quốc phòng
và ngăn chặn ít nhiều độc lập hơn. Chiến lược Brinkmanship liên quan đến
tranh chấp chủ quyền các hải đảo Senkaku của TQ đã thuyết phục cấp lãnh
đạo Nhật về nhu cầu một khả năng quân sự độc lập đối với Hoa Kỳ. Khả
năng hoàn toàn kiểm soát vùng Biển Nam Hải của TQ có thể dần dà bóp ngạt
kinh tế và chiến lược đối với Nhật Bản. Và Nhật có thể sẽ phải tìm cách
chận đứng sự khả dĩ nầy.
Cho đến nay Nhật đã phải tự kiềm chế trong chính sách khẳng định đối
với TQ. Trong cách tiếp cận TQ nầy, Nhật đã phải gói ghém an ninh quốc
gia của mình trong “khuôn khổ chiến lược nhạy cảm” của Hoa Kỳ đối với
TQ. Khả năng mở rộng các tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải đến vùng
Biển Hoa Đông đã buộc Nhật Bản không những phải tái duyệt Hiến Pháp Hòa
Bình mà còn phải tăng cường khả năng ngăn chặn TQ của chính mình.
Ấn Độ cũng đã trải nghiệm trò chơi lơ lửng trước các tranh chấp biên
giới Ấn-Tây Tạng (do TQ chiếm đóng) và chiến lược bao vây Ấn Độ của TQ,
và cũng đã thức tỉnh trước thực tế thách thức của hải quân TQ trong Ấn
Độ Dương. Trước viễn cảnh đó, Ấn Độ ngày nay cũng đã trỗi dậy như một
quốc gia có nhiều quyền lợi thiết thân trong an ninh và ổn định trong
vùng Biển Nam Hải.
Vì những lý do vừa đề cập, cả Ấn Độ lẫn Nhật gần đây đã chứng tỏ một
thái độ tích cực nhập cuộc đối với các xung đột trong vùng Biển Nam Hải
và đã cùng chia sẻ nhiệm vụ Bảo Vệ Các Quyền Lợi Chung — một “strategic
congruence on the Defence of the Global Commons”. Như chờ đợi, quá
trình tăng cường quân sự của Ấn Độ và Nhật Bản có thể tạo dựng một đối
trọng thực tế đối với TQ ở cả hai cực Bắc và Nam Biển Nam Hải.
Rất có thể đây sẽ là một nguồn an ủi đối với các thành viên ASEAN và
giúp các xứ nầy tránh được thế hàng hai trong quan hệ đối với Trung
Quốc.
(3) Huyền Thoại một ASEAN Nhất Trí ?
TQ đã ngày một trở nên bạo dạn hơn trong việc cải tiến chiến lược
“brinkmanship,” vững tin ở thực tế thiếu nhất trí trong tập thể ASEAN
khó thể trở thành một mặt trận thống nhất trước sức tấn công của TQ vào
vùng Biển Nam Hải.
Sự nhất trí của ASEAN đã bị TQ phá vỡ khi phiên họp ASEAN Ministerial
Meeting trong tháng 6-2012 ở Phnom Penh, dưới quyền chủ tọa của
Cambodia, đã không thể thông qua một Thông Cáo Chung, lẽ ra đã có thể
lên án nặng nề lập trường gây hấn của TQ trong Biển Nam Hải.
Giờ đây, trước áp lực quốc tế ngày một gia tăng đòi hỏi TQ phải giải
quyết các xung đột trong vùng Biển Nam hải, TQ cũng đã có thể an tâm
tích cực theo đuổi chiến lược chia rẻ ASEAN hơn trước.
Sự nhất trí tập thể của ASEAN chống lại TQ trong các tranh chấp lãnh
thổ có thể tiếp tục như một huyền thoại bất khả thành đạt, bởi lẽ một số
quốc gia thành viên đã từng chứng tỏ dễ bị TQ mua chuộc với các cám dỗ
tài chánh lớn lao. Một số quốc gia thành viên không có tranh chấp quyền
lợi cũng đã bất đồng quan điểm với các quốc gia thành viên khác và đã
làm trầm trọng thêm tình trạng chia rẽ trong nội bộ tổ chức, có lợi lớn
cho TQ.
ASEAN như một tổ chức hội nhâp cấp vùng ở Đông Nam Á đang đứng trước
nguy cơ tan rã nếu các quốc gia thành viên không đồng tình chống lại
chiến lược chia rẽ của TQ.
Một thực tế không nên quên là ASEAN đang phải đối diện với một phản
bội kép khi TQ đã lạm dụng lòng tin của ASEAN (hy vọng, trong quan hệ
với ASEAN, TQ có thể trỗi dậy như một đối tác trách nhiệm) để hội nhập
dễ dàng vào các diễn đàn của ASEAN, nhưng rồi lại theo đuổi chính sách
gây hấn và chống đối các thành viên ASEAN trong các tranh chấp trong
Biển Nam Hải.
VIỄN TƯỢNG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT
Trình tự giải quyết xung đột quay quanh ba điều kiện chính: (1) Xuống
thang trong cách ứng xử leo thang; (2) Thay đổi thái độ và cách tiếp
cận các tranh chấp; và (3) Cải biến tương quan giữa các quyền lợi xung
đột.
TQ, với sự cứng rắn và không khoan nhượng hiện hữu đối với các tranh
chấp trong vùng Biển Nam Hải, qua tuyên bố chủ quyền tối thượng của
mình trong vùng Biển Nam Hải và xem đó là đề tài không thể đem ra thương
thảo, đã chứng tỏ không hề sẵn sàng giải quyết các tranh chấp. Hơn nữa,
TQ đã chỉ định vùng Biển Nam Hải là “quyền lợi thiết thân” của mình và
để bảo vệ quyền lợi đó, sẵn sàng chấp nhận chiến tranh. Đó đã là lập
trường chiến lược rõ ràng của TQ.
Khi dự báo về viễn tượng giải quyết các tranh chấp trong vùng Biển
Nam Hải, một số bình luận gia đã nhắc đến ba yếu tố hổ thuộc trong một
giải pháp đáng mong muốn và công bằng: (1) Sự tự chế của TQ về các tranh
chấp trong Biển Nam Hải; (2) ASEAN cần tỏ rõ tinh thần tương trợ cấp
vùng để củng cố lập trường thương nghị tập thể với TQ và một hình thức
ngăn chặn nào đó; và (3) Hoa Kỳ phải mạnh mẽ cam kết: bảo đảm chiến
lược brinkmanship của TQ trong các tranh chấp Biển Nam Hải sẽ bị ngăn
chặn.
Một số học giả khác, khi bàn về ba yếu tố của một giải pháp công
bằng, lại nghĩ: ASEAN không thể chờ đợi TQ tự kiềm chế trong các tranh
chấp Biển Nam Hải khi phân tích nghiêm túc cách ứng xử và các lời tuyên
bố trước đây của TQ; và huyền thoại nhất trí giữa các quốc gia thành
viên ASEAN cũng đã tan vỡ như đã được thảo luận trên đây; trong thực tế,
TQ rất có thể sẽ tìm cách đào sâu thêm hố chia cách trong nội bộ ASEAN.
Về phần mình, Hoa Kỳ không chính thức bị ràng buộc bởi một quan hệ
đồng minh với bất cứ thành viên ASEAN nào trong các tranh chấp trong
Biển Nam Hải, ngoại trừ Philippines. Cam kết duy nhất đối với các tranh
chấp trong Biển Nam Hải liên quan đến việc bảo vệ các quyền lợi chung
toàn cầu và tự do lưu thông hàng hải trên các đại dương, và vì vậy, chỉ
tỉm cách duy trì quyền khống chế hàng hải trên vùng Tây Thái Bình Dương.
Chúng ta cũng phải cần đợi xem các động thái bảo vệ các quyền lợi
chiến lược của Hoa Kỳ phải được hiểu như thế nào trong khuôn khổ chật
hẹp của chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc — một chiến lược Hoa Kỳ
đã tự áp đặt dưới tên gọi “China Hedging Strategy” và “Risk Aversion.”
Trong những tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải, TQ, như siêu cường áp
đảo trong vùng, đã sử dụng tất cả các dụng cụ công kích để thành đạt
các mục tiêu chiến lược: quyền kiểm soát hoàn toàn các dải Hoàng Sa,
Trường Sa, và các hải đảo nhỏ rải rác trong vùng; Trung Quốc cũng đã
tuyên bố chủ quyền tối thượng đối với dải biển chung quanh các hải đảo
đang tranh chấp.
Chiến lược mạnh tay của TQ hiện nay đã vượt khỏi các ranh giới của
ASEAN, vươn đến các thách thức tế nhị đối với hải quân Hoa Kỳ và Ấn Độ
cũng như các quốc gia thăm dò năng lượng quốc tế. Thái độ gây hấn của
Trung Quốc ngày nay đã với lên phía Bắc đến tận Biển Hoa Đông chống lại
Nhật Bản.
Bằng sức mạnh, Trung Quốc hiện đang phô bày thái độ và những công
thức mang tính hệ thống của một “Đại Cường đang theo chủ nghĩa Xét Lại”
–Revisionist Power, với quyết tâm thay đổi trật tự hiện hữu trong vùng Á
Châu-Thái Bình Dương.
Vấn đề chủ yếu cần đặt ra là viễn cảnh lạc quan nào còn hiện hữu và
hướng đến khả năng giải quyết các tranh chấp trong Biển Nam Hải. Trung
Quốc cho đến nay chưa có chỉ dấu đáng kể nào sẽ tham dự vào bất cứ sáng
kiến giải quyết các xung đột, hay ngay cả tuân thủ bất cứ luật lệ hay
công ước quốc tế nào trong các tranh chấp Biển Nam Hải. TQ chỉ duy trì
một cách cứng nhắc lập trường sẽ chỉ đối thoại song phương với từng quốc
gia tranh chấp. Điều nầy tự nó đã là một “sáng kiến yểu tử”, một
Non-Starter, để bắt đầu bất cứ một trình tự giải quyết tranh chấp nào
liên quan đến nhiều quốc gia đối kháng cấp vùng hay quốc tế.
VÀI NHẬN ĐỊNH TẠM THỜI
Cũng giống như lãnh thổ của Đức Quốc trước đây đã được xem như chiến
tuyến của Chiến Tranh Lạnh, Biển Nam Hải có thể là chiến tuyến trong
những thập kỷ sắp tới. Mặc dù tính đa cực của thế giới đã là nét đặc
trưng của ngoại giao và kinh tế, nhưng Biển Hoa Nam có thể cho thấy đa
cực theo nghĩa quân sự trong thực tế sẽ ra sao hay trong cốt lõi cũng
chỉ là một đối đầu gián tiếp giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Nếu các quốc gia trong vùng không đồng ý với phương cách tiếp cận
với Trung Quốc, họ có thể sẽ phải chuẩn bị để nghe tiếng trọng pháo
trong vùng. Đó cũng có thể là con đường các tranh chấp trên đại dương sẽ
được giải quyết.
Các tranh chấp trong Biển Nam Hải từ lâu đã được phân tích từ một
viễn cảnh chật hẹp như một tranh chấp lãnh thổ dựa trên tính hợp pháp và
chủ quyền đối với các dải hải đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và các lãnh
thổ liên kết trong vùng Biển Nam Hải giữa một Trung Quốc hống hách và
các thành viên ASEAN yếu kém về quân sự và chia rẽ về chính trị.
ASEAN như một tập thể cấp vùng các quốc gia Đông Nam Á muốn duy trì
một mặt trận tập thể vững chắc chống đối và ngăn chặn một TQ gây hấn và
đe dọa. Tình trạng thiếu nhất trí trong nội bộ ASEAN, do TQ phối trí bên
sau hậu trường đúng theo Đại Chiến Lược của chính mình, cũng rất có thể
sẽ đẩy ASEAN đến chỗ tan rã.
Các tranh chấp trong Biển Nam Hải hiện nay đã được đẩy lên một tầng
chiến lược cao hơn và đã chuyển biến thành bàn cờ quốc tế giành quyền
kiểm soát vùng Tây Thái Bình Dương giữa hai tay chơi quốc tế: Hoa Kỳ và
TQ.
Việc tuyên bố chốt chiến lược của Liên Bang Nga ở Á Châu-Thái Bình
Dương gần đây đã du nhập một tay chơi hùng mạnh mới với tác động lớn lao
trên các xung đột hiện hữu.
Cam kết của Hoa Kỳ đối với an ninh và ổn định trong vùng Biển Nam Hải
cần được tuyên bố minh bạch, khả tín, và chính thức hơn. Nếu Hoa Kỳ tỏ
vẻ ngập ngừng hay dao động trong khuôn khổ chiến lược “Rào Giậu TQ” và
“Không Ưa Thích Nguy Cơ” đối với Trung Quốc, lúc đó Hoa Kỳ rất có thể
sẽ phải từ bỏ chốt chiến lược Á Châu-Thái Bình Dương.
Các tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải hình như đang hướng tới sự
khởi đầu một Chiến Tranh Lạnh Toàn Cầu mới trong vùng Á Châu-Thái Bình
Dương. Cuộc Chiến Tranh Lạnh Mới do chiến lược Brinkmanship của Trung
Quốc, vắng bóng ý thức hệ, và khống chế bởi sự tranh giành vai trò chủ
nhân ông trong vùng Tây Thái Bình Dương, hứa hẹn sẽ tạo nhiều căng thẳng
và mâu thuẫn trong tương lai.
Nhiều người trong giới quan sát quốc tế chắc chưa quên các chuyến
công du của Henry A. Kissinger và Richard M. Nixon đến Bắc Kinh năm
1972, và chúng ta cũng nên quan tâm nhiều hơn đến các cuộc công du của
John Kerry và Barack Obama đến Trung Quốc trong thời gian gần đây hay
sắp tới.
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
14-5-2013
——————————————————————————–
[1] …the defense of the global commons, unrestricted use of international waterways; and freedom of the high seas.
[2] …Inland Sea of China…
[3] In strategic and military terms, the South China Sea is in a key
position that enables control not only over South East Asia but over the
entire realm of South and East Asia.
[4] China’s strategic ambitions on the rise of a Sino-centric Asia
seem foredoomed as a contemporaneous strategic review of the Asian
security environment suggests. China’s switch from a Grand Strategy
relying on “soft power” to exercise of “hard power” seems to have
generated a strategic polarisation of the Asia Pacific. The Chinese
switch in its Grand Strategy seems to have generated perception of a
China Threat engulfing the Asia Pacific.
[5] The present state of relations between China and the United
States are acquiring the contours of a Cold War. But this Cold War
unlike the first Cold War has all the chances of being a “Hot War”
between United States and China over a host of conflictual flashpoints
stretching right across Asia and other strategic issues.