Tài nguyên thiên nhiên là nền tảng của văn minh và tối cần thiết cho
đời sống hàng ngày. Nhân loại quả thật rất may mắn có được những nguồn
cung bao la các vật liệu cơ bản nhất. Tuy vậy, đây vẫn là những nguồn
cung hữu hạn. Do đó, sau khi cực lực khai thác trong một thời gian lâu
dài, hiện nay, trong vài trường hợp, chúng ta hay con cháu của chúng ta
đang phải đối diện với tình trạng vài loại tài nguyên tối cần thiết đã
cạn kiệt ngày một nghiêm trọng.
Với sự xuất hiện của hiện tượng biến đổi khí hậu, chúng ta đang chứng
kiến một thực tế ngày một sôi sục và dễ bùng nổ trong những thập kỷ sắp
tới. Thực vậy, các khoa học gia hàng đầu hiện nay tin, vào khoảng 2050,
áp lực biến đổi khí hậu — lũ lụt, nhiệt độ bất thường , và hạn hán — có
thể thay đổi bộ mặt của các ngành canh tác trên địa cầu, và giá thực
phẩm cũng như vật liệu cơ bản các loại sẽ tăng gấp đôi, khi dân số thế
giới tiếp tục bành trướng. Điều nầy có nghĩa tình trạng thiếu thốn, cơ
hàn, hay tồi tệ hơn nữa, đối với hàng triệu người nghèo, đặc biệt là ở
Phi châu và Á châu.
Không ai có thể nói trước, nhưng theo các chuyên gia toàn cầu, và
cộng đồng tình báo Hoa Kỳ, địa cầu đang dịch động ngay dưới chân nhân
loại. Dù hiểu dù không, nhân loại cũng vẫn đang sống trên một hành tinh
tài nguyên lúc một khan hiếm, một thực tế con người chưa bao giờ trải
nghiệm trước đây.
Có hai kịch bản mang tính ác mộng — một sự khan hiếm toàn cầu các tài
nguyên sinh tử và một khởi đầu của hiện tượng biến đổi khí hậu đến cực
độ — đã bắt đầu hội tụ, và trong những thập kỷ sắp tới, có thể gây ra
một làn sóng bất an, rối loạn, cạnh tranh, và xung đột.
Những đợt sóng thần tai họa nầy sẽ ra sao là một điều khó nhận thức.
Theo cảnh cáo của các chuyên gia: đó có thể là các cuộc chiến về nguồn
nước từ các hệ thống sông ngòi chảy qua nhiều xứ, các biến động toàn cầu
về thực phẩm khi giá các nông ngư sản căn bản vọt cao, các đợt di dân
đông đảo vì biến đổi khí hậu, sự suy sụp trật tự xã hội hay sự đổ vỡ của
các chính quyền nhà nước. Lúc đầu, các tai ương như thế phần lớn xẩy ra
ở Phi châu, Trung Á, và một số địa phương thiếu mở mang vùng Nam bán
cầu, nhưng lần hồi sẽ lan dần ra khắp hành tinh.
Để thẩm định sức mạnh của tai họa tiệm tiến nầy, chúng ta cần phải
xét xem các lực phối hợp nào đang diễn tiến bên sau các tai ương lớn lao
tương lai vừa nói.
TÀI NGUYÊN KHIẾM HỤT VÀ CHIẾN TRANH TÀI NGUYÊN
Thử bắt đầu với viễn tượng khan hiếm tài nguyên thiên nhiên thiết
yếu, như năng lượng, nước uống, đất đai, thực phẩm, và khoáng sản. Tình
trạng nầy tự nó có thể đem lại bất ổn xã hội, các va chạm địa chính trị,
và chiến tranh.
Một điều quan trọng cần ghi nhận là không cần phải có một tình tạng
khan hiếm tuyệt đối trong bất cứ hạng mục tài nguyên nào để khởi động
kịch bản nầy. Chỉ cần thiếu vắng một số cung thích hợp để thỏa mãn nhu
cầu một quần chúng toàn cầu ngày một thành thị hóa và kỹ nghệ hóa, là
đủ.
Trước làn sóng tuyệt chủng của một số tài nguyên các khoa học gia đã
ghi nhận, vài loại động vật và thảo mộc đặc biệt, chẳng hạn, sẽ trở nên
hiếm hoi trong những thập kỷ sắp tới, và có thể ngay cả hoàn toàn hủy
diệt.
Những vật liệu thiết yếu cho văn minh hiện đại — như dầu khí,
uranium, và đồng — sẽ đơn thuần trở nên khó kiếm hay đắt đỏ hơn, cũng sẽ
gây ra tình trạng tắc nghẽn trong số cung và thỉnh thoảng thiếu hụt.
Dầu lửa — một sản phẩm quan trọng nhất trong kinh tế thế giới — là
một ví dụ thích ứng khác. Mặc dù số cung dầu lửa toàn cầu trong thực tế
có thể gia tăng trong những thập kỷ sắp tới, nhiều chuyên gia nghi ngờ
số cung có thể gia tăng đủ để thỏa mãn nhu cầu của giới trung lưu toàn
cầu này một đông và được chờ đợi sẽ mua hàng triệu xe hơi mới trong một
tương lai gần.
Trong cuốn Viễn Tượng Năng Lượng Thế Giới năm 2011 (2011 World Energy
Outlook), Cơ Quan Năng Lượng Quốc Tế (International Energy Agency) cho
biết: một số cầu toàn cầu tiên liệu khoảng 104 triệu thùng mỗi ngày
trong năm 2035 có thể được thỏa mãn. Theo phúc trình, điều nầy một phần
lớn nhờ ở những số cung phụ trội của “dầu lửa phi quy ước” (Canadian tar
sands, shale oil,…), cũng như 55 triệu thùng dầu mới từ những trữ lượng
“chưa tìm thấy” và “chưa khai thác.”
Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích không tin tưởng ở sự thẩm định lạc
quan nầy. Họ đưa ra luận cứ: phí tổn sản xuất gia tăng (đối với số năng
lượng ngày một khó khai thác và tốn kém), môi trường ô nhiễm, chiến
tranh, tham nhũng, và nhiều trở ngại khác, sẽ gây muôn vàn trở ngại cho
việc thành đạt những số sản xuất gia tăng với tầm cỡ đó.
Nói một cách khác, ngay cả khi số sản xuất đạt đến đỉnh điểm trong
năm 2010, 87 triệu thùng mỗi ngày, mục tiêu 104 triệu thùng sẽ không bao
giờ có thể với tới và giới tiêu thụ trên thế giới sẽ đối diện với một
khan hiếm thực tế, nếu không muốn nói tuyệt đối.
Tài nguyên “nước” là một ví dụ khác. Trên căn bản hàng năm, số cung
nước uống do vũ lượng thiên nhiên luôn ở mực ít nhiều không mấy thay
đổi: khoảng 40.000 km khối (cubic kilometers). Nhưng một lượng lớn trong
số nầy tập trung ở Greenland, Antarctica, Siberia, và inner Amazonia,
những nơi rất ít cư dân, do đó, vũ lượng khả dụng đối với phần nhân loại
sống tập trung với mật độ lớn thường hết sức hạn chế. Trong nhiều vùng
với mật độ cao, số cung nước sạch vốn đã tương đối hiếm. Thực tế nầy đặc
biệt đúng với Bắc Phi, Trung Á, và Trung Đông, những nơi số cầu nước
sạch liên tục gia tăng do dân số gia tăng, thành thị hóa, và các kỹ nghệ
mới sử dụng nhiều nước (new water-intensive industries). Kết quả, ngay
cả khi số cung không thay đổi, cũng sẽ là tình trạng khan hiếm ngày một
gia tăng.
Nhìn bất cứ nơi đâu, hình ảnh vẫn luôn tương tự: số cung các tài
nguyên thiết yếu có thể tăng hay giảm, nhưng rất hiếm khi vượt quá số
cầu, đem lại nhận thức về tình trạng khan hiếm khắp nơi và mang tính hệ
thống.
Dù bắt nguồn từ đâu, một nhận thức khan hiếm — hay khan hiếm tiềm
năng — cũng vẫn luôn là lý do để âu lo, bức xúc, thù nghịch, và tranh
chấp. Mẫu mực nầy rất dễ hiểu, và luôn rõ ràng trong lịch sử nhân loại.
Trong tác phẩm Constant Battles (Các Chiến Trận Liên Miên)
chẳng hạn, tác giả Steven LeBlanc,
giám đốc sưu tầm Bảo Tàng Khảo Cổ và Dân Tộc Học Peabody thuộc Harvard,
ghi nhận: nhiều nền văn minh xưa cổ đã trải nghiệm những mực độ chiến
tranh cao hơn khi đối diện với nạn thiếu hụt tài nguyên do dân số gia
tăng, mất mùa, hay hạn hán kéo dài.
Jared Diamond, trong tác phẩm Collapse (Sụp Đổ), đã khám phá một mẫu
mực tương tự trong nền văn minh Mayan và văn hóa Anasazi trong vùng
Chaco Canyon, Mexico. Gần đây hơn, theo Lizzie Collinham trong tác phẩm
The Taste of War (Mùi Vị Chiến Tranh), sự âu lo không có đủ thực phẩm
cho nhân dân quốc nội là một yếu tố quan trọng trong cuộc xâm lăng
Manchuria năm 1931 của Nhật, và các cuộc xâm lăng Ba Lan năm 1939 và
Liên Bang Xô Viết năm 1941 của Đức Quốc Xã.
Mặc dù số cung toàn cầu các sản phẩm cơ bản nhất đã gia tăng lớn lao
kể từ cuối Đệ Nhị Thế Chiến, các nhà phân tích vẫn nhận thấy xung đột
dai dẳng liên quan đến tài nguyên trong những vùng, nơi vật liệu luôn
khan hiếm hay luôn có nỗi âu lo về số cung bấp bênh trong tương lai.
Chẳng hạn, nhiều chuyên gia tin, chiến trận trong vùng Darfur và những
khu vực bị chiến tranh tàn phá ở Bắc Phi đều do, ít ra một phần, sự cạnh
tranh giữa các bộ lạc trong vùng sa mạc giành quyền tiếp cận những
nguồn nước khan hiếm, trong vài trường hợp, đã trở nên trầm trọng hơn
với dân số gia tăng.
Một phúc trình năm 2009, trong Chương Trình Môi Trường Liên Hợp Quốc
về vai trò của tài nguyên thiên nhiên trong cuộc xung đột ở Darfur, đã
cho biết: “hạn hán thường xẩy ra, áp lực dân số gia tăng, và địa vị
ngoài lề các sinh hoạt chính trị là những lực đã thúc đẩy toàn vùng vào
vòng xoáy vô luật pháp và bạo động đưa đến 300.000 thương vong và hơn
hai triệu di dân kể từ năm 2003.”[1]
Sự âu lo về các số cung tương lai cũng thường là một yếu tố trong các
cuộc xung đột xẩy ra liên quan đến quyền tiếp cận dầu lửa hay kiểm soát
các trữ lượng dầu và hơi đốt thiên nhiên dưới lòng biển đang trong vòng
tranh chấp. Chẳng hạn, trong năm 1979, khi cuộc cách mạng Hồi Giáo ở
Iran lật đổ lãnh tụ Shah và Liên Bang Xô Viết xâm lăng Afghanistan, Hoa
Thịnh Đốn đã bắt đầu e ngại một ngày nào đó có thể bị từ chối quyền tiếp
cận dầu lửa từ Vịnh Ba Tư. Vào thời điểm đó, T T Jimmy Carter đã nhanh
chóng loan báo điều được gọi là Chủ Thuyết Carter. Trong Diễn Văn Tình
Trạng Liên Bang năm 1980, Carter đã quả quyết bất cứ động thái nào ngăn
cản dòng chảy dầu lửa từ vùng Vịnh phải được xem như một đe dọa đối với
quyền lợi thiết thân của Hoa Kỳ và phải được đẩy lùi bằng mọi phương
tiện cần thiết, kể cả quân sự.
Năm 1990, nguyên tắc nầy đã được T T George H.W. Bush viện dẫn để
biện minh cho cuộc chiến can thiệp vào Vùng Vịnh Ba Tư thứ nhất, cũng
như con trai của ông, George W. Bush, đã sử dụng một phần để biện minh
cho cuộc xâm lăng Iraq năm 2003. Ngày nay, nguyên tắc nầy vẫn còn là
nguyên tắc căn bản trong các kế hoạch của Hoa Kỳ — sử dụng vũ lực để
chận đứng người Iran đóng cửa Eo Biển Hormuz, tuyến đường chiến lược nối
liền Vịnh Ba Tư với Ấn Độ Dương vận chuyển khoảng 35% số dầu lửa trao
đổi trên thế giới.
Gần đây hơn, thế giới lại chứng kiến các xung đột về tài nguyên năng
lượng sôi sục giữa TQ và các lân bang trong vùng Đông Nam Á, nhằm kiểm
soát các trữ lượng dầu và hơi đốt thiên nhiên trong vùng Biển Nam Hải.
Mặc dù các va chạm hải quân vẫn chưa đưa đến thương vong, khả năng leo
thang quân sự vẫn luôn hiện diện.
Một tình hình tương tự cũng đã xẩy ra trong vùng Biển Hoa Đông, nơi
TQ và Nhật đang tranh giành quyền kiểm soát các dự trữ năng lượng thiết
thân dưới lòng đại dương. Trong lúc đó, trong vùng Nam Đại Tây Dương,
Argentina và Anh Quốc lại một lần nữa lớn tiếng tranh chấp Các Hải Đảo
Falkland, hay Las Malvinas theo tên gọi của người Á Căng Đình, bởi lẽ
dầu lửa đã được khám phá trong những vùng biển vây quanh.
Nói chung, các xung dột tiềm năng vì tài nguyên nêu trên chỉ có thể
tăng lên gấp bội trong những năm tháng tương lai khi số cầu gia tăng, số
cung sụt giảm, và số trữ lượng chưa được khám phá hay khai thác đều tọa
lạc trong những khu vực đang còn tranh chấp.
Trong một phúc trình nghiên cứu năm 2012 nhan đề Tài Nguyên Tương Lai
(Resources Futures), định chế nghiên cứu đầy uy tín Anh quốc, Chatham
House, đã tỏ rõ đặc biệt âu lo về các cuộc chiến tài nguyên khả dĩ vì
nguồn nước, nhất là trong lưu vực sông Nile và Jordan River, nơi một số
quốc gia phải chia sẻ cùng một dòng sông để thỏa mãn phần lớn nguồn
cung thủy lượng gia dụng, và rất ít quốc gia có đủ phương tiện để phát
triển những nguồn cung cấp thay thế. Phúc trình đã ghi nhận: “Trong bối
cảnh số cung khan hiếm và cạnh tranh, các đề tài liên hệ đến quyền tiếp
cận nguồn nước, giá cả, và ô nhiễm, đang trở nên các đề tài tranh chấp.
Trong những khu vực với khả năng hạn chế về quản lý các tài nguyên san
sẻ, quân bình các số cầu cạnh tranh, và huy động các số đầu tư cần
thiết, tình trạng căng thẳng về nguồn nước có thể bùng nổ để trở thành
đối đầu công khai hơn.”[2]
ĐANG HƯỚNG ĐẾN MỘT THẾ GIỚI BỊ SỐC VỀ TÀI NGUYÊN
Tình trạng căng thẳng mô tả trên đây tự chúng có thể ngày một gia
tăng bởi lẽ trong rất nhiều địa hạt nguồn cung những tài nguyên then
chốt sẽ không đủ khả năng bắt kịp số cầu. Như thực tế đang cho thấy,
nguồn cung không phải lực duy nhất. Trên hành tinh, một lực quan trọng
thứ hai cũng đang giữ một vai trò không kém phần quan trọng. Thực vậy,
với thực tế biến đổi khí hậu ngày một gia tăng, mọi thứ đang trở nên
kinh khủng hơn rất nhiều.
Thông thường, khi bàn về tác động của hiện tượng biến đổi khí hậu,
chúng ta nghĩ đến môi trường trước tiên — tình trạng băng tuyết tan dần ở
hai cực địa cầu, lá chắn băng giá Greenland, Arctic và Antarctic
Circles, mực nước biển toàn cầu dâng cao, bảo tố ngày một khốc liệt,
hiện tượng sa mạc hóa, nhiều chủng loại sinh vật lâm nguy và biến dạng
như polar bear…
Nhưng một số chuyên gia ngày một đông đã hiểu được tác động mạnh mẽ
nhất của biến đổi khí hậu sẽ được con người trải nghiệm trực tiếp qua sự
làm suy yếu hay tàn phá môi trường sống cần thiết cho việc sản xuất
thực phẩm, các hoạt động kỹ nghệ, hay để đơn thuần sinh sống. Quan trọng
hơn hết, biến đổi khí hậu sẽ tàn phá nhân loại qua việc kiềm chế cách
tiếp cận những gì thiết yếu cho đời sống: các tài nguyên cơ bản như thực
phẩm, nước uống, đất đai, và năng lượng. Điều nầy sẽ vô cùng tai hại
cho nhân sinh, ngay cả khi chỉ làm gia tăng nguy cơ bùng nổ mọi xung đột
về tài nguyên.
Cho đến nay, chúng ta cũng đã có đủ kiến thức về các tác động tương
lai của biến đổi khí hậu, để có thể tiên đoán khá chính xác những nguy
cơ sau:
(1) Mực nước biển dâng cao trong vòng nửa thế kỷ tới sẽ xóa tan nhiều
khu vực cận duyên, tàn phá các thị trấn lớn, các hạ tầng cơ sở thiết
yếu, như xa lộ, đường hỏa xa, phi trường, các hệ thống ống dẫn, nhà máy
lọc dầu, và các nhà máy phát điện, những ruộng đồng và đất dai nông
nghiệp mầu mỡ.
(2) Giảm bớt vũ lượng, kéo dài hạn hán, tàn phá mùa màng, giảm thiểu
năng suất thực phẩm, và biến hàng triệu người thành dân tỵ nạn biến đổi
khí hậu.
(3) Bảo tố lớn và các đợt nóng bức cực kỳ sẽ phá hoại mùa màng, gây nạn cháy rừng, lụt lội, và tàn phá hạ tầng cơ sở.
Không ai có thể tiên đoán được hết các mức độ mất mát về thực phẩm,
đất đai, nguồn nước, năng lượng, và tưởng tượng được hết những hậu quả
khác của biến đổi khí hậu, nhưng tác động lũy tích sẽ vô cùng lớn lao.
Trong tác phẩm Resources Futures, Chatham House đã đưa ra một cảnh
cáo đặc biệt kinh khủng khi nói đến vũ lượng suy giảm đối với nông
nghiệp. Phúc trình cho biết, vào khoảng năm 2020, năng suất từ ngành
nông nghiệp lệ thuộc vào vũ lượng có thể suy giảm đến gần 50% trong một
vài vùng. Tỉ suất suy giảm cao nhất sẽ xẩy ra ở Phi Châu, nơi sự lệ
thuộc vào ngành canh tác trông cậy vào vũ lượng lớn nhất, nhưng nông
nghiệp ở TQ, Ấn Độ, Pakistan, và Trung Á cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm
trọng.
Những đợt oi bức , hạn hán, và các tác động khác của biến đổi khí hậu
cũng sẽ giảm thủy lượng của nhiều con sông quan yếu, giảm thiểu số cung
thủy lượng cần thiết cho nhu cầu tưới ruộng đồng, các nhà máy thủy
điện, và các lò phản ứng hạt nhân cần nhiều nước để làm nguội nhà máy.
Sự tan chảy các dòng băng tuyết, nhất là trong dảy núi Andes ở Mỹ La
Tinh và Himalayas ở Nam Á , cũng sẽ đánh mất nhiều nguồn cung thủy lượng
sinh tử đối với nhiều cộng đồng và thành phố. Một sự gia tăng trong tần
số bão tố sẽ là những nguy cơ đe dọa đối với các giàn khoan dầu ngoài
khơi, các nhà máy lọc dầu ven biển, các hệ thống dẫn và phân phối điện
năng, và nhiều thành tố khác của hệ thống năng lượng.
Thực tế băng tuyết tan dần trong vùng Arctic sẽ mở rộng khu vực nầy
cho việc thăm dò năng lượng, nhưng một sự gia tăng các “núi băng trôi”
(iceberg activity) sẽ gây nhiều khó khăn, nguy cơ và tổn phí đối với nổ
lực tìm kiếm, khai thác năng lượng trong vùng. Mùa gieo trồng mỗi năm ở
Bắc bán cầu dài hơn, nhất là ở Siberia và các tỉnh Bắc Canada, có thể
bù đắp một phần nào tình trạng đất canh tác khô cằn ở nhiều vĩ độ phía
Nam. Tuy nhiên, chuyển dịch hệ thống canh nông toàn cầu từ các vùng nông
thôn nay bất lợi cho nông nghiệp ở Hoa Kỳ, Mexico, Brasil, India, Trung
Quốc, Argentina, và Australia, lên phía Bắc có thể là một viễn tượng
không dễ dàng và rất dễ nản lòng.
Chúng ta có thể an toàn khi giả thiết biến đổi khí hậu, nhất là khi
khi phối hợp với nạn thiếu hụt gia tăng trong số cung, sẽ đưa đến hậu
quả một giảm sụt đáng kể các tài nguyên thiết yếu của hành tinh, làm
gia tăng áp lực thường đưa đến xung đột, ngay cả trong những hoàn cảnh
tốt đẹp hơn. Trong chiều hướng nầy, theo phúc trình Chatham House, biến
đổi khí hậu nên được hiểu như một “hệ số nhân đe dọa — một yếu tố nòng
cốt làm trầm trọng thêm tính dễ thương tổn tài nguyên sẵn có”[3] trong
những nước vốn dĩ đã dễ bị mất ổn định.
Cũng như các chuyên gia khác về đề tài nầy, các nhà phân tích Chatham
House cho rằng: biến đổi khí hậu sẽ làm giảm sụt sản lượng mùa màng
trong nhiều vùng, đẩy giá thực phẩm toàn cầu lên cao, và khởi động bất
ổn trong số những ai đã bị đẩy tới giới hạn trong những điều kiện hiện
hữu.
“Tần số gia tăng và tính nghiêm trọng của các biến cố thời tiết khắc
nghiệt, như hạn hán, các đợt nóng oi bức, và lũ lụt, cũng sẽ kết thúc
như những cú sốc mùa màng sâu rộng và thường xẩy ra trên khắp thế giới…
Những cú sốc nầy sẽ ảnh hưởng đến giá thực phẩm toàn cầu mỗi khi các
trung tâm then chốt trong các vùng sản xuất nông nghiệp phải gánh chịu
tác động — làm trầm trọng thêm sự chao đảo trong giá thực phẩm toàn
cầu.”[4] Điều nầy cũng sẽ làm gia tăng tiềm năng bất ổn định dân sự.
Khi một đợt sóng hạn hán tàn nhẫn phá hoại mùa lúa mì ở Nga trong mùa
hè 2010, giá lúa mì và bánh mì toàn cầu đã không ngừng leo thang lên
mức đặc biệt cao ở Bắc Phi và Trung Đông. Với các chính quyền địa phương
không sẵn sàng hay không đủ phương tiện trợ giúp người dân đang tuyệt
vọng, làn sóng giận dữ vì không đủ khả năng mua thực phẩm cùng với lòng
phẫn uất đối với các chế độ chuyên quyền đã khởi động phong trào trỗi
dậy của quảng đại quần chúng, một phong trào đã được biết đến dưới danh
hiệu Mùa Xuân Á Rập.
Theo Chatham House, những bùng nổ như thế có thể xẩy ra trong tương
lai nếu những khuynh hướng hiện nay cứ tiếp tục trong khi biến đổi khí
hậu và khan hiếm tài nguyên đã giao thoa để trở thành một lực hợp nhất
toàn cầu. Chỉ cần một câu hỏi mang tính kích động từ quần chúng cũng sẽ
đủ để ám ảnh mọi người: “Phải chăng chúng ta đang ở trên đỉnh một trật
tự thế giới mới khống chế bởi các cuộc tranh đấu giành giật cách tiếp
cận các tài nguyên với mức giá có thể chịu đựng được?”
Đối với cộng đồng tình báo Hoa Kỳ, hình như đang chịu ảnh hưởng của
phúc trình, câu trả lời rất ngắn gọn. Trong tháng 3-2013, lần đầu tiên,
Giám Đốc Tình Báo Quốc Gia James R. Clapper đã liệt kê “cạnh tranh và
khan hiếm liên quan đến tài nguyên thiên nhiên” như một đe dọa đối với
an ninh quốc gia ngang hàng với khủng bố toàn cầu, chiến tranh truyền
thông và kiểm soát tự động (cyberwar), và phổ biến nguyên tử.
Clapper đã viết trong một bản tuyên bố soạn sẵn trước Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện:
“Nhiều quốc gia quan trọng đối với Hoa Kỳ dễ bị thương tổn trước các
cú sốc tài nguyên thiên nhiên đang làm suy giảm phát triển kinh tế, gây
khó khăn cho nổ lực dân chủ hóa, nâng cao nguy cơ bất ổn định đe dọa chế
độ, và làm trầm trọng thêm các căng thẳng cấp vùng. Thời tiết khắc
nghiệt (lũ lụt, hạn hán, oi bức) sẽ gây thêm xáo trộn trên các thị
trường thực phẩm và năng lượng, làm trầm trọng thêm sự suy yếu của nhà
nước, buộc phải di dân, và khởi động rối loạn, thiếu trật tự dân sự, và
phá hoại.”[5]
Chúng ta nên lưu ý một cụm từ mới trong lời bình luận của ông: “những
cú sốc tài nguyên”(resource shocks). Nó gói ghém một cái gì trong thế
giới chúng ta đang hướng tới, và ngôn ngữ đáng ngạc nhiên của cộng đồng
tình báo, không mấy khác với chính quyền cộng đồng nầy đang phụng sự,
phần lớn đang tìm cách xem thường hay tảng lờ những nguy cơ của biến
đổi khí hậu. Lần đầu tiên, các chuyên gia phân tích cao cấp của chính
quyền có thể đã lưu ý đến những gì các chuyên gia năng lượng, các nhà
phân tích tài nguyên, và các khoa học gia từ lâu đã cảnh cáo: đà tiêu
thụ không hạn chế tài nguyên thiên nhiên của thế giới phối hợp với sự
xuất hiện của hiện tượng biến đổi khí hậu có thể đưa đến một bùng nổ hỗn
độn và xung đột toàn cầu. Nói một cách khác, hiện chúng ta đang trực
tiếp bước vào một thế giới đang bị sốc về tài nguyên.
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
26-4-2013
[1] …recurrent drought, increasing demogaphic pressures, and
political marginalization are among the forces that have pushed the
region into a spiral of lawlessness and violence that has led to 300,000
deaths and the displacement of more than two million people since 2003.
[2] Against this backdrop of tight supplies and competition, issues
related to water rights, prices, and pollution are becoming
contentious. In areas with limited capacity to govern shared resources,
balance competing demands, and mobilize new investments, tensions over
water may erupt into more open confrontations.
[3] …climate change is best understood as a “threat multiplier…a key
factor exacerbating existing resource vulnerability” in states already
prone to such disorders.
[4] Increased frequency and severity of extreme weather events, such
as droughts, heat waves, and floods, will also result in much larger
and frequent local harvest shocks around the world…These shocks will
affect global food prices whenever key centers of agricultural
production area are hit — further amplifying global food price
volatility.
[5] Many countries important to the United States are vulnerable to
natural resource shocks that degrade economic development, frustrate
attempts to democratize, raise the risk of regime-threatening
instability, and aggravate regional tensions. Extreme weather events
(floods, droughts, heat waves) will increasingly disrupt food and energy
markets, exacerbating state weakness, forcing human migration, and
triggering riots, civil disobedience, and vandalism.