THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Chủ nhật, ngày 28/7/2013
TTXVN (Pretoria 26/7)
Dưới đầu đề trên, trang mạng “Geopolitical Weekly” mới
đây đăng bài phân tích cho rằng chiến lược năng lượng của Nga, tuy
không phải lúc nào cũng thành công, nhưng đã giúp nước này có được những
nguồn thu lớn ở các thời điểm khác nhau và giữ được vị thế cường quốc. Tuy nhiên, sự phát triển mau lẹ của công nghệ khai thác và vận chuyển khí đốt tự nhiên từ đá phiến, được đánh giá là đầy triền vọng, đang đặt nước Nga trước những thách thức lớn. Dưới đây là nội dung bài viết:
Triển vọng về vị thế của Nga với tư cách là nhà
cung cấp năng lượng hàng đầu thế giới và sức mạnh mà ngành năng lượng
Nga mang lại cho Kremlin đang ngày càng bị nghi vấn. Sau một thập kỷ
xuất khẩu năng lượng ráo riết, kèm theo một nguồn thu khổng lồ, nước Nga
đang cắt giảm giá khí đốt tự nhiên đối với châu Âu giữa lúc các dự báo
về doanh thu của công ty năng lượng khổng lồ Gazprom bắt đầu suy giảm từ
năm 2013.
Nga có trữ lượng khí đốt tự nhiên lớn nhất thế
giới, và cùng với Arập Xêút, họ luân phiên giữ vị thế quốc gia sản xuất
dầu mỏ lớn nhất thế giới. Nước này cung cấp tới 1/3 nhu cầu về dầu mỏ và
khí đốt của châu Âu và nay bắt đầu tăng cường, xuất khẩu sang các thị
trường Đông Á đang đói năng lượng. Đối với Mátxcơva, ngành năng lượng
của Nga không đơn thuần là một doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi
nhuận, nó là một trong các trụ cột cho sự ổn định và tăng cường sức mạnh
của nước này trong hơn một thế kỷ qua. Kremlin đã thiết kế hệ thống an
ninh năng lượng như một nhân tố có tầm quan trọng hàng đầu đối với an
ninh quốc gia, đặc biệt là kể từ khi có những thay đổi gần đây trong
khuynh hướng quốc tế và nội địa khiến người ta nghi vấn về sức mạnh tiếp
theo của ngành năng lượng nước này.
Lĩnh vực năng lượng đã trải qua nhiều thăng trầm
trong suốt quá trình lịch sử của Nga. Điều khiển các chu kỳ biến thiên
này được đặt vào trung tâm của chính sách đối nội và đối ngoại của Nga
từ thời Sa hoàng. Gánh nặng lịch sử đó giờ đây đang đè lên vai chế độ
của ông Vladimir Putin.
Sự chuyên chế của Nga và nhân tố năng lượng
Nga là một quốc gia dễ bị tổn thương do bị bao
quanh bởi các cường quốc khác và có biên giới không thuận lợi cho vấn đề
phòng thủ. Ngoài ra, Nga có lãnh thổ rộng lớn và khắc nghiệt với dân cư
đa dạng, thuộc nhóm dân tộc mà lịch sử đã chứng kiến là thường mâu
thuẫn với chính quyền trung ương ở Mátxcơva. Điều này khiến Nga phải xây
dựng nhà nước thành một cường quốc trong khu vực. Đầu tiên, Nga cần
phải củng cố xã hội của mình theo một chính quyền thống nhất. Thứ hai,
họ phải mở rộng quyền lực của mình xuyên suốt khu vực gần nhất để tạo ra
vùng đệm chống lại các cường quốc khác. (Việc thiết lập Liên bang
Xôviết là ví dụ rõ ràng nhất cho sự chuyên chế trong hành động). Cuối
cùng, họ phải tận dụng được nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình để đạt
được một sự cân bằng với các cường quốc bên ngoài.
Để làm được việc này, Nga đã sử dụng một loạt
công cụ khác nhau trong suốt lịch sử của mình nhằm đạt được ưu thế, từ
việc xuất khẩu nông sản cho tới việc chinh phục quân sự thuần tuý, thậm
chí dùng cả biện pháp đe dọa. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, Nga đã bổ sung
thêm năng lượng vào danh sách các mặt hàng trọng yếu mà họ có thể sử
dụng để đạt được các mục tiêu chiến lược của mình. Vào thập kỷ 1950,
ngành năng lượng đã trở thành một trong những trụ cột chính trong sức
mạnh kinh tế và chính trị của Liên Xô.
Các khoản thu từ xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt tự
nhiên cho thấy lĩnh vực năng lượng đã mang lại cho Kremlin quyền lực lớn
lao như thế nào trong việc củng cố vị thế của đất nước. Thu nhập từ
xuất khẩu năng lượng bắt đầu chảy vào kho bạc của Đế chế Nga từ cuối thế
kỷ, với doanh thu từ xuất khẩu dầu mỏ chiếm 7% tổng kim ngạch xuất
khẩu. Các khoản thu này đã tăng lên 14% ở cuối íhập kỷ 1920 – giai đoạn
đầu của Nhà nước Liên Xô – và tới thập kỷ 1950 đã chiếm một nửa kim
ngạch xuất khẩu của Liên Xô. Còn hiện nay, doanh thu từ năng lượng đóng
góp tới một nửa ngân sách của chính phủ. Dòng vốn này đã và đang tiếp
tục là công cụ giúp Nga xây dựng các cơ sở quân sự và công nghiệp cần
thiết nhằm duy trì vị thế của họ như là một cường quốc khu vực – nếu
không phải là cường quốc thế giới. Tuy nhiên, việc Chính phủ Nga trở nên
phụ thuộc vào nguồn thu từ năng lượng cũng khiến nước này trở nên dễ bị
tốn thương hơn.
Ngoài doanh thu từ xuất khẩu, lĩnh vực năng lượng
đã góp phần tạo ra một nhà nước công nghiệp hoá và ổn định trong nước.
Tiêu thụ năng lượng nội địa của Nga ở mức rất cao, do thời tiết giá lạnh
gần như quanh năm. Mặc dù chi phí sản xuất cao và quản lý kém hiệu quả,
nguồn dự trữ đã cho phép Mátxcơva đủ sức để cung cấp năng lượng giá rẻ
cho nhân dân và các ngành công nghiệp.
Ngành năng lượng cũng góp phần vào khả năng mở
rộng ảnh hưởng của Nga sang các nước láng giềng, Mátxcơva sử dụng năng
lượng như một đòn bẩy tại các quốc gia khác nhau trong “vùng đệm”, với
các mức độ và phạm vi khác nhau, từ việc kiểm soát hoạt động trong khu
vực (như họ đã từng tiến hành tại các mỏ dầu ở Adécbaigian và Cadắcxtan
trước đây) cho tới việc trợ cấp nguồn cung cấp năng lượng giá rẻ cho các
nước và kiểm soát hệ thống hạ tầng phục vụ vận chuyên năng lượng. Nga
cũng đã sử dụng các chiến lược tương tự để xây dựng quan hệ với các nước
ngoài khối Liên Xô trước đây. Chẳng hạn, Nga là một trong hai nhà cung
cấp năng lượng chính cho châu Âu và là nhà cung cấp duy nhât ở châu Âu
có trữ lượng dầu và khí tự nhiên lớn, với giá thấp. Quan hệ của Nga với
châu Âu và khả năng của họ trong việc đánh bại bất kỳ đối thủ cạnh tranh
nào đã trở thành nền tảng cho một loạt quan hệ của Mátxcơva với các
nước châu Âu.
Sự phát triển chiến lược năng lượng của Nga
Việc nhìn nhận tầm quan trọng của năng lượng như
là một phương tiện để đạt được ba “mệnh lệnh” chính của Nga đã thay đổi
theo thời gian, bởi Nga đã thay đổi chiến lược của mình tùy thuộc vào
những diễn biến trong nước hoặc trên trường quốc tế. Sức mạnh của
Mátxcơva nằm ở tính linh hoạt của họ trong việc quản lý hoạt động năng
lượng.
Tầm quan trọng của năng lượng Nga được thiết lập
vào cuối thế kỷ 19, khi chế độ quân chủ nhận thấy tiềm năng lớn cho Đế
chế Nga nếu họ có thể phát triển lĩnh vực này ở quy mô lớn. Tuy nhiên,
đế chế này không có cả công nghệ lẫn vốn để bắt đầu một ngành công
nghiệp năng lượng bản địa. Để tìm kiếm giải pháp, chế độ quân chủ Nga đã
nới lỏng hạn chế đối với đầu tư nước ngoài, mời các công ty châu Âu và
Mỹ phát triển các mỏ dầu ở Baku và sông Vônga. Điều này đã làm ầm lên
quan hệ giữa Đế quốc Nga và nhiều đối tác phương Tây trong một thời gian
ngắn, đặc biệt là với Anh, Pháp và Mỹ. Tất cả các bên đã sớm nhận ra
rằng cách duy nhất để làm cho ngành kinh doanh dầu mỏ Nga sinh lời trong
hoàn cảnh chi phí cao găn liền với địa lý khắc nghiệt và rộng lớn của
nước này là biển Nga thành một nhà sản xuất lớn. Đến đầu thế kỷ 20, Đế
chế Nga đã chiếm 31 % sản lượng dầu xuất khẩu toàn cầu.
Khi vai trò của năng lượng Nga tăng lên thì rõ
ràng là sự ổn định về mặt đối nội của Nga đã ảnh hưởng tới rất nhiều
lĩnh vực. Những người Bônsêvích đã sử dụng vấn đề năng lượng trong nỗ
lực nhằm lật đổ chế độ quân chủ. Các khu vực sản xuất dầu mỏ là một
trong những trung tâm chính mà những người Bônsêvích tham gia hoạt động,
vì năng lượng là một trong vài lĩnh vực đòi hỏi những người lao động có
tổ chức. Ngoài ra, những người Bônsêvích đã sử dụng mạng lưới đường sắt
phục vụ ngành khai thác dầu để rải truyền đơn ra khắp đất nước và cả
nước ngoài. Năm 1904, khi Đế quốc Nga đàn áp một cuộc nổi dậy ở St
Petersburg, người biểu tình chủ yếu là Bônsêvích đã phóng hoả các mỏ dầu
ở Baku, khiến lượng dầu xuất khẩu của Nga sụt giảm 2/3.
Chiến lược năng lượng thời hiện đại của Nga bắt
đầu hình thành sau Chiến tranh Thế giới thứ II. Với cánh tả Liên Xô còn
trụ vững như là một trong hai thế lực bá quvền toàn cầu trên một châu Âu
bị chia cắt, Mátxcơva nhận ra rằng không có rào cản nào đối với nỗ lực
tìm kiếm sự thống trị của họ trong lĩnh vực năng lượng toàn cầu. Giữa
thập kỷ 1950 và 1960, Liên Xô đã tăng gấp đôi sản lượng dầu, làm cho họ
một lần nữa trở thành nước sản xuất dầu lớn thứ hai trên thế giới và là
nhà cung cấp chính cho cả Đông lẫn Tây Âu. Doanh thu từ xuất khẩu dầu
bắt đầu tăng mạnh và đóng góp gần một nửa thu nhập từ xuất khẩu của Liên
Xô.
Do Liên Xô sản xuất được một lượng dầu thô rất
lớn và hệ thống kinh tế của Liên Xô duy trì chi phí lao động thấp nên
Nga có thể bán dầu với giá thấp gần 50% so với giá dầu của Trung Đông.
Trợ cấp dầu cho khối Xô viết và sau đó cho các nước Tây Âu đã giúp
Mátxcơva kìm hãm các chế độ ở phương Tây và tăng cường vị thế của họ tại
các khu vực thuộc tầm ảnh hưởng của họ – một chiến lược được CIA gọi là
“cuộc tấn công về kinh tế của Liên Xô”. Đối với Liên Xô, hoạt động này
không nhằm mục tiêu kiếm tiền (mặc dù họ đã kiếm tiền) mà chủ yếu để
hình thành một phạm vi ảnh hưởng và phá hoại phương Tây. Chiến lược này
đã phải trả giá, bởi Mátxcơva đã để mất thu nhập và làm cạn kiệt nguồn
tài nguyên của mình.
Ở thập kỷ 1970, giá dầu tăng vọt do một loạt cuộc
khủng hoảng, chủ yếu xảy ra tại Trung Đông. Lúc này, Liên Xô bắt đầu
cảm thấy gánh nặng do việc duy trì một nhà nước rộng lớn. Liên Xô dưới
sự lãnh đạo của ông Leonid Brezhnev đã phải đứng trước một sự lựa chọn:
sử dụng giá dầu thế giới cao làm lý do để tăng giá ở Đông Âu và tăng
nguồn thu cho kinh tế Liên Xô hoặc tiếp tục trợ cấp cho khối Đông Âu
nhằm tiếp tục trói buộc khối này và không đẩy họ đến chỗ suy tính về các
nguồn năng lượng khác. Đó là một sự lựa chọn giữa hai mệnh lệnh: đảm
bảo sự ổn định quốc gia hay duy trì vùng đệm. Cuối cùng, Mátxcơva đã
chọn cách bảo vệ lợi ích riêng của mình, và đến năm 1975 đã tăng giá dầu
đối với khách hàng truyền thống, hành động cho phép tiếp tục tăng giá
hơn nữa theo thị trường thế giới. Đến năm 1976, giá dầu trong khối Đông
Âu đã tăng gần gấp đôi, tuy vẫn thấp hơn giá thế giới nhưng mức tăng này
đã đủ cao để buộc một số quốc gia trong khối phải vay nợ Nga. Mục tiêu
của Liên Xô nhằm đạt được doanh thu cao từ xuất khẩu năng lượng tiếp tục
được duy trì cho đến giữa thập kỷ 1980, khi các khoản thu này chiếm gần
như toàn bộ mọi khoản thu bằng ngoại tệ mạnh của họ. Nhưng Liên Xô đă
bị giáng một đòn kép vào giữa thập kỷ này, khi giá dầu sụp đổ và phương
Tây áp đặt lệnh cấm vận đối với dầu mỏ của Liên Xô, khiến Arập Xêút một
mình thống trị thị trường này. Ngoài ra, Liên Xô đã tụt lại xa sau
phương Tây trong công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực năng luợng và
nông nghiệp. Để đáp lại, bắt đầu từ năm 1985, Liên Xô tiến gần hơn tới
một nền kinh tế dựa vào thị trường năng lượng, đồng thời tăng giá đối
với khối Đông Âu, đòi họ phải trả bằng ngoại tệ mạnh và cho phép các
công ty nước ngoài tái thâm nhập ngành năng lượng của mình.
Tuy nhiên, sự thay đổi chiến lược của Nga không
đủ sâu sắc và kịp thời để ngăn chặn sự sụp đổ của Liên bang Xôviết.
Trong thập kỷ sau sự sụp đổ của khối Xôviết, ngành công nghiệp năng
lượng của Nga đã trở nên lộn xộn. Tự do hóa năng lượng, được khởi sự
dưới thời Mikhail Gorbachev trong thập kỷ 1980, đã được triển khai một
cách chật vật dưới Boris Yeltsin ở thập kỷ 1990. Kết quả là sản lượng bị
giảm một nửa và ngành năng lượng Nga bị phân chia giữa các tập đoàn
nước ngoài và các nhà tài phiệt mới nổi trong nước.
Nhưng chuyện này đã thay đổi vào năm 2000, dưới
thời Vladimir Putin. Một trong những mục đầu tiên trong chương trình
nghị sự của ông Putin nhằm ổn định đất nước là củng cố lĩnh vực năng
lượng dưới sự kiểm soát của nhà nước. Điều này có nghĩa là một sự quay
ngoắt đối với các chính sách tự do được áp dụng từ hai thập kỷ trước đó.
Chính phủ Nga đã quốc hữu hóa một cách hiệu quả phần lớn ngành năng
lượng, để tập trung vào ba cỗ máy khổng lồ của Nhà nước là Gazprom,
Rosneft và Transneft. Điện Kremlin đã ráo riết đàm phán hợp đồng cung
cấp với các nước thuộc Liên Xô trước đây và châu Âu khác, buộc họ phải
mua với khối lượng lớn và mức giá cao khác thường, bởi các khách hàng
này không có lựa chọn nào khác ngoài việc mua năng lượng của Nga. Điện
Kremlin cũng bắt đầu cắt giảm nguồn cung năng lượng cho một số thị
trường nhất định – đổ lỗi cho quốc gia quá cảnh phiền hà như Ucraina –
nhằm định hình các cuộc đàm phán chính trị khác.
Mặc dù chiến lược năng lượng của Mátxcơva thời kỳ
này bị đánh giá là mang tính hung hăng nhưng nó đã giúp mang lại một
nước Nga mạnh mẽ và ổn định hơn. Nguồn thu từ xuất khẩu năng lượng của
Nga đã tăng mạnh do giá dầu và khí đốt tăng cao trên toàn cầu, giúp nước
này có thặng dư vốn để bơm vào các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế
và quân sự. Nền chính trị dựa vào năng lượng cũng giúp Nga tận dụng ảnh
hưởng ở nơi trước đây từng là sân sau của họ và buộc châu Âu phải lùi
bước trước sự “tấn công” từ một nước Nga hồi sinh.
Thách thức đối với vấn đề duy trì năng lượng Nga
Mối lo ngại hàng đầu của Nga là tính dễ bị tốn
thương của nền kinh tế nước này trước những biến động về giá năng lượng.
Đóng góp tới một nửa ngân sách quốc gia, ngành năng lượng Nga (trong đó
80% là từ dầu mỏ và 20% từ khí đốt tự nhiên) có thể khiến chính phủ lao
đao nếu giá năng lượng giảm, Điện Kremlin đã giảm dự toán ngân sách
trên cơ sở tính toán giá dầu ở mức 93 USD/thùng thay vì 119 USD/thùng,
mặc dù ngay cả ở mức giá đó, chính phủ được nhìn nhận là đang tham gia
một trò chơi may rủi.
Doanh thu từ xuất khẩu khí đốt tự nhiên cũng đang
bị nghi vấn. Với nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên thay thế đang mời chào
đối tượng tiêu dùng lớn nhất của Nga – châu Âu – điện Kremlin buộc phải
giảm giá trong những tháng gần đây. Năm nay, thu nhập của Gazprom từ
châu Âu dự kiến sẽ sụt giảm 4,7 tỷ USD – khoảng 10% doanh thu do việc
giảm giá nói trên.
Ngành năng lượng Nga đang căng thẳng. Việc củng
cố ngành này chủ yếu diễn ra với hai công ty nhà nước lớn mang lại nhiều
lợi ích cho điện Kremlin, nhưng sau một thập kỷ củng cố, khó khăn vẫn
còn chồng chất, ít phải chịu cạnh tranh, tập đoàn khí đốt tự nhiên khổng
lồ của Nga, Gazprom, đang bị tụt hậu trong công nghệ và bị coi là không
thân thiện trong các hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, tập
đoàn khai thác dầu mỏ khổng lồ Rosneft gần đây cùng đã trở nên độc quyền
hơn, và cũng như Gazprom, nó có thể bị rơi vào một cái bẫy tương tự.
Với các dự án năng lượng tại Nga đòi hỏi các công nghệ tiên tiến hơn (do
vị trí và môi trường của chúng) và nhiều vốn hơn trong tương lai, cả
Gazprom và Rosneft sẽ cần phải được hiện đại hóa và thu hút đầu tư nước
ngoài.
Tham nhũng cũng là một vấn đề quan trọng. Theo
một số ước tính, có khoảng 20 – 40 % doanh thu của Gazprom bị thất thoát
do tham nhũng hoặc do quản lý kém hiệu quả. Rosneft cũng gặp phải vấn
đề tương tự. Sự thất thoát này sẽ có thể còn tồn tại với doanh thu năng
lượng cao của Mátxcơva trước đây, nhưng nó sẽ không thể tồn tại trong
tương lai nếu giá năng lượng sụt giảm hoặc việc duy trì và mở rộng các
lĩnh vực năng lượng trở nên tốn kém hơn. Kremlin đang điều tra Gazprom.
Tuy nhiên, với tình trạng tham nhũng tràn lan trong suốt quá trình lịch
sử, Kremlin sẽ khó có thể loại bỏ những hành vi sai phạm tại tập đoàn
khí đốt tự nhiên này.
Ngoài ra, sự phụ thuộc của châu Âu vào nguồn năng
lượng của Nga đang giảm dần. Tình trạng thiếu hụt khí đốt tự nhiên diễn
ra trên khắp châu Âu trong các cuộc khủng hoảng Nga – Ucraina vào năm
2006 và 2009 là một lời nhắc nhở buồn bã về khả năng các quốc gia châu
Âu dễ bị tổn thương như thế nào do phải lệ thuộc vào nguồn khí đốt của
Nga. Các nước châu Âu đã bắt đầu phát triển các chiến lược cho phép họ
giảm thiểu không chỉ khả năng dễ bị tổn thương do các tranh chấp giữa
Nga và các quốc gia quá cảnh trung gian mà cả sự lệ thuộc nói chung của
họ vào nguồn cung năng lượng từ Nga.
Sự phát triển mau lẹ của các phương tiện nhập
khẩu khí tự nhiên hóa lỏng tiên tiến là một trong những nỗ lực như vậy.
Điều này sẽ tạo cho một số quốc gia – đặc biệt là Lítva và Ba Lan – khả
năng nhập khẩu khí đốt tự nhiên từ các nhà cung cấp trên toàn thế giới
mà không cần phải thông qua Nga như trước đây. Điều này đặc biệt có ý
nghĩa trong bối cảnh công nghệ khai thác khí đốt tự nhiên phi truyền
thống phát triển mạnh mẽ, với trữ lượng khổng lồ từ đá phiến được phát
hiện tại Mỹ. Việc phát triển một dự án đường ống dẫn giúp vận chuyển khí
đốt tự nhiên từ các khu vực ngoài nước Nga tới thị trường châu Âu là
một nỗ lực khác – mặc dù cho đến nay vẫn chưa thực sự thành công – để
giảm sự phụ thuộc của châu Âu vào khí đốt tự nhiên của Nga.
Ngoài ra, một loạt các chính sách trên toàn EU,
trong đó có “Gói năng lượng thứ ba”, đã bắt đầu mang lại cho các quốc
gia thành viên EU các công cụ chính trị và pháp lý để giảm thiểu sự
thống trị của Gazprom trong chuỗi hệ thống cung ứng khí đốt tự nhiên của
riêng họ. Khuôn khổ chung này cũng cho phép các quốc gia châu Âu thể
hiện một mặt trận thống nhất hơn trong việc thách thức các hoạt động
kinh doanh nào đó mà họ cho là mang tính độc quyền, với ví dụ mới nhất
là việc ủy ban châu Âu điều tra chiến lược giá của Gazprom ở Trung Âu.
Điều này, cùng với những nỗ lực được EU tài trợ nhằm kết nối mạng lưới
vận chuyển khí đốt tự nhiên của các nước thành viên EU ở Trung Âu, đã
làm cho Nga ngày càng gặp khó khăn trong việc sử dụng giá khí đốt tự
nhiên như một công cụ của chính sách đối ngoại. Đây là một sự thay đổi
lớn trong cách mà Mátxcơva đã xử sự với khu vực này trong suốt một thập
kỷ qua, khi họ giảm giá khí đốt cho những nước có quan hệ gần gũi (như
với Bêlarút) và nâng giá đối với những nước không không có quan hệ như
vậy (vùng Baltic). Cuối cùng, Nga phải đối mặt với một khả năng giản đơn
nhưng nghiêm trọng là cuộc khủng hoảng tài chính và chính trị ở châu Âu
sẽ tiếp tục làm suy giảm tiêu thụ năng lượng của lục địa này, hoặc ít
nhất là cản trở bất kỳ sự tăng trưởng nào về mặt tiêu thụ trong thập kỷ
tới.
Động thái tiếp theo của Nga
Chính quyền Putin đang nhận thức rõ những thách
thức đối với lĩnh vực năng lượng của Nga. Nỗ lực của Nga trong thập kỷ
qua nhằm chuyển dịch khỏi sự phụ thuộc vào xuất khẩu năng lượng bằng
cách tập trung phát triển công nghiệp đã không đặc biệt thành công và
nước này vẫn phải tiếp tục gắn bó với số phận của ngành năng lượng.
Chiến lược của Nga trong việc sử dụng con bài xuất khẩu năng lượng vừa
làm công cụ cho chính sách đối ngoại, vừa làm cỗ máy in tiền đã tỏ ra
mâu thuẫn. Để sử dụng năng lượng trong chính sách đối ngoại, Mátxcơva
phải có khả năng giảm hoặc tăng giá, đồng thời đe dọa cắt nguồn cung,
một điều tối kỵ nếu xét từ góc độ kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Tình thế toàn cầu và khu vực đã thay đổi tới mức
Mátxcơva phải ưu tiên một trong hai cách sử dụng ngành công nghiệp năng
lượng của họ, và họ đã quyết định chọn cách duy trì khả năng tạo doanh
thu. Điện Kremlin đã bắt đầu xây dựng một loạt chính sách nhằm ứng phó
với những thay đổi dự kiến sẽ diễn ra trong hai thập kỷ tới. Trước tiên,
Nga đang cố gắng giải quyết sự mong manh được đánh giá là rất nguy hiểm
xung quanh quan hệ của họ với các quốc gia quá cảnh quan trọng mà theo
truyền thống được phép xuất khẩu năng lượng sang châu Âu. Việc xây dựng
các thiết bị đầu cuối cho luồng dầu Ust- Luga trên Biển Baltic cho phép
Nga bỏ qua phần lớn hệ thống đường ống của Bêlarút và vận chuyển dầu thô
và các sản phẩm từ dầu thô trực tiếp tới người tiêu dùng. Tương tự như
vậy, việc xây dựng đường ống dẫn khí tự nhiên mang tên Dòng chảy phương
Bắc dưới biển Bantic – và cuối cùng là Dòng chảy phương Nam, thông qua
Biển Đen, sẽ cho phép dòng khí đốt của Nga không cần đi qua các hệ thống
quá cảnh của Ucraina và Bêlarút, nếu cần thiết. Hai đường ống này sẽ
đảm bảo giao khí đốt tự nhiên cho các thị trường tiêu dùng rộng lớn ở
châu Âu, như Đức và Italia, mà Nga tìm cách duy trì quan hệ đối tác
chiến lược lâu dài. Bằng cách cho phép Nga đảm bảo giao hàng cho các
khách hàng chính ở châu Âu, các hệ thống theo đường vòng nói trên sẽ bảo
đảm nguồn thu quan trọng của Mátxcơva. Chiến lược xuất khẩu năng lượng
một cách linh hoạt trong tương lai này cũng sẽ làm giảm dần đòn bẩy mà
Minsk và Kiev có thể tận dụng để tránh bị Mátxcơva ép buộc làm các quốc
gia chư hầu trong vùng đệm của họ – một trong vài mục tiêu của chính
sách đối ngoại mà Mátxcơva vẫn còn có ý định theo đuổi thông qua chiến
lược năng lượng.
Hơn nữa, Mátxcơva đã điều chỉnh chiến lược năng
lượng của mình với khách hàng châu Âu giữa lúc diễn ra những nỗ lực tự
do hoá và đa dạng hoá. Gazprom đã bắt đầu mở rộng chính sách giảm giá
khí đốt tự nhiên trước đây chỉ dành cho các đối tác chiến lược như Đức
hoặc Italia. Điện Kremlin hiểu rằng hy vọng duy nhất của họ về việc duy
trì doanh thu từ xuất khẩu khí đốt tự nhiên giữa lúc phải đối mặt với
một sự bùng nổ toàn cầu về khí đá phiến là giữ chân khách hàng bằng giá
cả cạnh tranh và hợp đồng dài hạn. Mátxcơva sẽ tiếp tục cho thấy rằng họ
có thể cung cấp cho người tiêu dùng châu Âu với khối lượng lớn và chi
phí giao hàng thấp.
Cuối cùng, Nga đang tập trung sự chú ý đáng kể
vào việc phát triển kết nối với thị trường năng lượng châu Á đang có nhu
cầu ngày một gia tăng. Một trong những khía cạnh chung đối với tất cả
các chiến lược mà Nga xây dựng để theo đuổi trong thập kỷ tới là nguồn
vốn lớn cần có để hoàn thành chúng – riêng đường ống dẫn dầu Đông
Siberia-Thái Bình Dương đã đòi hỏi phải đầu tư gần 15 tỷ USD. Mặc dù bị
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2009, Nga vẫn còn có nguồn
vốn dự trữ lớn dành cho các dự án quy mô lớn, nhưng các quỹ này không
phải là vô hạn.
Krémlin có vẻ như đã nhận thức một cách sâu sắc
về những thách thức mà nước Nga sẽ phải đối mặt trong hai thập kỷ tới,
khi một chu kỳ năng lượng tiến tới điểm kết thúc. Không giống như
Brezhnev và Gorbachev, ông Putin đã chứng minh đừợc khả năng ban hành
các chính sách một cách hiệu quả và khả năng thay đổi chiến lược trong
lĩnh vực năng lượng của Nga. Trong khi sự phụ thuộc của Nga vào giá dầu
cao tiếp tục làm Mátxcơva lo lắng, thì ông Putin đến nay đã xoay xở để
chủ động ứng phó với những thay đổi trong sản xuất và tiêu thụ năng
lượng từ bên bên ngoài, đặc biệt là những đối tác có thể tác động đến
thị trường khí đốt tự nhiên châu Âu. Tuy nhiên, tính bền vững lâu dài
của mô hình mà Nga đang hướng tới vẫn còn bị nghi ngờ.