Từ khai sinh đến tàn lụi, chủ nghĩa đế quốc đã diễn ra trong cùng một
thế kỷ. Thực vậy, thế kỷ XX đã bắt đầu với sự bành trướng của chủ nghĩa
thực dân với các cường quốc Tây Phương cưỡng chiếm và bóc lột phần còn
lại của thế giới, mãi cho đến khi một quốc gia Á Châu, Nhật Bản, cũng
tham gia vào hàng ngũ đế quốc. Trong thập kỷ cuối của thế kỷ, mẫu mực đã
lặp lại: các lực lượng tư bản tự do một lần nữa vẫn giữ vai trò khống
chế , chỉ khác là lần nầy Trung Quốc hình như cũng đang theo gót các
cường quốc thực dân Tây Phương.
THẾ GIỚI PHƯƠNG NAM
Phương cách các sử gia viết về kỷ nguyên hiện đại theo góc cạnh “đế
quốc chủ nghĩa”, “chống đế quốc”, và sự “trỗi dậy của Á Châu” đã đưa
đến sự bùng dậy của trào lưu giải thực (decolonization) sau Đệ Nhị Thế
Chiến như tiết mục chuyển tiếp trong kỷ nguyên đế quốc triền miên.
Thói quen xem các cường quốc Tây Phương luôn ngự trị các dân tộc kém
may mắn tiếp tục chi phối cách nhìn và nhận thức về quan hệ giữa hai
Thế giới “Phương Bắc,” giàu có và kỹ nghệ hóa cao độ, và “Phương Nam,”
nghèo nàn và đang phát triển, ngay cả sau ngày chủ nghĩa đế quốc chính
thức đã chấm dứt trong thập kỷ 1960.
Rõ ràng lối nhìn nầy đã không lưu ý đến các thay đổi cấu trúc quan
trọng trong lịch sử các thập kỷ hậu chiến, khi Hoa Kỳ đã tái quan niệm
vai trò của mình trên thế giới và các quốc gia mới không còn hậu thuẩn
Hoa Kỳ trong cùng những điều kiện như trước. Nếu không nắm vững bối cảnh
mới của các lực lượng định hình trật tự thế giới, chúng ta sẽ tiếp tục
ngộ nhận các phương cách đem lại thay đổi bối cảnh địa-kinh tế-chính trị
toàn cầu.
Thực vậy, những nổ lực được biết đến nhiều nhất trong thế kỷ XX nhằm
xây dựng một trật tự thế giới công bằng hơn, ngay cả không cần đến sự hổ
trợ của Tây Phương, cũng sẽ chẳng giúp ích được gì nhiều khi vẫn còn
chìm đắm trong nỗi luyến tiếc quá khứ.
Năm 1955, một số lãnh đạo Á Phi đã họp mặt ở Bandung phía Tây Java
với mục đích tăng cường hợp tác kinh tế và văn hóa. Mặc dù các quốc gia
tham dự có thể hậu thuẩn cho Hoa Kỳ hay Liên Bang Nga, các lãnh đạo
của các quốc gia nầy cũng đã chứng tỏ lập trường bác bỏ các khuynh hướng
phân cực thời Chiến Tranh Lạnh, và tìm cách chấm dứt chủ nghĩa thực dân
và phân biệt chủng tộc. Họ đã tuyên bố họ có quyền có tiếng nói trong
Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc và quyền theo đuổi đường lối bảo vệ tập
thể.
Nhưng ở Bandung, thế giới cũng đã chứng kiến một nghị trình khác
ít được biết đến và ít tốt đẹp hơn. Các chính khách tên tuổi chống chống
chủ nghĩa thực dân, như Jawaharlal Nehru, Achmed Sukarno, Chu Ân Lai,
và Gamal Abdel Nasser, cũng đã có chủ trương bành trướng lãnh thổ bên
trong và chung quanh các quốc gia thành viên đang canh tân nhanh chóng.
Chẳng hạn, Nehru đã cương quyết đồng hóa các dân tộc cao nguyên Đông
Nam Á vào Ấn Độ; Nasser đã tìm cách bành trướng ảnh hưởng của Ai Cập
đến Syria và Yemen; Chu Ân Lai muốn tất cả các quốc gia trong nhóm phải
chấp nhận Tây Tạng, chinh phục bởi Trung Quốc sáu năm trước Bandung,
thuộc lãnh thổ Trung Quốc; và tất cả đã nhất trí West Papua thuộc
Sukarno, người sau đó đã tuyên bố “Indonesia Nới Rộng có thể nuốt sống
Malaysia.”[1]
Tuy vậy, các thiết kế nội bộ của thế giới thứ ba chẳng bao lâu đã sụp
đổ. Chưa đến một thập kỷ sau Bandung, Trung Quốc đã đụng độ với Ấn Độ
trong vùng Hy Mã Lạp Sơn, trong khi Nasser đã xung đột với Algeria và
Ghana.
TOÀN CẦU HÓA KIỂU ANH QUỐC-HOA KỲ
Ngày nay nhìn lại, Bandung không phải là nơi đã khai sinh ra Phong
Trào Phi Liên Kết — được thành lập sáu năm sau đó ở Belgrade — mà chỉ
là thời điểm, theo luận cứ của nhà nhân chủng học John Kelly, thế giới
thứ ba đã gia tăng tốc độ quá trình hội nhập vào hệ thống toàn cầu do
Hoa Kỳ thiết kế, trên cơ sở các nhà-nước-quốc-gia đã được củng cố.
Những gì còn lại từ các lý tưởng công khai của Phong Trào Phi Liên Kết ngày nay đã tơi tả .
Trong năm vừa qua, Tổng Thống Ai Cập Mohamed Morsi đã gây bối rối cho
Iran khi dùng bài nói chuyện tại Hội Nghị Phong Trào Phi Liên Kết ở
Tehran để nêu rõ tình trạng cô lập ngày một gia tăng của Syria. Trong
tháng 3, 2013, Mahmoud Ahmadinejad đã làm phật lòng hàng giáo phẩm Iran
khi hôn thân mẫu của Hugo Chavez đang để tang cho con trai trước công
chúng, tuồng như cần phải nhấn mạnh Venezuela và Iran không là những đối
tác tốt.
TOÀN CẦU HÓA KIỂU UNCTAD
Như một thay thế cho toàn cầu hóa dưới sự bảo trợ của Anh Quốc và Hoa Kỳ, còn có một địa điểm ít huyền bí hơn Bandung.
Năm 1964, Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã thiết lập Hội Nghị Mậu Dịch
và Phát Triển (UNCTAD), quyết tâm tái duyệt Thỏa Ước Bretton Woods qua
các các kênh chính thức của Liên Hợp Quốc. Do kinh tế gia Argentina,
Raul Prebisch cầm đầu và bao gồm nhiều thành viên của Phong Trào Phi
Liên Kết, UNCTAD đã tìm cách tái thương thảo các món nợ, thay đổi các
chính sách phát triển, đòi lại chủ quyền đối với các tài nguyên thiên
nhiên, và giảm thiểu các rào cản nhập khẩu hàng hóa của thế giới thứ ba
vào các thị trường Tây Phương.
Năm 1973, tổ chức cũng đã loan báo các kế hoạch về một “Trật Tự Kinh
Tế Thế Giới Mới,” chọn lập trường chống đối chủ nghĩa bảo vệ mậu dịch
của các quốc gia kỹ nghệ hóa tiên tiến và các biện pháp kiệm ước do Quỹ
Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) áp đặt lên các quốc gia con nợ.
Theo lời của Tổng Thống Tanzania, Julius Nyerere, UNCTAD muốn trở
thành một nghiệp đoàn các xứ nghèo — một nghiệp đoàn đã hiểu rõ: muốn
thương thảo thành công với các xứ Tây Phương, các nước nghèo cần phải
mặc cả trên lập trường tập thể.
CÁC BIẾN CHUYỂN TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
Trật Tự Kinh Tế Thế Giới hiện hữu đã không thể tồn tại lâu dài.
Hoa Kỳ và Tây Đức đã tranh đua tìm mọi cách phá vỡ liên minh giữa
các thành viên OPEC trong khi các quốc gia nghèo đang muốn cấu tạo các
liên minh tương tự đối với các nguyên liệu khác.
Các cuộc khủng hoảng dầu lửa trong thập kỷ 1970 cuối cùng cũng đã làm
thế công việc nầy cho hai xứ liên hệ. Vào lúc chính quyền Reagan tuyên
chiến với nạn lạm phát quốc nội vào đầu thập kỷ 1980, các quốc gia con
nợ, những xứ đã phải trả giá rất cao cho dầu thô, cũng đã ngạt thở bởi
các phí tổn vay mượn quá cao.
Trong lúc đó, các xứ thành viên OPEC, thay vì chuyển dịch một phần
thặng dư từ mậu dịch quốc tế đầu tư vào các xứ nghèo hay tăng cường các
ngân hàng Hồi Giáo, đã chuyển số thu nhập thặng dư nầy qua New York và
Luân Đôn, trong thực tế, không mấy khác đã trao chìa khóa kinh tế toàn
cầu cho Hoa Kỳ và các cường quốc Tây Phương.
GIULIANO GARAVINI
Trong cuốn After Empires (Sau các Đế Quốc) về lịch sử của UNCTAD,
Giuliano Garavini, nhà sử học thuộc Đại Học Padua, đã giúp phục hồi cơ
hội bằng vàng trong nỗ lực xấu số nầy của thế giới thứ ba nhằm tái điều
chỉnh mạng lưới mậu dịch quốc tế.
Trong thập kỷ 1970, các quan chức Âu châu, tin tưởng ở những bước sơ
khởi hướng tới hội nhập kinh tế, đã bắt đầu nhìn về Thế Giới Phương Nam
như “đối tác tối huệ quốc” (most favored [trading] partner) trong mục
tiêu tái định hướng kinh tế toàn cầu theo chiều hướng mới, trái với ước
muốn của Anh Quốc và Hoa Kỳ.
Hai nhân vật thuộc khuynh hướng xã hội Hòa Lan — Sicco Mansholt, chủ
tịch Ủy Hội Âu Châu (European Commission), và Jan Tinbergen, kinh tế
gia với giải Nobel — đã dẫn đầu công trình định hình bản sắc chính trị
của Liên Hiệp Âu châu nhằm cải thiện số phận của các xứ lân bang Phương
Nam. Chương trình của họ đã bị cuộc khủng hoảng dầu lửa bóp ngạt, nhưng
lịch sử khảo sát bởi Garavini cho thấy người Âu đã quyết tâm tôn trọng
quyền lợi của thế giới Phương Nam — đến độ đã xem xét các kế hoạch cực
đoan quốc hữu hóa kỹ nghệ Tây Phương và tái phân tài chánh toàn cầu.
Nixon và Kissinger có thể đã lo ngại , nhưng đại đa số kinh tế gia
Hoa Kỳ đã xem Trật Tự Kinh Tế Thế Giới Mới không như một đe dọa đối với
cơ cấu căn bản của trật tự thế giới tự do. Ngược lại, họ tin tưởng trật
tự mới đã báo hiệu thế giới thứ ba đã sẵn sàng chấp nhận các lợi điểm
của mậu dịch đa phương và đầu tư ngoại quốc, cũng như đã gạt qua một bên
các giấc mơ cách mạng thế giới.
Khi lãnh tụ thuộc khuynh hướng xã hội, Nyerere, kêu gọi thế giới thứ
ba triển khai các công ty đa quốc gia và bảo hiểm của chính mình, các
nhà kinh tế học đã tươi cười chấp thuận.
Ngoài ra còn có hiện tượng cản trở bất cứ nỗ lực tái duyệt trật tự
thế giới nào khác: sự thúc đẩy tự do hóa kinh tế đã bắt đầu từ đầu thập
kỷ 1970, trước hết ở Chí Lợi dưới thời Pinochet, được tiếp tục bởi các
chương trình Infitah của Anwar el-Sadat và Hafez al-Assad ở Ai Cập và
Syria.
Vào cuối thập kỷ 1970, Trung Quốc dưới thời Đặng Tiểu Bình, và
Pakistan dưới thời Mahamad Zia ul-Haq, cũng đã thực nghiệm với các
chương trình đầu tư ngoại quốc — không nhất thiết là một động lực thúc
đẩy các lãnh đạo Tây Phương thương thảo với những phần tử không khoan
nhượng vây quanh Houari Boumediene và El Fefe của Algeria.
Như Vijay Prashad đã chứng tỏ trong tác phẩm “Các Quốc Gia Nghèo Hơn”
(The Poorer Nations), liên quan đến những địa hạt tương tự những bài
bút chiến của Garavini, điểm ngoặt thực sự đã đến khi các kinh tế gia
được huấn luyện ở Tây Phương trong Thế Giới Phương Nam đã bắt đầu kêu
gọi kiệm ước trong chương trình “tăng trưởng với công bằng,” “growth
with equity” của Nyerere. Ngay trong các nhóm chủ trương một Trật Tự
Kinh Tế Thế Giới Mới, người ta còn thấy sự hiện diện của các kỷ thuật
gia thế giới thứ ba sẵn sàng soạn thảo các chương trình điều chỉnh cơ
cấu của riêng họ.
PANKAJ MISHRA
Pankaj Mishra là nhà văn đã tạo dựng được sự nghiệp khi tường trình
từ đường phân ranh Thế Giới Phương Bắc và Thế Giới Phương Nam. Sinh năm
1969 trong một gia đình Bà La Môn trong thành phố Jhansi thuộc bang
Uttar Pradesh, nơi thân phụ của ông đã làm việc như một đoàn viên nghiệp
đoàn Hỏa Xa Ấn Độ, tác giả đã trưởng thành ngay trước khi Ấn Độ lao vào
cuộc tranh đua kinh tế toàn cầu. Suốt trong những năm trẻ thơ, Mishra
đã luôn đọc các tạp chí Xô Viết, nâng niu chân dung của Lenin, và sùng
bái Brezhnev.
Biểu lộ trí thức của Mishra, như được kể lại nhiều lần trong các tác
phẩm của ông, đã xoay quanh một cơ hội bất ngờ được làm quen với các tác
phẩm của Edmund Wilson trong một thư viện ở Varanasi — một cơ hội không
thể cưởng đối với một biên tập viên từ Manhattan.
Ở Wilson, Mishra đã tìm thấy không những một lòng tin vào sự phán
đoán, mà cả một nhà văn muốn xem xét lại một cách nghiêm minh các đam mê
ý thức hệ thời trẻ của chính mình. Năm 1993, một nhà xuất bản Ấn Độ đã
yêu cầu Mishra viết một chuyện phim (a travelogue) về các thị trấn cỡ
trung của Ấn. Kết quả là tác phẩm được nhiều giải thưởng “Butter
Chicken in Ludhiana”, trong đó tác giả đã đối mặt với các kỳ vọng và
giấc mơ cùng với giới trung lưu đang trỗi dậy nhanh chóng ở Ấn Độ. Đó là
thế giới của các nhà vệ sinh tự động, các xe buýt chen chúc, các sinh
viên cực đoan, các tiểu thuyết đa tình ủy mị…Một Mishra đáng thương khó
tìm được một ai để thảo luận Thomas Mann với mình. Nhưng nhà văn chưa
mấy tự tin trước mặt chúng ta vẫn đã là một nhà văn đầy cá tính.
Giữa lòng xáo trộn kinh tế và tôn giáo của Ấn Độ trong thập kỷ 1990,
Mishra bắt đầu đặt câu hỏi luôn ám ảnh chính ông: Bằng cách nào một dân
tộc trong quá trình canh tân theo hướng thực nghiệm những gì tốt nhất
của phương Tây mà không để mất gốc văn hóa?
Mishra đã thấu hiểu những khía cạnh tiêu cực đen tối dưới bề ngoài
hào nhoáng của một Ấn Độ canh tân: tầng lớp sang giàu (elite) của Ấn Độ
đã lẫn tránh cộng đồng xã hội dân sự đến sống trong những khu nhà tách
biệt bên sau các cửa ra vào có người canh giữ an ninh; phong trào
Naxalite trong 40 năm qua chống đối chính sách của chính quyền; dân quê
trôi dạt đổ xô vào các thành phố đang bị các đảng phái quốc gia Ấn Độ
Giáo bóc lột và khai thác; các mưu đồ tham nhũng hình như đã biến các
khu nhà ổ chuột thành một đặc trưng thường trực của cảnh quang thành
phố…
Với công luận chờ đợi Ấn Độ như một đại cường toàn cầu đang lên, tất
cả những gì đã biểu lộ trong tư tưởng chính trị, một địa hạt, kể từ ngày
độc lập, hình như chỉ phơi bày một thất bại trí thức. Và Gandhi đã
phải lên tiếng kêu gọi Ấn Độ phải trở thành một “chuẩn mực tâm linh cho
thế giới” — “a spiritual example to the world”.
Cuốn “From the Ruins of Empire” là kết quả cuả công trình điều tra
của Mishra về sự thất bại đó, một thất bại ông xem như không chỉ hạn chế
cho riêng Ấn Độ mà còn cho cả toàn bộ Á Châu từ những thời kỳ lịch sử
xa xưa. Tác phẩm của Mishra đã không rà soát lại khả năng một tái duyệt
hậu chiến nào của hệ thống trật tự thế giới của Tây phương, nhưng thay
vào đó, đã tìm hiểu cặn kẽ lịch sử các thập kỷ cuối của thế kỷ 19. Đây
là kỷ nguyên của các đế quốc chính thức, khi lần đầu tiên, các bậc trí
thức Á châu đã phải đối đầu với làn sóng canh tân cuồng nhiệt, trước khi
được chuẩn bị với bất cứ hình thức đề kháng chuẩn mực nào.
Một gián đoạn đầy kịch tính là cuộc chiến Nga-Nhật năm 1905 — “World
War Zero” — khi lần đầu tiên, một cường quốc Á Châu đã đánh bại một
cường quốc Tây phương và hình như đã đánh dấu một làn sóng đảo ngược.
Như Mishra nhấn mạnh, đây là thời khắc một chiến thắng toàn cầu của một
xứ không phải Tây phương. Các bậc phụ huynh ở Ấn Độ đã đặt tên con theo
các đề đốc hải quân Nhật; các nhà cách mạng Trung Quốc đã đến Tokyo để
tổ chức; sau sự thất bại của Nga, nhà cách mạng Trung Quốc Tôn Dật Tiên
đã được các phu bến tàu Á Rập tại Kênh Đào Suez đón mừng vì tưởng lầm họ
Tôn là người Nhật…
Vào thời kỳ lịch sử sôi động nầy, các ý thức hệ chính trị quan trọng
của thế kỷ XX còn cần được đúc kết. Các tư tưởng cực đoan đã được phổ
biến xuyên Á còn cần được tinh lọc để thực nghiệm. Theo nhận định của
Mishra, vào thời điểm đó, những ai chống đối Tây Phương đã có đến ba lập
trường chính để lựa chọn: Vồ vập các phương pháp canh tân của Tây
Phương như con đường Nhật Bản đã đi theo; hoàn toàn gạt bỏ như sự lựa
chọn của Muhammad Ahmad, “The Mahdi,” người đã tìm cách vãn hồi một quốc
gia Hồi Giáo ở Sudan; hay nhiều nổ lực khác nhau nhằm tổng hợp các
truyền thống Á châu và Tây Phương trong quang phổ các nhà tư tưởng Á
Châu.
Chính khuynh hướng thứ ba, thái độ tổng hợp, đã được Mishra quan tâm
hơn cả. Tác phẩm của ông là một toàn tập của ba trí thức Á Châu, mỗi vị
đã từng trải nghiệm một Tây Phương canh tân và tự xem như một nhà cải
cách chính trị.
(1) Jamal al-Din al-Afghani là nhân vật thứ nhất, chào đời trong một
làng Ba Tư năm 1838 và mất ở Istanbul năm 1897. Al-Afghani đã lập luận,
trong khi người Hồi Giáo có thể phải chấp nhận khoa học Tây Phương,
điều nầy không có nghĩa họ cần phải chấp nhận trọn gói mọi thứ khác.
Al-Afghani là một trong số các nhà tư tưởng Trung Đông đầu tiên công
nhận quyền lực tiềm năng của người Hồi giáo như lực lượng chính trị quốc
tế chống Tây Phương.
Qua nổ lực nối kết không mỏi mệt các lãnh đạo Hồi Giáo trong các xứ
Ottoman, al-Afghani đã trở thành người bị các quan chức Whitehall, Anh
Quốc, lên án liên kết với các phong trào dấy loạn trong đế quốc
Ottoman. Tuy vậy, al-Afghani ít ra cũng đã buộc các sử gia tương lai
phải dành thì giờ để tranh luận với giới trí thức Tây Phương.
Năm 1883, theo Mishra, trong một cuộc tranh luận đầu tiên giữa một
nhà tư tưởng Hồi Giáo và một nhà tư tưởng Âu châu, al-Afghani đã đấu trí
với Ernest Renan. Trong bài trả lời bài viết của Renan kết án người
Hồi Giáo là chướng ngại vật đối với khoa học và tiến bộ, al-Afghani đã
đả phá các thành kiến của Renan. Tuy nhiên, cuộc tranh luận đã không đem
lại một chiến thắng hoàn toàn như Mishra nghĩ. Tam đoạn luận của
al-Afghani hầu như quá đơn giản: nếu khoa học hiện đại là sản phẩm của
xã hội Cơ Đốc Giáo, và Hồi Giáo đã được sáng lập như một tôn giáo sau Cơ
Đốc Giáo, như vậy, khoa học hiện đại phải chăng cũng đã có thể phát
xuất từ Hồi Giáo?
Tuy nhiên, chính thân phận của al-Afghani như một trí thức tích cực
và khẩn trương đã biến ông thành một người đầy sức quyến rũ, mặc dù khó
hiểu. Al-Afghani đã tìm cách thuyết phục cấp lãnh đạo Hồi Giáo về tính
cần thiết của một chương trình canh tân cùng lúc mang tính bảo vệ và
thích nghi giữa chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa liên-Hồi Giáo, và giải
thích luật Hồi Giáo Sharia theo nhu cầu của Trung Đông hiện đại.
Al-Afghani kêu gọi nguyên tắc kinh thánh ijtihad — chủ trương lập luận
ngoại suy có thể áp dụng vào luật pháp khi hoàn cảnh mới xuất hiện —
trong nổ lực thuyết phục hàng giáo phẩm đã đến lúc phải thích ứng với
hiện đại.
Al-Afghani hầu như chắc chắn là một phần tử thần học cơ hội chủ nghĩa
— một tín đồ Hồi Giáo phái Shiite trở thành Sunni — một thực tế đã làm
dịu bớt tính oái oăm: ngày nay al-Afghani đã là gương mặt được sủng ái
trong hàng ngũ tín đồ Hồi Giáo. Mishra cho biết al-Afghani là một cảm
hứng đối với các bậc trí thức Iran, những người vận động lật đổ quốc
vương Shah trong các tiệm cà phê ở Paris trong thập kỷ 1960. Năm 2002,
đại sứ Hoa Kỳ ở Afghanistan đã hứa tặng 25.000 mỹ kim để trùng tu ngôi
mộ của al-Afghani bên ngoài thủ đô Kabul — rõ ràng có ấn tượng
al-Afghani là một phần tử Hồi Giáo có khuynh hướng tự do hữu ích.
(2) Một hình bóng thứ hai của Mishra được nhiều người biết đến, Liang
Qichao, một trí thức Trung Quốc chống chủ nghĩa thực dân, thuộc thế hệ
sau al-Afghani. Nhưng Qichao là hình bóng song hành với Mishra về chí
hướng cũng như về bức xúc.
Cũng như al-Afghani, Liang là người gần gũi các lãnh đạo khắp nơi,
luôn sinh hoạt với lòng tin nếu kiên trì “thuyết pháp”, bất cứ ai lên
lãnh đạo Trung Quốc rồi cũng phải lắng nghe ý kiến của mình. Trước hết
là nữ hoàng “empress dowager,” người Liang đã đã không thành công
thuyết phục giải tán đế quốc Mãn Châu để theo đuổi một nhà nước hiện
đại.
Mishra đã đem lại cho Liang Qichao một hình ảnh tốt hơn trong hàng
ngũ các nhà cải cách Trung Quốc như Kang Youwei. Cũng như al-Afghani,
Liang muốn tân trang các tác phẩm cổ điển như tứ thư ngũ kinh cho phù
hợp với nhu cầu hiện đại. Liang đã quy nguyên các ý tưởng phi-Khổng-Tử
nhất có thể tưởng tượng được cho chính nhà hiền triết, như giáo dục đại
chúng, giải phóng phụ nữ, và bầu cử phổ thông… Tuy nhiên, Liang hình
như cứ vài ba năm lại thay đổi tư duy về mọi thứ, và cuối cùng đã lựa
chọn chế độ chuyên quyền sáng suốt (enlightened despotism) như con đường
tốt nhất để tiến tới đối với Trung Quốc.
Quả thực là một điều quyến rũ khi biết Liang đã đem lại cảm hứng cho
Mao Trạch Đông lúc còn trẻ, người, theo Mishra, đã trỗi dậy như một nhà
thực nghiệm mùi vị ý thức hệ với các tác phẩm của Lenin và Liang trước
ông ta.
(3) Một gương mặt thứ ba như hình bóng của Mishra là một nhân vật nổi
tiếng ở phương Tây: đó là nhà thơ và nhà viết tiểu thuyết Rabindranath
Tagore. Tagore là người hơi kỳ quặc chút ít trong số ba người.
Cũng như al-Afghani và Liang, Tagore rất sung sướng mỗi khi có dịp tố
cáo chủ nghĩa duy vật của Tây Phương. Nhưng ông ta cũng nghĩ: đi theo
các khuynh hướng đế quốc của Tây Phương có thể là một tai họa cho Á
Châu. Ông đã nói với một người Nhật quen biết, Toyama Mitsuru: “Ông đã
bị lây nhiễm bởi vi khuẩn đế quốc Âu Châu!”[2]
Đối với Tagore, nhà nước-quốc gia là một thảm kịch đang hình thành
đối với các dân tộc Á Châu. Tagore đã nói với cử tọa Nhật: “Giờ đây, sau
cuộc đại chiến, có phải các bạn không còn nghe sự tố cáo tinh thần
Quốc Gia ở khắp nơi, một ích kỷ tập thể của dân tộc, làm chai sạn con
tim của họ?”[3]
Mới nhìn qua, Tagore hình như hiện đại hơn cả Gandhi, một người
Tagore đã cho là không đủ duy lý. Nhưng chính Gandhi đã có thể động viên
người Ấn trong một tầm cỡ lớn lao với ý niệm Ấn Độ là thực thể lớn hơn
là một quốc gia đơn thuần — điều Tagore đã chưa bao giờ có thể thuyết
phục dân Ấn.
Những mục tiêu cuối cùng của cuộc cách mạng Gandhi còn đáng ngạc
nhiên hơn khi được nhìn từ xa. Gandhi đã rút tỉa và định hướng một trật
tự thế giới lý tưởng từ Đế Quốc Anh. Nhưng trong tầm nhìn của ông, người
Ấn không nên mơ ước đến các quyền lợi như người Anh hay trở thành một
quốc gia độc lập trong Khối Thịnh Vương Chung như Canada. Thay vào đó,
Gandhi đã hình dung Ấn Độ sẽ dẫn dắt toàn thế giới vào một thịnh vượng
chung khổng lồ, nơi tất cả các xứ thành viên đều bình đẳng và hàng hóa
cũng như người dân có thể tự do lưu thông.
Faisal Devji viết trong tác phẩm đầy những ý tưởng mang tính gợi ý,
“The Impossible Indian”: “Một đế quốc canh tân có thể trở thành một diễn
đàn lý tưởng cho sinh hoạt chính trị thuần đạo đức và thực sự duy lý,
bởi lẽ các sự kiện quốc tịch hay ngay cả nhân khẩu cũng không đủ khả
năng quy định công luận và cơ sở để lấy quyết định chính trị .”[4] Dạng
thức của Gandhi khác xa với các dạng thức các bài viết về cùng đề tài
gần đây, đặt trọng tâm vào nguồn gốc tôn giáo trong tư tưởng của Gandhi.
Sự đổi mới trong tác phẩm của Devji là đã xem Gandhi như một nhà cách
mạng, tương đương với những nhà ý thức hệ lớn vào thời của ông —
Stalin, Roosevelt, Mao, và Hitler — hơn là một nhà đạo đức bên ngoài
dòng chính của chính trị thế kỷ XX.
Trong một ý nghĩa khác, Devji đã mô tả Gandhi như một nhà tư tưởng
cực đoan hơn nhiều tác giả cùng thời: chủ thuyết “bất bạo động” không
những đã đòi hỏi bạo động mà còn công khai mời gọi bạo động, bởi lẽ bạo
động đem lại cơ hội cho đau khổ mang tính chuộc tội. Ở đây, Gandhi đã
lấy cảm hứng từ tiếng khóc của các phụ nữ Boer trong các trại tập trung
của Anh Quốc ở Nam Phi, những phụ nữ đã đưa đến một thay đổi trong tim
của giới báo chí Anh Quốc. Điều éo le là viễn kiến của Gandhi về một thế
giới thịnh vượng chung phi-lãnh-thổ hình như gần với ý tưởng “ummah”Hồi
Giáo ngày nay, hơn bất cứ những gì đồ đệ của Gandhi đã ấp ủ.
Tagore đã đúng hơn ông ta nghĩ về sức quyến rũ của ý niệm quốc
gia-nhà nước. Sau Đệ Nhất Thế Chiến, các phong trào độc lập trên khắp
thế giới đã gửi đại biểu đến Paris trong năm 1919 đòi hỏi độc lập với
Woodrow Wilson và các cường quốc Âu Châu. Điều Erez Manela đã gọi là
“Thời Khắc của Wilson”(The Wilsonian Moment), đã đến như một dịp may đã
bị bỏ lỡ bởi Tây Phương để khởi động một quá trình giải thể chủ nghĩa
thực dân sớm sủa.
Tuy nhiên, vấn đề là chúng ta đã biết câu chuyện giải thể chủ nghĩa
thực dân (decolonization) đã chấm dứt như thế nào. Thời khắc nầy đã
khiến nhiều người dễ dàng quên đi thực tế: người Á Châu và Phi Châu đã
chấp nhận lời hứa tự trị (self-determination) của Wilson như những gì họ
muốn nghe. Phe đế quốc Nhật đã rất xúc động trước những lời lẽ của
Wilson cũng như người Algeria đã hy vọng một liên hiệp chặt chẽ hơn với
Cộng Hòa Pháp. Lý tưởng tự trị đang phụng sự nhu cầu cải lương chính trị
mới chớm nở, làm nhẹ bớt gánh nặng lịch sử do Manela và nhiều đại biểu
khác đã đặt lên vai Wilson.
Nhưng cũng không ai có thể phủ nhận các hy vọng đã sụp đổ ngay tại
Versailles — như Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nhớ rõ: chính Hồ Chí Minh đã
đến Paris để gặp phái đoàn Mỹ chỉ để bị từ chối — một kinh nghiệm đã
tăng cường các đòi hỏi của các quốc gia mới trong những nổ lực kế tiếp
nhằm với tới một giàn xếp sau Đệ Nhị Thế Chiến.
Tác phẩm “Từ Những Đổ Nát của Đế Quốc” đã chấm dứt với một chú giải
thất vọng kéo dài. Mishra viết: Phản ứng phổ quát không mấy thuyết phục
hiện hữu ngày nay đối với các ý tưởng chính trị và kinh tế của Tây
Phương, mặc dù những ý tưởng nầy hình như lúc một nóng bỏng và không
thích hợp đến độ khá nguy hiểm trong phần lớn thế giới.”[5]
Mishra thấy ở khắp nơi một Á Châu đang đi lên có đủ khả năng thách
thức Tây Phương về tài nguyên, lãnh thổ, và thị phần. Nơi các thế hệ trí
thức Á Châu của Mishra hình như đã nhất trí về tính cần thiết của khoa
học Tây Phương, và vì vậy, các hậu bối của họ hình như đã chấp nhận
“phương thức phát triển kinh tế độc đạo” kiểu Tây Phương” — “one-track
Western-style economic development”.
“Các Sinh Viên Cao Học , Những Người Đã Canh Tân Á Châu” (The
Graduate Students Who Remade Asia) có thể là nhan đề phụ cho lịch sử sắp
viết của những kinh tế gia được đào tạo ở Hoa Kỳ và Anh Quốc, những vị
đã đảm trách các cải cách theo hướng thị trường trong thập kỷ 1980.
Đối với Mishra, “sự trả thù của Đông Phương” (the revenge of the
East) chỉ có nghĩa sẽ lặp lại những lỗi lầm của Tây Phương trên một tầm
cỡ rộng lớn hơn. Điều nầy có vẻ như đang xẩy ra: trong tháng 3-2013,
BRICS đã loan báo sẽ thành lập một quỹ phát triển, có nghĩa như một câu
trả lời cho Ngân Hàng Thế Giới và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Phản ứng nầy
hình như không báo hiệu một định chế truyền bá văn minh ôn hòa hơn đối
với các quốc gia thành viên.
Đối với tất cả những tiết lộ mới mẻ của tác phẩm “From the Ruins of
Empire”, Mishra cuối cùng cũng đã lê bước trên địa hình quen thuộc. Cũng
giống như Francis Fukuyama, Mishra xem chủ nghĩa tư bản tự do như ý
thức hệ cuối cùng vẫn có khả năng thu hút những tân tòng . Và cũng như
đối thủ của ông, Niall Ferguson, Mishra vẫn bám víu vào các kiềm chế gò
bó của các hiện tượng phân cực Đông-Tây. Những gì giúp Mishra nổi trội
rất ít liên quan đến quan điểm của ông đối với hiện tại hơn là định
hướng tiến về phía nầy — có nghĩa nhất quyết chống lại “khuynh hướng
lướt tới phát triển bằng mọi giá”. Về điểm nầy, Mishra thật sự đồng
tình. Ông ta ý thức rất rõ: sự thăng tiến đáng ngạc nhiên của các tầng
lớp trung lưu ở Ấn Độ và Trung Quốc không những đã để lại phía sau hàng
triệu dân quê trong những điều kiện tồi tệ hơn, mà còn tạo thêm chiều
tâm lý mới trong sự phẩn uất của họ.
Mishra đã nhận thức khá thấu đáo: những người thụ hưởng lớn nhất từ toàn cầu hóa là những kẻ quyết tâm bảo vệ nó.
Nhưng một thoáng lãng mạn cũng đã tô màu các luận cứ của Mishra. Liệu
Mishra có phải viện dẫn những hy vọng của cách mạng Mao để khiển trách
tầng lớp ưu tú Trung Quốc ngày nay? Liệu thời kỳ tiền-toàn-cầu-hóa của
Ấn Độ trong thập kỷ 1970 một cách nào đó cũng đáng giá để quay trở lại?
Và Mishra đang muốn chúng ta sàng lọc những gì từ đời sống của ba nhà
trí thức đáng quan tâm nhưng ít hữu hiệu sống cách đây một thế kỷ?
Một Á Châu như thế cũng đã có phần với giới hiền triết, những người
không kém băn khoăn bởi bước tiến canh tân như người Slavophiles (theo
văn hóa Nga) và German Romantics (theo văn hóa Đức)?
Đã có thời buổi khi các tác phẩm luận bàn về các biện pháp lịch sử
thay thế cho định chế nhà-nước-quốc-gia và chủ nghĩa tư bản tự do và
hiện đại đã trở thành một che đậy cho thái độ tự mãn. Các tác phẩm của
Garavini và Prashad đã cho thấy nhiều nét hoàn chỉnh của trật tự thế
giới của chúng ta cũng chỉ khoảng 30 hay 40 tuổi đời. Các tác phẩm đó
cũng chẳng mấy tuân theo bất cứ một logic không thể tránh nào.
Ý niệm — các nhà trí thức ngày nay có lẽ nên khởi đầu cóp nhặt những
hệ ý thức phổ quát mới bao trùm thế giới, hơn là tìm cách vãn hồi các
quyết định chính trị dân chủ từ các viên chức giám sát kinh tế giả hiệu
trong các định chế của chúng ta trước đây — hình như cũng chỉ là một
lần diễn tập mới nỗi luyến tiếc quá khứ của Mishra.
Sự lựa chọn không bao giờ giữa một tương lai lý tưởng và một tương
lai xấu xa, mà là giữa một tương lai tốt hơn và một tương lai xấu hơn.
Nguyễn Trường
Irvine, California, USA
8-6-2013
——————————————————————————–
[1] …Greater Indonesia would “gobble Malaysia raw”.
[2]…You have been infected by the virus of European imperialism!
[3] …Now after [the Great War], do you not hear everywhere the
denunciation of this spirit of the Nation, this collective egoism of the
people , which is universally hardening their hearts?
[4] …A reformed empire could become an ideal arena for a purely moral
and indeed rational politics, since neither the facts of nationality
nor those of demography would be able to determine popular opinion and
thus political decision-making there.
[5] …No convincingly universalist response exists today to Western
ideas of politics and economy, even though these seem increasingly
febrile and dangerously unsuitable in large parts of the world.