Thứ Ba, 12 tháng 7, 2011

Biển Đông – Kinh tế và Xung đột

Đảo Phan Vinh thuộc quần đảo Trường Sa, hình do Thông tấn xã Việt Nam chụp và phát hành ngày 14/6/2011
Hình: AFP
Đảo Phan Vinh thuộc quần đảo Trường Sa, hình do Thông tấn xã Việt Nam chụp và phát hành ngày 14/6/2011
Tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông luôn đứng đầu bảng với tư cách là nguồn gốc gây bất ổn định ở Đông Nam Á. Quần đảo Trường Sa, với khoảng hơn 40 đảo và bãi đá lớn nhỏ, là nơi tranh chấp giữa Malaysia, Philippines, Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia và Brunei, trong đó chủ chốt nhất là 5 nước đầu tiên.
Mặc dù các bên đều mong muốn giải quyết vấn đề một cách hòa bình, bạo lực quân sự đã từng được sử dụng và có thể sẽ còn được sử dụng nữa, với nhiều khả năng gây ra những hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Ngày nay, các bên đều có lợi từ sự ổn định trong khu vực và điều này khiến cho triển vọng xảy ra xung đột quân sự có vẻ thấp, nhưng tiềm năng xảy ra xung đột quân sự thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí có thể ngày một lớn.
Kinh tế chính trị của Biển Đông
Những hòn đảo và bãi đá trên Trường Sa đều thuộc loại rất nhỏ, nhiều bãi đá lúc chìm lúc nổi theo sự lên xuống trong ngày của mực nước biển. Những hòn đảo và bãi đá này đều nằm rất xa đất liền và dân thường không thể sinh sống ở đó được. Vậy cái gì làm cho chúng trở nên hấp dẫn đến vậy? Học giả Joshua P. Rowan thuộc Khoa Nghiên cứu Quốc phòng và Chiến lược, Đại học Southwest Missouri State University, cho rằng có 3 lý do quan trọng ngoài cá và san hô:
Thứ nhất là mở rộng biên giới quốc gia và vùng đặc quyền kinh tế: Tất cả các nước đang tranh chấp trong vùng Trường Sa đều đã ký vào Công ước quốc tế về Luật biển. Nó quy định mỗi nước có quyền mở rộng biên giới lãnh thổ của mình tới 12 hải lý ra biển. Ngoài ra mỗi nước còn có được sở hữu Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) vượt khỏi phạm vi lãnh thổ tới 200 hải lý. Như vậy, sở hữu được các hòn đảo ở Trường Sa sẽ giúp các nước mở rộng vùng lãnh thổ và vùng đặc quyền kinh tế của mình. Tuy nhiên, công ước này quy định rằng không thể dùng các bãi đá để xác định biên giới và vùng đặc quyền kinh tế. Các bãi đá, theo định nghĩa, là những nơi con người không thể sống và thực hiện các hoạt động kinh tế. Một số nước như Trung Quốc đã khai thác vấn đề này và tìm cách biến các bãi đá nửa chìm nửa nổi thành những nơi con người có thể sinh sống bằng cách âm thầm vận chuyển đất đá – vật liệu xây dựng từ đất liền ra xây dựng các công trình kiên cố trên biển.
Thứ hai là dầu mỏ và khí đốt: Vùng đặc quyền kinh tế sẽ không có nhiều ý nghĩa cho lắm nếu nó thuộc vùng biển nghèo tài nguyên. Điều đáng mừng (hay đáng lo?) là Biển Đông là một vùng biển có dầu mỏ và khí đốt.
Nhiều nguồn tin, đặc biệt là từ Trung Quốc, cho rằng trữ lượng dầu mỏ trong vùng Trường Sa lên tới 105 tỉ thùng và nếu tính cả vùng Biển Đông thì lên tới 213 tỉ thùng. Tuy nhiên, ước lượng của Bộ Năng lượng Mỹ cho rằng trữ lượng dầu mỏ của toàn bộ vùng Biển Đông chỉ vào khoảng 7 tỉ thùng mà thôi, rất thấp so với một số vùng biển khác trên thế giới (xem Bảng Một). Trung Quốc cũng ước lượng có khoảng 2000 ngàn tỉ cubic feet khí đốt dưới lòng Biển Đông trong khi Bộ Năng lượng Mỹ ước tính chỉ khoảng 150,3 ngàn tỉ cubic feet. Có vẻ như người Trung Quốc trong cơn khát năng lượng đã có cái nhìn quá lạc quan về tài nguyên dầu mỏ trên Biển Đông.
DẦU MỎ Ở BIỂN ĐÔNG SO VỚI CÁC KHU VỰC KHÁC TRÊN THẾ GIỚI

Trữ Lượng
Dầu Mỏ
Đo Được
(Tỉ Barrels)
Trữ Lượng Khí Đốt Đo Được
(Ngàn Tỉ
Cubic Feet)

Mức Độ Khai Thác Dầu Mỏ
(Triệu Barrels/Ngày)
Mức Độ Khai Thác Khí Đốt
(Ngàn Tỉ
Cubic Feet /Năm)

Vùng biển Caspian
17.2-32.8
232
1.6
4.5
Vùng biển Bắc
13.8
178.7
6.4
9.4
Vùng Vịnh
674.0
1,923.0
19.3
8.0
Biển Đông
(ước tính) 7.0
(ước tính) 150.3
2.2
3.2
Số liệu về dầu mỏ của năm 2003 và khí đốt của năm 2002.
Nguồn: Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ


Thứ ba là kinh tế chính trị: Kiểm soát Biển Đông cũng đồng thời có nghĩa là kiểm soát tuyến giao thương lớn số 2 của thế giới. Hàng năm có khoảng hơn một nửa các tàu vận tải hạng nặng của thế giới đi qua các eo biển Malacca, Sunda và Lombok từ Borneo và Mindanao tới Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật Bản mang theo dầu mỏ, khoáng sản, cao su, gỗ, và thủy sản. Ngược chiều của dòng vận tải này là các tàu hàng chở đầy thành phẩm và bán thành phẩm từ các công xưởng của Đông và Đông Bắc Á. Riêng lượng dầu mỏ và khí hóa lỏng đi qua Biển Đông lớn gấp 3 lần lượng dầu khí đi qua kênh Suez và gấp 15 lần lượng dầu khí đi qua kênh Panama.
Bất cứ nước nào kiểm soát được vùng biển này cũng có thể ngăn trở việc vận chuyển hàng hóa qua đây và qua đó “bức tử” eo biển Malacca, các trung tâm kinh tế như Singapore và Hồng Kông, và các nền kinh tế đang nổi lên ở Đông Nam Á (bao gồm cả Việt Nam), đồng thời gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới các nền kinh tế ở Đông và Đông Bắc Á. Nhiều nhà phân tích cho rằng Trung Quốc muốn kiểm soát Biển Đông một phần là muốn kiểm soát con đường vận chuyển huyết mạch đó. Tất nhiên thay vì đi qua Biển Đông, các tàu vận tải có thể đi xuôi xuống phía Nam, qua vùng biển của Indonesia rồi ngược lên Đông Bắc Á. Tuy nhiên, nếu đi theo lộ trình này thì chi phí vận chuyển tăng lên khá nhiều.
Ngoài vấn đề thương mại, kiểm soát Biển Đông còn có ý nghĩa về mặt quân sự. Trong thời kỳ Thế Chiến II, Quân đội Hoàng gia Nhật Bản đã coi Biển Đông là vùng biển đặc biệt cần quan tâm của cỗ máy chiến tranh của Đế quốc này. Chính vì thế, họ đã chiếm đóng đảo Ba Bình – là đảo lớn nhất ở Trường Sa và có cả chỗ dùng để neo đậu tàu ngầm. Đối với Trung Quốc, kiểm soát được Biển Đông còn tạo ra một vùng đệm an toàn về hải phận và không phận theo đó đối phương không thể sử dụng để tấn công vào đại lục. 
Bản chất kinh tế của xung đột
Mặc dù có nhiều lý do khác nhau dẫn tới câu chuyện các bên trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông đều muốn giành vùng biển đảo này về cho mình, lý do trực tiếp nhất có lẽ đến từ lý do kinh tế, mà cụ thể hơn là dầu mỏ.
Nhu cầu sử dụng dầu lửa của Trung Quốc đã liên tục tăng từ giữa những năm 80 tới nay với tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Năm 2010 Trung Quốc trở thành nước tiêu dùng nhiên liệu nhiều nhất trên thế giới. Riêng về dầu lửa, Trung Quốc tiêu dùng hơn 9 triệu thùng/ngày vào năm ngoái và năm nay có thể lên tới trên 10 triệu thùng/ngày.
Theo một nghiên cứu hồi năm 2006 của Xuecheng Liu thuộc Quỹ Stanley Foundation, Trung Quốc dựa chủ yếu vào sản xuất trong nước để đáp ứng nhu cầu về dầu lửa. Số liệu của ông Liu dẫn ra vào năm này cho thấy 90% nhu cầu tiêu dùng về dầu lửa của Trung Quốc được đáp ứng từ sản xuất trong nước. Theo ông Liu, chiến lược dài hạn về an ninh kinh tế là chiến lược 3 chữ E, bao gồm Economic Growth (tăng trưởng kinh tế), Energy Security (an ninh năng lượng), và Environmental Protection (bảo vệ môi trường). Để đảm bảo được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh như giai đoạn vừa rồi, vấn đề an ninh năng lượng ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng.
Chính vì chiến lược an ninh năng lượng như vậy mà mặc dù Trung Quốc vẫn dựa một phần vào nhập khẩu dầu từ Trung Đông, họ đặc biệt coi trọng việc tìm kiếm và khai thác các nguồn dầu khí của riêng mình. Mặc dù về nguyên tắc, Trung Quốc có thể khai thác trữ lượng dầu mỏ hùng hậu trên đại lục nhưng do chiến lược khai thác dài hạn, đa số các mỏ dầu này còn chưa được đụng đến. Thay vào đó, Trung Quốc đang tích cực hướng tới việc đầu tư khai thác ở nước ngoài và lấn chiếm các vùng dầu mỏ trong vùng tranh chấp với láng giềng. Theo Zhou Dadi, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Năng lượng thuộc Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc, cho biết biển Hoa Đông và Biển Đông là hai khu vực có tiềm năng về khai thác dầu khí biển sâu và sẽ đóng vai trò rất lớn trong việc cung cấp và đảm bảo an ninh năng lượng cho đất nước.
Cuộc tranh chấp ở Biển Đông với Việt Nam và các nước ASEAN khác được đặt trong bối cảnh chung về chiến lược năng lượng này. Từ những năm 90, các cuộc va chạm giữa Việt Nam và Trung Quốc trên biển chủ yếu xoay quanh vấn đề tìm kiếm và khai thác dầu khí:
- Năm 1992, Trung Quốc đã ký hợp đồng cho phép Crestone, một công ty dầu mỏ của Mỹ, tiến hành thăm dò ở Trường Sa và Việt Nam đã ngay lập tức phản đối.
- Năm 1994, Trung Quốc lại cho Crestone thăm dò ở vùng Từ Chính, thuộc block 133, 134, và 135 của Việt Nam mà họ gọi là block Wan Bei-21 (WAB-21). Khi đó, hải quân của hai nước đã có cuộc chạm chán. Tàu hải quân của Việt Nam đã buộc tàu thăm dò của Trung Quốc rời khỏi vùng biển này.

- Tháng 3 năm 1997, Trung Quốc dự định thực hiện khoan dầu ở mỏ dầu Kantan-3 gần Trường Sa. Việt Nam phản đối và cuối cùng Trung quốc nhượng bộ hủy bỏ dự án này. Cùng năm, Vào tháng 12, Việt Nam phản đối tàu thăm dò Trung Quốc và hai tàu tiếp vận của họ đi vào vùng biển thuộc chủ quyền VN. Cả 3 tàu này đều được tàu chiến VN áp tải ra khỏi khu vực.
- Tháng 9 năm 1998, Việt Nam phản đối sau khi Trung Quốc ra báo cáo nói rằng Crestone và Trung Quốc sẽ tiếp tục thăm dò dầu khí ở vùng Từ Chính. Tranh chấp này được giải quyết qua thương lượng vào tháng 12 năm 2000.

Cho tới đầu năm nay, Trung Quốc không có công nghệ thích hợp để khai thác dầu khí ở vùng nước sâu. Vì thế họ đã phải dựa vào các công ty nước ngoài như Crestone. Việc dựa vào các công ty nước ngoài để thực hiện thăm dò trong các vùng biển có tranh chấp thường không hiệu quả vì lý do chính các công ty nước ngoài này cũng không muốn liên can đến các cuộc xung đột vì việc này làm vấn đề quản lý rủi ro của họ thêm phức tạp. Có lẽ vì thế mà các nỗ lực trước đây của Trung Quốc không mấy thành công dưới sức ép của Việt Nam.
Tuy nhiên, từ giữa tháng 5 năm nay, Trung Quốc đã cho hạ thủy giàn khoan dầu lớn và hiện đại nhất của họ mang tên Dầu khí Hải Dương 981. Đây là giàn khoan nửa chìm nửa nổi hoạt động ở độ sâu tối đa 3.000 mét, độ sâu giếng khoan tối đa 12.000 mét, thuộc thế hệ thứ sáu trên thế giới và là giàn khoan cấp siêu sâu đầu tiên do Trung Quốc sản xuất. Với giàn khoan này, Trung Quốc có thể bắt đầu tự thực hiện chiến lược khai thác dầu ở Biển Đông mà không cần phải nhờ đến các công ty nước ngoài.
Để dọn đường cho hoạt động khai thác trong vùng nước sâu ở Biển Đông, gần đây Trung Quốc  đã tích cực xúc tiến các hoạt động nhằm khẳng định chủ quyền trên thực tế của họ ở vùng biển này. Ngoài việc duy trì một lực lượng hải quân hùng hậu ở đảo Hải Nam, Trung Quốc còn sử dụng các lực lượng dân sự trá hình xâm nhập sâu vào các vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của các nước Việt Nam và Phillipines. Chiến lược này trên thực chất là tạo ra các xung đột giả để Việt Nam và Phillipines bị cuốn theo và không tập trung được vào cuộc giành giật tài nguyên ở vùng nước sâu thuộc Trường Sa.
Bảo vệ quyền lợi kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông
Việt Nam chưa có công nghệ khai thác dầu khí ở vùng nước sâu. Cũng giống như Trung Quốc hồi thập kỷ trước, Việt Nam không mấy thành công trong việc liên kết với các công ty nước ngoài để tiến hành thăm dò khai thác ở các vùng biển có tranh chấp. Tuy nhiên, Biển Đông không chỉ quan trọng đối với Việt Nam về dầu mỏ. Ngoài dầu lửa và khí đốt, còn có các lợi ích chiến lược khác về lãnh hải và địa chính trị như đã nêu ở trên mà chúng ta không thể nhượng bộ.
Kinh tế biển sẽ ngày càng quan trọng đối với Việt Nam khi mà các nguồn tài nguyên trên đất liền đang cạn dần. Việt Nam sẽ ngày càng phải dựa nhiều vào các nguồn tài nguyên của biển. Việc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp trên các vùng biển đảo của Việt Nam, vì thế, phải là vấn đề cốt lõi trong chiến lược quốc phòng của đất nước. Bảo vệ biển đảo tức là bảo vệ tương lai, nguồn sống, và sức phát triển của dân tộc.
Để bảo vệ quyền lợi của mình thì không nhất thiết phải sử dụng đến bạo lực. Nói như TS Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, thì “nếu họ tiếp tục phá, ta phải có cách ngăn cản theo đúng thủ tục pháp lý. Ví dụ trong trường hợp Viking II thì các lực lượng của Việt Nam hoàn toàn có quyền bắt giữ tàu cá, dẫn độ vào bờ, làm đúng thủ tục và đưa ra xét xử tại tòa án. Công ước Luật biển 1982 đã nói rõ điều đó.” Vừa cương quyết, duy lý, hành động dựa trên pháp luật, vừa tránh sử dụng các biện pháp bạo lực có lẽ là chìa khóa để Việt Nam bảo vệ thành công chủ quyền hợp pháp của mình trên biển.
Tham khảo
Rowan J.P., 2005: “The U.S-Japan Security Alliance, Asean, and the South China Sea Dispute,” Asian Survey, Vol. XLV, p.p. 414-436

Xuecheng Liu, 2006: “China’s Energy Security and Its Grand Strategy,” Policy Analysis Brief, The Stanley Foundation

Bộ Năng lượng Hoa Kỳ http://ei-01.eia.doe.gov/emeu/cabs/South_China_Sea/TablesMaps.html
China Daily, 2011: “China to Build another Offshore Rig,” http://www.ciooe.com.cn/en/html/content_296.html
* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.