Tháng
1 năm 1997, trong chuyến công du 5 nước ASEAN, Thủ tướng Nhật Bản
Hashimoto đã đến thăm Việt Nam, thể hiện sự quan tâm to lớn của Nhật Bản
đến Việt Nam khi nước ta mới gia nhập tổ chức ASEAN cách đó không lâu.
Cuộc hội
đàm giữa Thủ tướng Hashimoto và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đề cập đến chủ
đề quan trọng mà cả hai bên đều quan tâm là vấn đề đảm bảo an ninh và
sự ổn định chính trị trong khu vực. Một tư tưởng xuyên suốt được quán
triệt và nhất trí ở các nguyên thủ Nhật Bản cho dù chức thủ tướng do
những người khác nhau đảm nhận, đó là thái độ ủng hộ công cuộc đổi mới
của Việt Nam.
Sự ủng hộ đó được thể hiện cụ thể qua các khoản viện trợ, cho vay, qua
việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, văn hoá, giao lưu... Nhân dịp thăm
Việt Nam
lần đó Thủ tướng Hashimoto đã hội đàm với Tổng Bí thư Đỗ Mười. Ý kiến
của Tổng Bí thư Đỗ Mười về “xúc tiến quan hệ hữu nghị giữa Đảng Cộng sản
Việt Nam và Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản” đã được Thủ tướng Hashimoto
đánh giá cao.
Một mốc mới được ghi nhận là chuyến đi thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Keizo Obuchi vào tháng 12 năm 1998. Là một vị Thủ tướng có nhiều thiện cảm với Việt Nam, ông Obuchi đã chia sẻ những cảm nghĩ chân thành của mình khi đến Việt Nam: “Chuyến thăm này đã gây cho tôi những ấn tượng sâu sắc về sự phát triển của Việt Nam
trong chính sách đổi mới. Với tư cách đã từng là Chủ tịch Liên minh
nghị sỹ Nhật Bản- Việt Nam, Chủ tịch Hội Giao lưu Văn hoá Nhật Bản -
Việt Nam, những năm qua tôi đã hết sức nỗ lực để thúc đẩy quan hệ Nhật
Bản - Việt Nam”(1). Như vậy, chính sách đổi mới của Việt Nam vẫn tiếp
tục là chủ đề quan trọng giành được sự quan tâm và ủng hộ của phía Nhật
Bản. Chính phủ Nhật Bản đã quyết định tăng tổng kim ngạch viện trợ cho
Việt Nam trong năm tài chính 1998 lên 102,3 tỷ yên và đồng ý việc Việt
Nam tham gia Quỹ Nhật Bản trị giá 30 tỷ USD hỗ trợ các nước trong khu
vực khắc phục khủng hoảng tài chính xảy ra năm 1997(2).
Sau
đó, liên tiếp vào các năm 1999, 2001 và 2003, Thủ tướng Phan Văn Khải
đã thực hiện các chuyến đi thăm và làm việc tại Nhật Bản.
Tháng
3 năm 1999 Thủ tướng Phan Văn Khải sang thăm Nhật Bản và đã có cuộc hội
đàm với Thủ tướng Obuchi. Chủ đề quan trọng mà hai thủ tướng đề cập đến
là trao đổi về phương hướng và triển vọng quan hệ hai nước. Các biện
pháp và bước đi cụ thể cũng được bàn bạc nhằm tăng cường hợp tác và quan
hệ hữu nghị Việt - Nhật theo hướng hiệu quả, thiết thực, cùng có lợi,
vì sự phát triển và phồn vinh của nhân dân hai nước, vì hoà bình, ổn
định, hợp tác và phát triển ở Đông Nam á và Châu Á - Thái Bình Dương.
Phía Việt Nam đánh giá cao ODA của Nhật Bản trong việc giúp đỡ Việt Nam
khắc phục khó khăn và tiếp tục phát triển đất nước. Mặc dù kinh tế Nhật
Bản bị ngưng trệ và Nhật Bản phải cắt giảm ngân sách ODA 10%, song riêng
ODA cho Việt Nam vẫn được tăng lên. Ngoài khoản ODA thường niên Việt Nam còn được đưa vào danh sách nhận tín dụng ưu đãi của Chương trình Miyazawa và những chương trình hợp tác khu vực khác.
Chuyến
đi tiếp theo của Thủ tướng Phan Văn Khải sang Nhật Bản là vào tháng 6
năm 2001 theo lời mời của Thủ tướng Nhật Bản Koizumi. Cũng như các Thủ
tướng tiền nhiệm, Thủ tướng Koizumi đã có những đánh giá tích cực về
công cuộc đổi mới của Việt Nam và khẳng định Nhật Bản sẽ tiếp tục giúp
đỡ, hỗ trợ Việt Nam thông qua viện trợ ODA và sự hợp tác nhiều mặt.
Tiếp đó là chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Koizumi vào tháng 4/2002 và chuyến thăm Nhật Bản của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh vào tháng 10/2002
Chuyến
đi gần đây nhất của Thủ tướng Phan Văn Khải sang Nhật Bản diễn ra vào
tháng 4 năm 2003, sau chuyến đi thăm có ý nghĩa lịch sử của Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh cuối năm 2002. Thủ tướng Koizumi đã có cuộc hội đàm với
Thủ tướng Phan Văn Khải và các thành viên trong đoàn. Các vấn đề hợp tác
song phương và các vấn đề quốc tế mà cả hai bên cùng quan tâm là chủ đề
bàn luận của hai thủ tướng. Những thành tựu của công cuộc đổi mới,
phương hướng xây dựng và phát triển Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đã tiếp tục được phía Nhật Bản ghi nhận và ủng hộ. Thủ
tướng Phan Văn Khải đã cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ hiệu quả của chính
phủ và nhân dân Nhật Bản đối với Việt Nam.
Hai bên đều nhất trí phải có những biện pháp và bước đi cụ thể hơn nữa
để thúc đẩy quan hệ hai nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, trong
thời gian tới, sao cho quan hệ này được phát triển theo phương châm “đối
tác tin cậy, ổn định lâu dài” đã được nhất trí trong năm 2002. Trong
thời gian qua quan hệ kinh tế giữa hai nước được đẩy lên thêm một bước
mới. Riêng vốn ODA của Nhật Bản cho Việt Nam đã chiếm 40% tổng vốn ODA
của quốc tế cho Việt Nam. Nhật Bản hiện là nhà tài trợ lớn nhất cho Việt
Nam cả về quy mô vốn vay ưu đãi lẫn viện trợ không hoàn lại. Sự giúp đỡ to lớn này đã giúp Việt Nam phát triển kinh tế- xã hội, bảo vệ môi trường, hỗ trợ Việt Nam
hội nhập kinh tế quốc tế. Uỷ ban hỗn hợp Việt Nam- Nhật Bản nghiên cứu
môi trường đầu tư ở Việt Nam đã được thành lập nhân dịp này chứng tỏ
Việt Nam đang rất nỗ lực tạo dựng môi trường đầu tư thuận lợi nhằm tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư có thể làm ăn lâu dài và ổn định ở Việt
Nam.
Như
đã nói ở trên, trong năm 2002 quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đã có một mốc
quan trọng khi Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh sang thăm chính thức Nhật Bản
vào tháng 10. Chính trong dịp này lãnh đạo của hai nước đã đưa ra phương
châm hợp tác theo tinh thần “ổn định lâu dài và tin cậy lẫn nhau” trên
cơ sở đối tác bình đẳng. Tổng bí thư Nông Đức Mạnh và Thủ tướng Koizumi
đã hội đàm cùng nhau, bàn bạc nhiều vấn đề liên quan đến quan hệ Việt
Nam - Nhật Bản trong thế kỷ XXI: Hai bên đều nhất trí phải tăng cường
đối thoại chính trị để giúp cho hai nước với tư cách là những đối tác
khu vực hiểu biết nhau sâu sắc hơn, phải đẩy mạnh quan hệ kinh tế, trong
đó chú trọng đến việc cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam, đến việc
sử dụng có hiệu lực và hiệu quả hơn nữa ODA của Nhật Bản, phải tăng
cường giao lưu song phương, mở rộng sự giao lưu đó ở các cấp. Về lĩnh
vực đối ngoại, cả hai bên đều khẳng định ý nghĩa quan trọng của việc các
bên hợp tác chặt chẽ hơn tại các diễn đàn song phương và đa phương, khu
vực và quốc tế.
Tháng
9 năm 2003 vừa tròn 30 năm thiết lập chính thức quan hệ ngoại giao Việt
Nam - Nhật Bản. Sự kiện này có một ý nghĩa lịch sử to lớn đối với cả
hai nước. Xuất phát từ ý nghĩa đó, lãnh đạo hai nước đã nhất trí chọn
tháng 9 làm “tháng Nhật Bản tại Việt Nam và tháng Việt Nam tại Nhật Bản”.
Có
thể nói chuyến đi thăm Nhật Bản của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã đạt
được kết quả rất tốt đẹp. Dấu ấn đậm nét của chuyến đi là đã cho công bố
một “Thông cáo báo chí chung"(3), tạo khuôn khổ cho quan hệ hai nước
Việt Nam và Nhật Bản trong thế kỷ XXI.
Một
điều rõ ràng là chính sách đối ngoại hiện nay của Nhật Bản đang rất coi
trọng khu vực Châu á - Thái Bình Dương, đặc biệt là ASEAN. Đối với
ASEAN, Nhật Bản tiếp tục là nước viện trợ ODA quan trọng, đứng đầu về
đầu tư trực tiếp và là đối tác thương mại lớn nhất. Thủ tướng Koizumi đã
thực hiện chuyến đi thăm 5 nước ASEAN vào tháng giêng năm 2002 và đưa
ra sáng kiến về mở rộng hợp tác kinh tế với các nước này trên cơ sở một
hiệp định buôn bán tự do. Mục tiêu của Nhật Bản như Thủ tướng Koizumi
tuyên bố là “tạo ra một cộng đồng cùng hành động và cùng tiến bộ như
những đối tác cởi mở và chân thành”(4). Tháng 4 năm 2002 ông đã đến Việt
Nam và nhắc lại sáng kiến trên, đồng thời nhấn mạnh việc Nhật Bản chú trọng đến quan hệ với Việt Nam. Qua các cuộc hội đàm của Thủ tướng Koizumi với các nhà lãnh đạo Việt Nam có thể thấy Nhật Bản đặt nhiều hy vọng vào Việt Nam, vào sự đóng góp của đất nước chúng ta cho sự ổn định và phát triển của khu vực.
Như vậy, nằm trong dòng chảy tăng cường quan hệ với các nước ASEAN, quan hệ giữa Nhật Bản và Việt Nam
đã được thúc đẩy từ lợi ích của hai phía. Việt Nam đặt nhiều hy vọng
vào sự hợp tác, giúp đỡ kinh tế từ Nhật Bản để phục vụ cho công cuộc đổi
mới, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định kinh tế - xã hội ở Việt Nam
và quan hệ Việt - Nhật phát triển sẽ góp phần nâng cao vị thế của Việt
Nam trong phạm vi khu vực và trên thế giới. Đối với Nhật Bản, một Đông
Nam Á hoà bình, ổn định và hợp tác để cùng phát triển có ý nghĩa to lớn
trong việc đảm bảo các lợi ích của Nhật Bản tại đây. Chính sách Đông Nam
Á của Nhật Bản coi trọng đến Việt Nam bởi đây là một nước có tiềm năng
trong khu vực, lại có trùng nhu cầu và lợi ích với Nhật Bản là duy trì
hoà bình, ổn định trong khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có
vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực, là đầu mối giao thông, có nhiều
cửa ngõ thông ra biển thuận lợi và các hải cảng có ý nghĩa về mặt quân
sự. Quyết định về việc sử dụng các hải cảng của Việt Nam trong tương lai
cũng có thể được xem như một nhân tố tác động đến chiến lược an ninh
của Nhật Bản. Về mặt kinh tế, Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên tương
đối phong phú, có nguồn lao động dồi dào, thị trường giàu tiềm năng và
môi trường chính trị ổn định.
Quan
hệ giữa hai nước đã có bước phát triển thực sự từ sau chuyến thăm Nhật
Bản của Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào tháng 3 năm 1993 và có những bước tiến
mới vững chắc sau những chuyến đi thăm lẫn nhau của các nhà lãnh đạo
cấp cao Việt Nam và Nhật Bản. Đặc biệt, một khuôn khổ quan hệ cho hai
nước trong thế kỷ XXI đã được xác định sau chuyến đi của Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh sang Nhật Bản vào tháng 10 năm 2002. Chúng ta hy vọng
trong thế kỷ mới quan hệ truyền thống lâu dài giữa hai quốc gia sẽ tiếp
tục phát triển tích cực, mối quan hệ song phương Việt - Nhật sẽ được
nâng lên tầm cao mới theo phương châm “ổn định lâu dài và tin cậy lẫn
nhau”, vì lợi ích của nhân dân hai nước, phù hợp hoà bình, ổn định của
khu vực.
Nguyễn Thanh Hiến
(Lược trích từ Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 4 (2003))