PGS.TS Trần Thọ Đạthttp://www.ktpt.edu.vn/website/217_mot-so-danh-gia-chat-luong-tang-truong-kinh-te-viet-nam-trong-thoi-gian-qua.aspx
Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế Việt Nam chuyển dịch chậm hơn dự kiến, kể cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ... Trong nhiều năm qua, xét theo tỷ trọng giá trị tăng thêm trong GDP, cơ cấu kinh tế chủ yếu biến đổi theo sự chuyển dịch của hai nhóm ngành nông- lâm - thủy sản và công nghiệp- xây dựng. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP trồi sụt theo từng năm và chưa thể hiện một xu thế chuyển dịch rõ ràng hướng tới một cơ cấu hiện đại, trong khi đây là khu vực có rất nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển. Mục tiêu đặt ra cho chuyển dịch cơ cấu ngành trong GDP năm 2010 (khu vực nông nghiệp 15-16%; công nghiệp và xây dựng 43- 44%; dịch vụ 40- 41%) rất khó đạt được.
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành có liên quan chặt chẽ đến cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư. Cơ cấu lao động chưa có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tiến bộ, lao động chưa có việc làm còn lớn, đang bị “tắc nghẽn” trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Trong khi đó, cơ cấu đầu tư thể hiện sự mất cân đối lớn giữa nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản và tình trạng đầu tư tràn lan ở các địa phương.
Nhìn từ góc độ dài hạn, quá trình chuyển dịch cơ cấu chưa diễn ra theo một quy hoạch chiến lược tổng thể có tầm nhìn dài hạn, với một lộ trình hợp lý và được bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt. Những năm qua là giai đoạn hình thành cơ cấu được định hướng bởi các quy hoạch mang tính cục bộ ngành và địa phương, nhằm phục vụ cho các lợi ích cục bộ và ngắn hạn. Chính vì thế, quy hoạch tổng thể thường bị điều chỉnh, phá vỡ, hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu chuyển dịch không đúng yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng cao, bền vững, nâng cao sức cạnh tranh. Tất cả những điều nói trên phản ánh tầm nhìn cơ cấu hạn chế, nặng về hiện vật và tư duy “chính sách ngành”, chưa theo kịp các xu hướng công nghệ và nguyên lý phát triển hiện đại.
Hiệu quả kinh tế
Trong khi sự thay đổi cơ cấu kinh tế phản ánh chất lượng tăng trưởng kinh tế dài hạn, thì các thước đo hiệu quả kinh tế thể hiện phần nào chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn. Hiệu quả kinh tế được thể hiện thông qua hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của tăng trưởng như vốn (hiệu quả đầu tư), lao động (năng suất lao động), trình độ khoa học-công nghệ (đóng góp của TFP vào tăng trưởng) và tỷ lệ chi phí trung gian trong sản xuất.
Năng suất lao động xã hội (được tính bằng GDP theo giá thực tế chia cho tổng số lao động đang làm việc) của Việt Nam còn rất thấp: năm 2007 đạt khoảng 25,9 triệu đồng/người/năm, hoặc 1.608 USD/người/năm. Đó là những con số rất thấp so với các nước khác, chẳng hạn thấp hơn so với các nước ASEAN nhiều lần (nếu Việt Nam = 1 thì Indonesia = 2,5; Thái Lan = 4,1; Malaysia = 10,7). Nếu tính bằng giá so sánh thì tốc độ tăng năng suất lao động trong thời kỳ 1991-2008 chỉ đạt 5,2%/năm và mức tăng tuyệt đối mỗi năm là 0,37 triệu VND trên một lao động làm việc. Khi năng suất lao động thấp và tăng chậm, thì chẳng những tác động không tốt tới tăng trưởng GDP mà còn chứng tỏ giá trị thặng dư tạo ra thấp, ảnh hưởng đến tích lũy tái đầu tư để tái sản xuất mở rộng cũng như nâng cao mức sống.
Năng lực sản xuất của vốn đầu tư cũng đang giảm thấp đến mức báo động với chỉ số ICOR tăng mạnh trong giai đoạn 1991-2009 và thể hiện tính chu kỳ rõ rệt cùng với tăng trưởng GDP. Nếu như năm 1991, hệ số ICOR tính được là 2,9 (nghĩa là đầu tư gần 3 đồng thì GDP tăng lên 1 đồng), thì năm 2008, hệ số này là 6,66. Thậm chí, theo tính toán của ủy ban Tài chính và ngân sách của Quốc hội, hệ số ICOR năm 2009 có thể lên tới 8 (VnEconomy 2009). Đây là tín hiệu cảnh báo cho hiệu quả đầu tư sụt giảm nghiêm trọng. Trong vòng 17 năm (1991-2008), hệ số ICOR tăng 2,3 lần. Ngay cả mức phổ biến từ 4-5,3 trong giai đoạn 2000-2007 cũng cao hơn nhiều so với khuyến cáo của các định chế tài chính có uy tín như Ngân hàng Thế giới: Đối với một nước đang phát triển, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. So sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất đầu tư của nước ta chỉ bằng một nửa. Điều đáng nói ở khu vực đầu tư công, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, thành phần chủ đạo của nền kinh tế, thì hệ số ICOR lại cao vọt. Nếu hệ số ICOR chung của nền kinh tế năm 2009 là 8, thì ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước lên tới 12.
Hình 2. Tốc độ tăng trưởng GDP và hệ số ICOR của Việt Nam, 1991-2009
Qua gần 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt
được những thành tích đầy ấn tượng trong tăng trưởng kinh tế và xoá đói
giảm nghèo.Điều này không chỉ góp phần giúp đất nước khắc phục tình
trạng kém phát triển, mà còn làm tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu
kinh tế - xã hội khác như giảm thất nghiệp, cải thiện cán cân thanh
toán, tăng thu ngân sách, phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, xóa đói
giảm nghèo...Về cơ bản, những thành tựu tăng trưởng đã đến được với đại
bộ phận người dân, thể hiện ở mức tăng rõ rệt về thu nhập và tiêu dùng
của tất cả các nhóm dân cư trong thời gian qua. Tuy nhiên, nền kinh tế
cũng đang bọc lộ ngày càng rõ những lo ngại về chất lượng và sự bền
vững của quá trình tăng trưởng, xét cả về trung hạn và dài hạn. Bài
viết này đưa ra một số đánh giá về chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt
Nam dưới các góc độ: chuyển dịch cơ cấu, hiệu quả của tăng trưởng, và
một số khía cạnh về phát triển xã hội.
1. Chất lượng tăng trưởng kinh tế không cao, thể hiện ở tốc độ chuyển dịch cơ cấu chậm, tính hiệu quả và sức cạnh tranh thấp
Những thành tựu về tăng trưởng kinh tế của nước ta trong những thập kỷ qua là khá ấn tượng, cả trong so sánh với giai đoạn trước đổi mới lẫn trong so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, nếu xét về quan hệ với biến động cơ cấu kinh tế của các khu vực, các ngành, nhóm ngành, có thể thấy quá trình tái cơ cấu kinh tế đang diễn ra chậm chạp. Nếu xét theo quan hệ với các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh, thì chất lượng tăng trưởng càng bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện ở hệ số ICOR cao và tỷ suất lợi nhuận thấp đến mức đáng lo ngại. Những dấu hiệu này cho thấy nền kinh tế đang vận hành với hiệu quả thấp, sức cạnh tranh yếu.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều đi kèm với những thay đổi trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ba nhóm ngành nông nghiệp (bao gồm nông- lâm nghiệp và thuỷ sản), công nghiệp (bao gồm công nghiệp và xây dựng) và dịch vụ. Cơ cấu kinh tế của nước ta trong thời gian qua đã có sự chuyển dịch tích cực (mặc dù chưa rõ nét): tỷ trọng nông- lâm- thuỷ sản trong GDP đã giảm đều đặn (từ 40,5% xuống 22,09% trong thời kỳ 1991-2008) và tỷ trọng công nghiệp- xây dựng tăng lên tương ứng (từ 23,8% tăng lên 39,73% trong cùng thời kỳ). Trong khi đó, khu vực dịch vụ sau một thời gian dài chững lại (1995-2004) và tăng chậm hơn nhịp độ tăng trưởng chung của GDP, hiện nay đã trở lại tốc độ tăng trưởng khá.
1. Chất lượng tăng trưởng kinh tế không cao, thể hiện ở tốc độ chuyển dịch cơ cấu chậm, tính hiệu quả và sức cạnh tranh thấp
Những thành tựu về tăng trưởng kinh tế của nước ta trong những thập kỷ qua là khá ấn tượng, cả trong so sánh với giai đoạn trước đổi mới lẫn trong so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, nếu xét về quan hệ với biến động cơ cấu kinh tế của các khu vực, các ngành, nhóm ngành, có thể thấy quá trình tái cơ cấu kinh tế đang diễn ra chậm chạp. Nếu xét theo quan hệ với các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh, thì chất lượng tăng trưởng càng bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện ở hệ số ICOR cao và tỷ suất lợi nhuận thấp đến mức đáng lo ngại. Những dấu hiệu này cho thấy nền kinh tế đang vận hành với hiệu quả thấp, sức cạnh tranh yếu.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều đi kèm với những thay đổi trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ba nhóm ngành nông nghiệp (bao gồm nông- lâm nghiệp và thuỷ sản), công nghiệp (bao gồm công nghiệp và xây dựng) và dịch vụ. Cơ cấu kinh tế của nước ta trong thời gian qua đã có sự chuyển dịch tích cực (mặc dù chưa rõ nét): tỷ trọng nông- lâm- thuỷ sản trong GDP đã giảm đều đặn (từ 40,5% xuống 22,09% trong thời kỳ 1991-2008) và tỷ trọng công nghiệp- xây dựng tăng lên tương ứng (từ 23,8% tăng lên 39,73% trong cùng thời kỳ). Trong khi đó, khu vực dịch vụ sau một thời gian dài chững lại (1995-2004) và tăng chậm hơn nhịp độ tăng trưởng chung của GDP, hiện nay đã trở lại tốc độ tăng trưởng khá.
Hình 1. Cơ cấu kinh tế Việt Nam phân theo nhóm ngành, 1991-2008
Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế Việt Nam chuyển dịch chậm hơn dự kiến, kể cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ... Trong nhiều năm qua, xét theo tỷ trọng giá trị tăng thêm trong GDP, cơ cấu kinh tế chủ yếu biến đổi theo sự chuyển dịch của hai nhóm ngành nông- lâm - thủy sản và công nghiệp- xây dựng. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP trồi sụt theo từng năm và chưa thể hiện một xu thế chuyển dịch rõ ràng hướng tới một cơ cấu hiện đại, trong khi đây là khu vực có rất nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển. Mục tiêu đặt ra cho chuyển dịch cơ cấu ngành trong GDP năm 2010 (khu vực nông nghiệp 15-16%; công nghiệp và xây dựng 43- 44%; dịch vụ 40- 41%) rất khó đạt được.
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành có liên quan chặt chẽ đến cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư. Cơ cấu lao động chưa có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tiến bộ, lao động chưa có việc làm còn lớn, đang bị “tắc nghẽn” trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Trong khi đó, cơ cấu đầu tư thể hiện sự mất cân đối lớn giữa nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản và tình trạng đầu tư tràn lan ở các địa phương.
Nhìn từ góc độ dài hạn, quá trình chuyển dịch cơ cấu chưa diễn ra theo một quy hoạch chiến lược tổng thể có tầm nhìn dài hạn, với một lộ trình hợp lý và được bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt. Những năm qua là giai đoạn hình thành cơ cấu được định hướng bởi các quy hoạch mang tính cục bộ ngành và địa phương, nhằm phục vụ cho các lợi ích cục bộ và ngắn hạn. Chính vì thế, quy hoạch tổng thể thường bị điều chỉnh, phá vỡ, hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu chuyển dịch không đúng yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng cao, bền vững, nâng cao sức cạnh tranh. Tất cả những điều nói trên phản ánh tầm nhìn cơ cấu hạn chế, nặng về hiện vật và tư duy “chính sách ngành”, chưa theo kịp các xu hướng công nghệ và nguyên lý phát triển hiện đại.
Hiệu quả kinh tế
Trong khi sự thay đổi cơ cấu kinh tế phản ánh chất lượng tăng trưởng kinh tế dài hạn, thì các thước đo hiệu quả kinh tế thể hiện phần nào chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn. Hiệu quả kinh tế được thể hiện thông qua hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của tăng trưởng như vốn (hiệu quả đầu tư), lao động (năng suất lao động), trình độ khoa học-công nghệ (đóng góp của TFP vào tăng trưởng) và tỷ lệ chi phí trung gian trong sản xuất.
Năng suất lao động xã hội (được tính bằng GDP theo giá thực tế chia cho tổng số lao động đang làm việc) của Việt Nam còn rất thấp: năm 2007 đạt khoảng 25,9 triệu đồng/người/năm, hoặc 1.608 USD/người/năm. Đó là những con số rất thấp so với các nước khác, chẳng hạn thấp hơn so với các nước ASEAN nhiều lần (nếu Việt Nam = 1 thì Indonesia = 2,5; Thái Lan = 4,1; Malaysia = 10,7). Nếu tính bằng giá so sánh thì tốc độ tăng năng suất lao động trong thời kỳ 1991-2008 chỉ đạt 5,2%/năm và mức tăng tuyệt đối mỗi năm là 0,37 triệu VND trên một lao động làm việc. Khi năng suất lao động thấp và tăng chậm, thì chẳng những tác động không tốt tới tăng trưởng GDP mà còn chứng tỏ giá trị thặng dư tạo ra thấp, ảnh hưởng đến tích lũy tái đầu tư để tái sản xuất mở rộng cũng như nâng cao mức sống.
Năng lực sản xuất của vốn đầu tư cũng đang giảm thấp đến mức báo động với chỉ số ICOR tăng mạnh trong giai đoạn 1991-2009 và thể hiện tính chu kỳ rõ rệt cùng với tăng trưởng GDP. Nếu như năm 1991, hệ số ICOR tính được là 2,9 (nghĩa là đầu tư gần 3 đồng thì GDP tăng lên 1 đồng), thì năm 2008, hệ số này là 6,66. Thậm chí, theo tính toán của ủy ban Tài chính và ngân sách của Quốc hội, hệ số ICOR năm 2009 có thể lên tới 8 (VnEconomy 2009). Đây là tín hiệu cảnh báo cho hiệu quả đầu tư sụt giảm nghiêm trọng. Trong vòng 17 năm (1991-2008), hệ số ICOR tăng 2,3 lần. Ngay cả mức phổ biến từ 4-5,3 trong giai đoạn 2000-2007 cũng cao hơn nhiều so với khuyến cáo của các định chế tài chính có uy tín như Ngân hàng Thế giới: Đối với một nước đang phát triển, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. So sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất đầu tư của nước ta chỉ bằng một nửa. Điều đáng nói ở khu vực đầu tư công, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, thành phần chủ đạo của nền kinh tế, thì hệ số ICOR lại cao vọt. Nếu hệ số ICOR chung của nền kinh tế năm 2009 là 8, thì ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước lên tới 12.
Nguồn: Tính toán của tác giả 1991-2008 và VnEconomy (2009)
Năng suất lao động gia tăng chậm chạp trong khi hiệu quả đầu tư giảm sút trong giai đoạn 1991-2005 đã cho chúng ta một cái nhìn khá rõ về chất lượng tăng trưởng dưới góc độ hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, kết quả phân tích mức độ đóng góp của các yếu tố vốn, lao động và năng suất tổng hợp đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam cho thấy, mặc dù chất lượng tăng trưởng phần nào được cải thiện thể hiện qua sự tăng lên của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP hàng năm (từ 14,28% thời kỳ 1992-1997 lên 22,6% thời kỳ 1998-2002 và 28,2% giai đoạn 2003 đến nay), tuy nhiên, tăng trưởng do yếu tố vốn chiếm tới 52,73% và yếu tố lao động chiếm 19,07%; tức cả hai yếu tố này còn chiếm gần 3/4 tổng cả ba yếu tố tác động đến tăng trưởng (Nguyễn Ngọc Sơn, 2008). So sánh với các nước trong khu vực thì tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng hàng năm của Việt Nam còn thấp hơn nhiều, tỷ lệ này của Thái Lan là 35%, của Philippin là 41%, của Indonesia là 43%. Rõ ràng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nghiêng nhiều về số lượng hơn là chất lượng, nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu. Ngay cả trong tăng trưởng chiều rộng thì sự tăng trưởng của nước ta cũng nghiêng nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động (tỷ trọng đóng góp của vốn cao gấp 3 lần tỷ trọng đóng góp của yếu tố lao động). Trong khi đó, vốn là yếu tố mà nước ta còn thiếu, còn lao động là yếu tố mà nước ta rất dồi dào. Kéo dài tình trạng này, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ không bền vững, chất lượng tăng trưởng không được cải thiện, cuối cùng sẽ kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tỷ lệ chi phí trung gian trong tổng giá trị sản xuất, nếu từ năm 1999 trở về trước còn ở dưới mức 48%, thì năm 2000 trở lại đây đã vượt qua mốc 55%. Bình quân trong thời kỳ 1991-2008, trong nhóm ngành nông - lâm nghiệp - thuỷ sản, nếu giá trị sản xuất tăng trên 6,1% thì giá trị gia tăng chỉ đạt khoảng 4,2%, tức là thấp chỉ bằng 2/3; trong ngành công nghiệp, nếu giá trị sản xuất tăng 24,5% thì giá trị tăng thêm chỉ tăng 14,9%. Điều đó chứng tỏ tỷ lệ chi phí trung gian đã tăng lên.
Sức cạnh tranh của nền kinh tế
Năng lực cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước được chia thành ba nhóm: (1) nhóm các sản phẩm có thế mạnh xuất khẩu, (2) nhóm các sản phẩm có thể cạnh tranh trong tương lai, nhưng hiện vẫn cần được bảo hộ, và (3) nhóm các sản phẩm không thể cạnh tranh quốc tế. Đối với nhóm thứ nhất, năng lực cạnh tranh thể hiện ở chỉ tiêu tỷ lệ giá trị xuất khẩu trong giá trị sản xuất của Việt Nam liên tục tăng trong các năm qua. Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu còn chậm, chưa có tính đột phá, các sản phẩm trong nhóm có thế mạnh xuất khẩu chưa khẳng định sự vượt trội về chất lượng và giá trị gia tăng cao. Nhiều mặt hàng kim ngạch tăng chủ yếu dựa vào biến động giá của thị trường thế giới nên sự tăng trưởng này còn mang tính bất ổn, thiếu bền vững. Bên cạnh đó, phần lớn các mặt hàng trong nhóm thứ hai và thứ ba của Việt Nam đã được bảo hộ trong một thời gian dài, tuy nhiên cho đến nay, những hàng hoá thuộc hai nhóm này vẫn có chất lượng kém và giá thành cao, không thể cạnh tranh trên thị trường trong nước chứ chưa nói đến khả năng xuất khẩu.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước được thể hiện rõ nhất qua các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu. Từ năm 2000 đến nay, nhìn chung, hai chỉ tiêu trên của Việt Nam đều thấp, mặc dù có xu thế tăng trong các năm 2000-2004 (tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt 4,85% năm 2004), nhưng lại giảm vào năm 2005 (4,42%). Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ quy mô sản xuất kinh doanh nhìn chung vẫn là nhỏ và siêu nhỏ, đi kèm với trình độ kỹ thuật công nghệ thấp: số doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2005 chiếm tới 96,81%; số doanh nghiệp có trang bị tài sản cố định dưới 5 tỷ đồng chiếm 86%. Trong các thành phần kinh tế, tỷ suất lợi nhuận của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao nhất và liên tục tăng (từ 9% năm 2000 lên 13% năm 2004). Đáng lo ngại là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước (chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ), với tỷ suất lợi nhuận trên vốn giảm từ 2,3% năm 2001 xuống còn 1,6% năm 2004. Rõ ràng là các doanh nghiệp càng nhỏ, trình độ công nghệ càng yếu, thì tỷ suất lợi nhuận đạt được càng thấp. Khi so sánh tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, chúng ta cũng có một kết luận tương tự. Tính chung tỷ suất lợi nhuận trên vốn và trên doanh thu của các doanh nghiệp đầu tư trong nước đều thấp hơn tỷ lệ lãi suất vay ngân hàng.
Với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của sản phẩm còn rất thấp, năng lực cạnh tranh trên bình diện quốc gia của Việt Nam cũng không mấy khả quan. Mặc dù ổn định kinh tế vĩ mô, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao trong GDP, chính sách đối với FDI được cải thiện... là những yếu tố cơ bản tạo ra tính cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam, thế nhưng theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) về cạnh tranh toàn cầu, Việt Nam luôn nằm ở nhóm nước có năng lực cạnh tranh thấp của thế giới, và năng lực cạnh tranh của Việt Nam hầu như không được cải thiện theo thời gian, thậm chí còn xấu đi: số nước tham gia xếp hạng càng tăng thì thứ hạng cạnh tranh của Việt Nam càng bị tụt xuống. Tại nhiều tiêu chí trong bảng xếp hạng về năng lực cạnh tranh của WEF, Việt Nam đứng cuối bảng. WEF cũng đánh giá trong 15 vấn đề khó giải quyết nhất của Việt Nam và có ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh thì 3 vấn đề nghiêm trọng nhất là lạm phát, sự yếu kém của cơ sở hạ tầng và sự thiếu hụt lao động được đào tạo. Ba vấn đề trên được đánh giá có mức độ nghiêm trọng nhất, vượt trên cả vấn nạn tham nhũng, chính sách không ổn định và căn bệnh thủ tục hành chính.
2. Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, thể hiện ở các vấn đề xã hội và môi trường ngày càng bức xúc
Dưới góc độ xã hội – môi trường, cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét và có chiều hướng gia tăng; chất lượng nguồn nhân lực cũng chưa theo kịp yêu cầu tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế; tỷ lệ thời gian lao động không được sử dụng ở nông thôn vẫn còn cao; tốc độ xoá đói giảm nghèo bắt đầu chững lại trong những năm gần đây; tốc độ suy thoái và ô nhiễm môi trường diễn ra nhanh chóng... Đây là những biểu hiện đáng báo động về chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Lao động và việc làm
Rõ ràng lợi thế về nguồn lao động dồi dào của Việt Nam không được sử dụng hết, thậm chí vẫn đang bị lãng phí nghiêm trọng, bởi cho đến nay, vẫn có tới 4,7% lao động ở thành thị thất nghiệp và gần 20% lao động ở nông thôn chưa được sử dụng. Theo ước tính, số thất thoát thời gian lao động trên tương đương với trên 10 triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn. Đặc biệt, thực tế cho thấy, so sánh giữa tỉnh, thành phố, nơi nào có trình độ phát triển kinh tế càng cao thì tỷ lệ thất nghiệp càng cao, tiêu biểu là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Có thể nói, nguồn lao động lớn chưa sử dụng hoặc sử dụng chưa hiệu quả đang trở thành vấn đề xã hội. Thất nghiệp, thiếu việc làm, không chỉ khiến người lao động không có thu nhập để trang trải cuộc sống, không đủ để tái sản xuất sức lao động, khó thoát được nghèo đói, mà còn dẫn đến nhiều vấn đề xã hội như gây phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội và tội phạm tăng… Sức ép về dân số tiếp tục gia tăng cũng sẽ làm cho tình trạng thiếu việc làm căng thẳng hơn trong thời gian tới.
Nguyên nhân trực tiếp, dễ thấy nhất của tình trạng trên chính là sự chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ còn chậm. Tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng do yếu tố vốn đóng góp còn chiếm tới gần 60%, còn do yếu tố lao động chỉ chiếm khoảng 20% (và do yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp chỉ chiếm trên 20%).
Xóa đói giảm nghèo
Mặc dù Việt Nam đã hoàn thành sớm kế hoạch toàn cầu “giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015” mà Liên hợp quốc đề ra, nhưng thành tựu xoá đói giảm nghèo vẫn chưa vững chắc. Số hộ có mức thu nhập bình quân đầu người nằm ngay cận trên của chuẩn nghèo còn khá nhiều và nguy cơ bị tổn thương của các hộ này trước những đột biến bất lợi còn lớn và khả năng tái nghèo còn cao. Điều này thể hiện ở việc nếu so với mức “chuẩn” cũ của Việt Nam, năm 2008 người nghèo chiếm khoảng 13,5%; còn nếu theo chuẩn mới, tỷ lệ người nghèo sẽ tăng lên 20%. Nhưng, nếu tính theo cách của thế giới thì tỷ lệ này còn cao gấp 2-3 lần.
Điều dễ nhận thấy là người nghèo đang gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Khả năng tiếp cận các dịch vụ, lợi ích của tăng trưởng và thành quả do sự phát triển mang lại cho mọi công dân một cách khách quan và công bằng chưa cao. Chẳng hạn, trong lĩnh vực y tế và giáo dục, báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc về an sinh xã hội cho biết nhóm 20% giàu nhất hưởng 45% các trợ cấp y tế, nhóm 20% nghèo nhất chỉ nhận được 7%; nhóm 20% giàu nhất hưởng 35% các trợ cấp giáo dục, trong khi nhóm 20% nghèo nhất chỉ nhận có 15% (Trần Hải Hạc, 2008). Bởi vậy, chỉ số đói nghèo HPI (tỷ lệ người sống dưới ngưỡng các phương diện phát triển con người) của Việt Nam rất cao, xếp thứ 36/177 quốc gia trong năm 2008. Những người thiếu thốn nhất tại Việt Nam phải chịu cảnh đói nghèo ở nhiều phương diện nhất.
Chất lượng nguồn nhân lực và các vấn đề giáo dục và y tế
Sự phát triển toàn diện con người Việt Nam đã được khẳng định thông qua sự gia tăng vững chắc của chỉ số HDI trong 15 năm qua, và trong báo cáo về phát triển con người của Liên hợp quốc năm 2005, Việt Nam đã được chú ý như một ví dụ thành công tiêu biểu cho nhóm nước đang phát triển cân bằng phát triển kinh tế và phát triển con người. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung ở Việt Nam còn thấp, cơ cấu còn bất hợp lý, chưa đáp ứng tốt nhu cầu đào tạo nhân lực, nhân tài. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến việc tăng cơ hội việc làm và thu nhập, mà còn là yếu tố hạn chế sức cạnh tranh của nền kinh tế và việc nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Theo kết quả điều tra lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê, năm 2007 số người được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng (có trình độ sơ cấp hoặc có chứng chỉ hành nghề trở lên) chỉ chiếm 24%, rất thấp so với các nước trong khu vực. Hơn thế nữa, cơ cấu đào tạo của lực lượng lao động còn nhiều bất hợp lý, số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật còn quá thiếu so với yêu cầu. Đội ngũ lao động trí thức của Việt Nam cũng yếu kém cả về số lượng và chất lượng so với khu vực và thế giới, chưa đáp ứng được yêu cầu triển khai công nghệ mới theo những mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống giáo dục - đào tạo, nhưng chất lượng giáo dục - đào tạo của cả hệ thống giáo dục quốc dân nói chung, vẫn là một vấn đề nhức nhối của cả đất nước trong nhiều năm trở lại đây. Chi cho giáo dục bình quân đầu người ở Việt Nam hiện nay cũng vào loại thấp nhất trong khu vực, và lại tập trung quá nhiều vào giáo dục tiểu học, trong khi cần ưu tiên cho giáo dục đại học để nâng cao nguồn lực con người, hỗ trợ cho nền kinh tế và đảm bảo tốc độ tăng trưởng trong nước. Việc cải cách hệ thống giáo dục được xem như một khâu nền tảng của một chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chưa được triển khai một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực y tế, hiện vẫn còn một số khó khăn và đứng trước nhiều thách thức. Tình trạng quá tải của các cơ sở khám chữa bệnh, đặc biệt là ở các trung tâm, các thành phố lớn, ở các tuyến trên còn ở mức rất cao và kéo dài. Việc chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo còn hạn chế, chi phí cho y tế còn cao, quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực y tế còn buông lỏng, dẫn đến thị trường thuốc chữa bệnh chưa được kiểm soát chặt chẽ, an toàn thực phẩm còn thấp…
Công bằng xã hội và sự phân hóa giàu nghèo
Báo cáo Phát triển con người năm 2005 của UNDP đã ca ngợi Việt Nam đạt được tăng trưởng và vẫn đảm bảo sự công bằng. Theo nhiều nhận xét chuyên gia, hệ số Gini của Việt Nam tương đối ổn định trong giai đoạn 2002-2006 và vào loại trung bình của thế giới. Tuy nhiên, xu hướng bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo vẫn đang ngày càng rõ rệt tại Việt Nam, thể hiện qua hệ số Gini tăng dần theo thời gian: từ 0,35 năm 1993 lên 0,43 năm 2006. Thực tế cho thấy tác động của tăng trưởng kinh tế tới giảm nghèo đang có xu hướng giảm và bất bình đẳng lại tăng lên tương ứng. Năm 1990, sự cách biệt của 20% số hộ giàu nhất và 20% số hộ nghèo nhất chỉ là 4,1 lần; nhưng con số đã tăng lên 8,37 vào năm 2006. Khoảng cách nông thôn – thành thị, sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng trong cả nước ngày càng lớn.
Thực trạng trên trước hết cho thấy sự tồn tại của hai vấn đề: một là chênh lệch chính của một bộ phận người giàu và tình trạng nghèo khó của một bộ phận người nghèo; hai là sự điều tiết của Nhà nước bằng nhiều biện pháp như thuế thu nhập, chính sách phân phối, chính sách xã hội cần làm tốt hơn.
Phân tích sâu hơn, chúng ta có thể thấy mặc dù kinh tế có bước tăng trưởng cao trong những năm qua, nhưng hiệu quả của nó tác động đến người nghèo lại giảm tương đối so với các tầng lớp có thu nhập cao. Theo một kết quả nghiên cứu, người nghèo không được hưởng đầy đủ các kết quả của quá trình tăng trưởng. Nếu tăng trưởng kinh tế tăng 10 điểm phần trăm, thì người nghèo chỉ có thể được hưởng lợi # số đó. Trái lại, nhóm các hộ giàu có thể khai thác nhiều hơn cơ hội tăng trưởng cho phúc lợi của mình. Kết quả là, trong khi tăng trưởng kinh tế góp phần to lớn vào xóa đói giảm nghèo, thì chính nó lại gia tăng thêm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, do thành quả tăng trưởng không được chia sẻ một cách đồng đều mà theo hướng có lợi cho nhóm người vốn đã có cuộc sống dư dật, khá giả hơn. ở đây có sự đánh đổi giữa mục tiêu tăng trưởng và công bằng xã hội. Sở dĩ có tình trạng trên là do tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tập trung vào các ngành đòi hỏi vốn cao, ít lao động và lao động có trình độ cao, điều này chắc chắn tác động trực tiếp đến người nghèo, những người mà bản thân ít vốn liếng, tri thức và trình độ cao để tham gia vào các ngành sản xuất đó. Các chính sách bảo hộ, thay thế nhập khẩu sẽ làm tăng chi phí sản xuất và giá cả sản xuất đối với hàng triệu người nghèo. Cơ hội việc làm, thu nhập, tiếp cận thông tin, tri thức của người nghèo vì thế ngày càng thấp – điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong những năm tiếp theo.
Nền kinh tế Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy tăng trưởng kinh tế mà Đảng và Nhà nước đã xác định là tăng trưởng có chất lượng, tăng trưởng bền vững, tăng trưởng vì con người, vì một xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn, tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, kinh nghiệm của chính nền kinh tế đổi mới của nước ta trong những năm gần đây cho thấy rằng tốc độ tăng trưởng cao không nhất thiết đi liền với xu hướng tạo ra một nền kinh tế mạnh. Bằng việc xác định rõ định hướng phát triển trong dài hạn, Việt Nam cần có sự lựa chọn thứ tự ưu tiên các mục tiêu phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, tài nguyên, môi trường trong từng giai đoạn nhất định, từ đó thực sự có những bước phát triển bền vững.
-----------------------------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo
Năng suất lao động gia tăng chậm chạp trong khi hiệu quả đầu tư giảm sút trong giai đoạn 1991-2005 đã cho chúng ta một cái nhìn khá rõ về chất lượng tăng trưởng dưới góc độ hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, kết quả phân tích mức độ đóng góp của các yếu tố vốn, lao động và năng suất tổng hợp đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam cho thấy, mặc dù chất lượng tăng trưởng phần nào được cải thiện thể hiện qua sự tăng lên của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP hàng năm (từ 14,28% thời kỳ 1992-1997 lên 22,6% thời kỳ 1998-2002 và 28,2% giai đoạn 2003 đến nay), tuy nhiên, tăng trưởng do yếu tố vốn chiếm tới 52,73% và yếu tố lao động chiếm 19,07%; tức cả hai yếu tố này còn chiếm gần 3/4 tổng cả ba yếu tố tác động đến tăng trưởng (Nguyễn Ngọc Sơn, 2008). So sánh với các nước trong khu vực thì tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng hàng năm của Việt Nam còn thấp hơn nhiều, tỷ lệ này của Thái Lan là 35%, của Philippin là 41%, của Indonesia là 43%. Rõ ràng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nghiêng nhiều về số lượng hơn là chất lượng, nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu. Ngay cả trong tăng trưởng chiều rộng thì sự tăng trưởng của nước ta cũng nghiêng nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động (tỷ trọng đóng góp của vốn cao gấp 3 lần tỷ trọng đóng góp của yếu tố lao động). Trong khi đó, vốn là yếu tố mà nước ta còn thiếu, còn lao động là yếu tố mà nước ta rất dồi dào. Kéo dài tình trạng này, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ không bền vững, chất lượng tăng trưởng không được cải thiện, cuối cùng sẽ kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tỷ lệ chi phí trung gian trong tổng giá trị sản xuất, nếu từ năm 1999 trở về trước còn ở dưới mức 48%, thì năm 2000 trở lại đây đã vượt qua mốc 55%. Bình quân trong thời kỳ 1991-2008, trong nhóm ngành nông - lâm nghiệp - thuỷ sản, nếu giá trị sản xuất tăng trên 6,1% thì giá trị gia tăng chỉ đạt khoảng 4,2%, tức là thấp chỉ bằng 2/3; trong ngành công nghiệp, nếu giá trị sản xuất tăng 24,5% thì giá trị tăng thêm chỉ tăng 14,9%. Điều đó chứng tỏ tỷ lệ chi phí trung gian đã tăng lên.
Sức cạnh tranh của nền kinh tế
Năng lực cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước được chia thành ba nhóm: (1) nhóm các sản phẩm có thế mạnh xuất khẩu, (2) nhóm các sản phẩm có thể cạnh tranh trong tương lai, nhưng hiện vẫn cần được bảo hộ, và (3) nhóm các sản phẩm không thể cạnh tranh quốc tế. Đối với nhóm thứ nhất, năng lực cạnh tranh thể hiện ở chỉ tiêu tỷ lệ giá trị xuất khẩu trong giá trị sản xuất của Việt Nam liên tục tăng trong các năm qua. Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu còn chậm, chưa có tính đột phá, các sản phẩm trong nhóm có thế mạnh xuất khẩu chưa khẳng định sự vượt trội về chất lượng và giá trị gia tăng cao. Nhiều mặt hàng kim ngạch tăng chủ yếu dựa vào biến động giá của thị trường thế giới nên sự tăng trưởng này còn mang tính bất ổn, thiếu bền vững. Bên cạnh đó, phần lớn các mặt hàng trong nhóm thứ hai và thứ ba của Việt Nam đã được bảo hộ trong một thời gian dài, tuy nhiên cho đến nay, những hàng hoá thuộc hai nhóm này vẫn có chất lượng kém và giá thành cao, không thể cạnh tranh trên thị trường trong nước chứ chưa nói đến khả năng xuất khẩu.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước được thể hiện rõ nhất qua các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu. Từ năm 2000 đến nay, nhìn chung, hai chỉ tiêu trên của Việt Nam đều thấp, mặc dù có xu thế tăng trong các năm 2000-2004 (tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt 4,85% năm 2004), nhưng lại giảm vào năm 2005 (4,42%). Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ quy mô sản xuất kinh doanh nhìn chung vẫn là nhỏ và siêu nhỏ, đi kèm với trình độ kỹ thuật công nghệ thấp: số doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2005 chiếm tới 96,81%; số doanh nghiệp có trang bị tài sản cố định dưới 5 tỷ đồng chiếm 86%. Trong các thành phần kinh tế, tỷ suất lợi nhuận của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao nhất và liên tục tăng (từ 9% năm 2000 lên 13% năm 2004). Đáng lo ngại là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước (chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ), với tỷ suất lợi nhuận trên vốn giảm từ 2,3% năm 2001 xuống còn 1,6% năm 2004. Rõ ràng là các doanh nghiệp càng nhỏ, trình độ công nghệ càng yếu, thì tỷ suất lợi nhuận đạt được càng thấp. Khi so sánh tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, chúng ta cũng có một kết luận tương tự. Tính chung tỷ suất lợi nhuận trên vốn và trên doanh thu của các doanh nghiệp đầu tư trong nước đều thấp hơn tỷ lệ lãi suất vay ngân hàng.
Với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của sản phẩm còn rất thấp, năng lực cạnh tranh trên bình diện quốc gia của Việt Nam cũng không mấy khả quan. Mặc dù ổn định kinh tế vĩ mô, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao trong GDP, chính sách đối với FDI được cải thiện... là những yếu tố cơ bản tạo ra tính cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam, thế nhưng theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) về cạnh tranh toàn cầu, Việt Nam luôn nằm ở nhóm nước có năng lực cạnh tranh thấp của thế giới, và năng lực cạnh tranh của Việt Nam hầu như không được cải thiện theo thời gian, thậm chí còn xấu đi: số nước tham gia xếp hạng càng tăng thì thứ hạng cạnh tranh của Việt Nam càng bị tụt xuống. Tại nhiều tiêu chí trong bảng xếp hạng về năng lực cạnh tranh của WEF, Việt Nam đứng cuối bảng. WEF cũng đánh giá trong 15 vấn đề khó giải quyết nhất của Việt Nam và có ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh thì 3 vấn đề nghiêm trọng nhất là lạm phát, sự yếu kém của cơ sở hạ tầng và sự thiếu hụt lao động được đào tạo. Ba vấn đề trên được đánh giá có mức độ nghiêm trọng nhất, vượt trên cả vấn nạn tham nhũng, chính sách không ổn định và căn bệnh thủ tục hành chính.
2. Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, thể hiện ở các vấn đề xã hội và môi trường ngày càng bức xúc
Dưới góc độ xã hội – môi trường, cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét và có chiều hướng gia tăng; chất lượng nguồn nhân lực cũng chưa theo kịp yêu cầu tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế; tỷ lệ thời gian lao động không được sử dụng ở nông thôn vẫn còn cao; tốc độ xoá đói giảm nghèo bắt đầu chững lại trong những năm gần đây; tốc độ suy thoái và ô nhiễm môi trường diễn ra nhanh chóng... Đây là những biểu hiện đáng báo động về chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Lao động và việc làm
Rõ ràng lợi thế về nguồn lao động dồi dào của Việt Nam không được sử dụng hết, thậm chí vẫn đang bị lãng phí nghiêm trọng, bởi cho đến nay, vẫn có tới 4,7% lao động ở thành thị thất nghiệp và gần 20% lao động ở nông thôn chưa được sử dụng. Theo ước tính, số thất thoát thời gian lao động trên tương đương với trên 10 triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn. Đặc biệt, thực tế cho thấy, so sánh giữa tỉnh, thành phố, nơi nào có trình độ phát triển kinh tế càng cao thì tỷ lệ thất nghiệp càng cao, tiêu biểu là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Có thể nói, nguồn lao động lớn chưa sử dụng hoặc sử dụng chưa hiệu quả đang trở thành vấn đề xã hội. Thất nghiệp, thiếu việc làm, không chỉ khiến người lao động không có thu nhập để trang trải cuộc sống, không đủ để tái sản xuất sức lao động, khó thoát được nghèo đói, mà còn dẫn đến nhiều vấn đề xã hội như gây phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội và tội phạm tăng… Sức ép về dân số tiếp tục gia tăng cũng sẽ làm cho tình trạng thiếu việc làm căng thẳng hơn trong thời gian tới.
Nguyên nhân trực tiếp, dễ thấy nhất của tình trạng trên chính là sự chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ còn chậm. Tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng do yếu tố vốn đóng góp còn chiếm tới gần 60%, còn do yếu tố lao động chỉ chiếm khoảng 20% (và do yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp chỉ chiếm trên 20%).
Xóa đói giảm nghèo
Mặc dù Việt Nam đã hoàn thành sớm kế hoạch toàn cầu “giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015” mà Liên hợp quốc đề ra, nhưng thành tựu xoá đói giảm nghèo vẫn chưa vững chắc. Số hộ có mức thu nhập bình quân đầu người nằm ngay cận trên của chuẩn nghèo còn khá nhiều và nguy cơ bị tổn thương của các hộ này trước những đột biến bất lợi còn lớn và khả năng tái nghèo còn cao. Điều này thể hiện ở việc nếu so với mức “chuẩn” cũ của Việt Nam, năm 2008 người nghèo chiếm khoảng 13,5%; còn nếu theo chuẩn mới, tỷ lệ người nghèo sẽ tăng lên 20%. Nhưng, nếu tính theo cách của thế giới thì tỷ lệ này còn cao gấp 2-3 lần.
Điều dễ nhận thấy là người nghèo đang gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Khả năng tiếp cận các dịch vụ, lợi ích của tăng trưởng và thành quả do sự phát triển mang lại cho mọi công dân một cách khách quan và công bằng chưa cao. Chẳng hạn, trong lĩnh vực y tế và giáo dục, báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc về an sinh xã hội cho biết nhóm 20% giàu nhất hưởng 45% các trợ cấp y tế, nhóm 20% nghèo nhất chỉ nhận được 7%; nhóm 20% giàu nhất hưởng 35% các trợ cấp giáo dục, trong khi nhóm 20% nghèo nhất chỉ nhận có 15% (Trần Hải Hạc, 2008). Bởi vậy, chỉ số đói nghèo HPI (tỷ lệ người sống dưới ngưỡng các phương diện phát triển con người) của Việt Nam rất cao, xếp thứ 36/177 quốc gia trong năm 2008. Những người thiếu thốn nhất tại Việt Nam phải chịu cảnh đói nghèo ở nhiều phương diện nhất.
Chất lượng nguồn nhân lực và các vấn đề giáo dục và y tế
Sự phát triển toàn diện con người Việt Nam đã được khẳng định thông qua sự gia tăng vững chắc của chỉ số HDI trong 15 năm qua, và trong báo cáo về phát triển con người của Liên hợp quốc năm 2005, Việt Nam đã được chú ý như một ví dụ thành công tiêu biểu cho nhóm nước đang phát triển cân bằng phát triển kinh tế và phát triển con người. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung ở Việt Nam còn thấp, cơ cấu còn bất hợp lý, chưa đáp ứng tốt nhu cầu đào tạo nhân lực, nhân tài. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến việc tăng cơ hội việc làm và thu nhập, mà còn là yếu tố hạn chế sức cạnh tranh của nền kinh tế và việc nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Theo kết quả điều tra lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê, năm 2007 số người được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng (có trình độ sơ cấp hoặc có chứng chỉ hành nghề trở lên) chỉ chiếm 24%, rất thấp so với các nước trong khu vực. Hơn thế nữa, cơ cấu đào tạo của lực lượng lao động còn nhiều bất hợp lý, số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật còn quá thiếu so với yêu cầu. Đội ngũ lao động trí thức của Việt Nam cũng yếu kém cả về số lượng và chất lượng so với khu vực và thế giới, chưa đáp ứng được yêu cầu triển khai công nghệ mới theo những mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống giáo dục - đào tạo, nhưng chất lượng giáo dục - đào tạo của cả hệ thống giáo dục quốc dân nói chung, vẫn là một vấn đề nhức nhối của cả đất nước trong nhiều năm trở lại đây. Chi cho giáo dục bình quân đầu người ở Việt Nam hiện nay cũng vào loại thấp nhất trong khu vực, và lại tập trung quá nhiều vào giáo dục tiểu học, trong khi cần ưu tiên cho giáo dục đại học để nâng cao nguồn lực con người, hỗ trợ cho nền kinh tế và đảm bảo tốc độ tăng trưởng trong nước. Việc cải cách hệ thống giáo dục được xem như một khâu nền tảng của một chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chưa được triển khai một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực y tế, hiện vẫn còn một số khó khăn và đứng trước nhiều thách thức. Tình trạng quá tải của các cơ sở khám chữa bệnh, đặc biệt là ở các trung tâm, các thành phố lớn, ở các tuyến trên còn ở mức rất cao và kéo dài. Việc chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo còn hạn chế, chi phí cho y tế còn cao, quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực y tế còn buông lỏng, dẫn đến thị trường thuốc chữa bệnh chưa được kiểm soát chặt chẽ, an toàn thực phẩm còn thấp…
Công bằng xã hội và sự phân hóa giàu nghèo
Báo cáo Phát triển con người năm 2005 của UNDP đã ca ngợi Việt Nam đạt được tăng trưởng và vẫn đảm bảo sự công bằng. Theo nhiều nhận xét chuyên gia, hệ số Gini của Việt Nam tương đối ổn định trong giai đoạn 2002-2006 và vào loại trung bình của thế giới. Tuy nhiên, xu hướng bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo vẫn đang ngày càng rõ rệt tại Việt Nam, thể hiện qua hệ số Gini tăng dần theo thời gian: từ 0,35 năm 1993 lên 0,43 năm 2006. Thực tế cho thấy tác động của tăng trưởng kinh tế tới giảm nghèo đang có xu hướng giảm và bất bình đẳng lại tăng lên tương ứng. Năm 1990, sự cách biệt của 20% số hộ giàu nhất và 20% số hộ nghèo nhất chỉ là 4,1 lần; nhưng con số đã tăng lên 8,37 vào năm 2006. Khoảng cách nông thôn – thành thị, sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng trong cả nước ngày càng lớn.
Thực trạng trên trước hết cho thấy sự tồn tại của hai vấn đề: một là chênh lệch chính của một bộ phận người giàu và tình trạng nghèo khó của một bộ phận người nghèo; hai là sự điều tiết của Nhà nước bằng nhiều biện pháp như thuế thu nhập, chính sách phân phối, chính sách xã hội cần làm tốt hơn.
Phân tích sâu hơn, chúng ta có thể thấy mặc dù kinh tế có bước tăng trưởng cao trong những năm qua, nhưng hiệu quả của nó tác động đến người nghèo lại giảm tương đối so với các tầng lớp có thu nhập cao. Theo một kết quả nghiên cứu, người nghèo không được hưởng đầy đủ các kết quả của quá trình tăng trưởng. Nếu tăng trưởng kinh tế tăng 10 điểm phần trăm, thì người nghèo chỉ có thể được hưởng lợi # số đó. Trái lại, nhóm các hộ giàu có thể khai thác nhiều hơn cơ hội tăng trưởng cho phúc lợi của mình. Kết quả là, trong khi tăng trưởng kinh tế góp phần to lớn vào xóa đói giảm nghèo, thì chính nó lại gia tăng thêm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, do thành quả tăng trưởng không được chia sẻ một cách đồng đều mà theo hướng có lợi cho nhóm người vốn đã có cuộc sống dư dật, khá giả hơn. ở đây có sự đánh đổi giữa mục tiêu tăng trưởng và công bằng xã hội. Sở dĩ có tình trạng trên là do tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tập trung vào các ngành đòi hỏi vốn cao, ít lao động và lao động có trình độ cao, điều này chắc chắn tác động trực tiếp đến người nghèo, những người mà bản thân ít vốn liếng, tri thức và trình độ cao để tham gia vào các ngành sản xuất đó. Các chính sách bảo hộ, thay thế nhập khẩu sẽ làm tăng chi phí sản xuất và giá cả sản xuất đối với hàng triệu người nghèo. Cơ hội việc làm, thu nhập, tiếp cận thông tin, tri thức của người nghèo vì thế ngày càng thấp – điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong những năm tiếp theo.
Nền kinh tế Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy tăng trưởng kinh tế mà Đảng và Nhà nước đã xác định là tăng trưởng có chất lượng, tăng trưởng bền vững, tăng trưởng vì con người, vì một xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn, tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, kinh nghiệm của chính nền kinh tế đổi mới của nước ta trong những năm gần đây cho thấy rằng tốc độ tăng trưởng cao không nhất thiết đi liền với xu hướng tạo ra một nền kinh tế mạnh. Bằng việc xác định rõ định hướng phát triển trong dài hạn, Việt Nam cần có sự lựa chọn thứ tự ưu tiên các mục tiêu phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, tài nguyên, môi trường trong từng giai đoạn nhất định, từ đó thực sự có những bước phát triển bền vững.
-----------------------------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006-2010
- Hội đồng phát triển thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) của LHQ (1992), Báo cáo “Tương lai của chúng ta.
- Ngân hàng Thế giới (2003), Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 – Nghèo, Hội nghị các nhà tài trợ Việt Nam, Hà Nội ngày 02/12/2003.
- Nguyễn Ngọc Sơn (2008), Tiết kiệm – Đầu tư và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, [http://www.vdf.org.vn/Doc/2008/VDFConf_WIPSonVie.pdf]
- Nguyễn Văn Nam và Trần Thọ Đạt (2006), Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Nxb. ĐH Kinh tế Quốc dân.
- Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê 2008, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
- Trần Hải Hạc (2008), Tăng trưởng “vì người nghèo” - WB và Việt Nam, [http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/doisong/9530/]
- Trần Thọ Đạt (2005), Source of Vietnam’s Economic Growth, 1986-2004, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
- VnEconomy (2009), “Nóng” chuyện ICOR tại Quốc hội, [http://www.vneconomy.vn/20091022011552572P0C9920/nong-chuyen-icor-tai-quoc-hoi.htm]