Thứ Ba, 5 tháng 7, 2011

Tái cơ cấu kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu: Kinh nghiệm của các nước và khuyến nghị cho Việt Nam

PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn http://www.ktpt.edu.vn/website/204_tai-co-cau-kinh-te-sau-khung-hoang-tai-chinh-toan-cau-kinh-nghiem-cua-cac-nuoc-va-khuyen-nghi-cho-viet-nam.aspx
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã phần nào làm rõ hơn những nút thắt cổ chai đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Để tạo tiền đề cho tăng trưởng bền vững trong thời gian tới, vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tạo ra những động lực mới cho tăng trưởng giống như những năm đầu đổi mới. Mục đích của bài  viết là phân tích tính cấp thiết của tái cơ cấu kinh tế Việt Nam, những bài học kinh nghiệm của một số quốc gia và đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về tái cơ cấu kinh tế.

1. Tính cấp thiết của việc tái cơ cấu kinh tế

Tính cấp thiết của tái cơ cấu kinh tế được thể hiện thông qua các nhân tố sau:

Thứ nhất, tháng 8 năm 2007 bóng bóng cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ bùng nổ và chỉ sau hai tháng cuộc khủng hoảng cho vay địa ốc dưới chuẩn đã làm suy sụp niềm tin của hệ thống tài chính ở Mỹ và Châu Âu và là điểm khởi đầu của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008. Cho đến nay các nền kinh tế lớn trên thế giới vẫn đang còn nằm trong suy thoái, mới chỉ có một vài quốc gia có dấu hiệu phục hồi. Mặt khác, trong thập niên qua giá xăng dầu, nguyên vật liệu trên thế giới tăng nhanh đã tác động mạnh đến nền kinh tế toàn cầu buộc các quốc gia xem xét lại chiến lược phát triển của mình. Vấn đề tái cơ cấu kinh tế được quan tâm nhiều nhất trong những năm trở lại đây. Cuộc khủng hoảng này cũng cho thấy chiến lược hướng ra thị trường quá mức có thể đưa tới những khó khăn nghiêm trọng khi thị trường nước ngoài chao đảo. Do đó, trong thời gian tới trên thế giới sẽ diễn ra xu thế cơ cấu lại nền kinh tế và thị trường theo hướng cân bằng hơn giữa thị trường trong nước và nước ngoài, nhất là ở các nền kinh tế có dung lượng thị trường nội địa lớn.

Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với nội dung chủ yếu là cách mạng trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, có đặc trưng nổi bật là sự thâm nhập nhanh của tri thức và công nghệ cao vào tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, và quyết định xu hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới đang tác động rất mạnh mẽ đến các nền kinh tế trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam. Người ta gọi nền kinh tế này bằng những khái niệm khác nhau như nền kinh tế kỹ thuật số (digital economy), kinh tế thông tin (information economy), kinh tế mạng (network economy).

Thứ ba, lý thuyết địa kinh tế mới1  là một cơ sở cho tái cơ cấu kinh tế cũng cho rằng  một nền kinh tế sẽ hoạt động tốt hơn khi dựa trên: i) mật độ kinh tế cao hơn thể hiện thông qua mức độ tập trung của hoạt động kinh tế hay tổng sức mua trên trên một đơn vị diện tích bề mặt, ví dụ như GDP trên một km2; ii) khoảng cách ngắn hơn, được đo lường thông qua mức độ khó dễ trong việc tiếp cận thị trường và iii) ít sự chia cắt hơn được thể hiện thông qua giảm các rào cản đối với những tương tác kinh tế, các nước làm mỏng các đường biên giới của mình và tham gia sâu rộng hơn vào thị trường thế giới để tranh thủ lợi thế quy mô và chuyên môn hóa.

Thứ tư, xu hướng toàn cầu hóa ngày càng gia tăng được biểu hiện chủ yếu qua sự mở rộng thương mại hàng hóa và dịch vụ, sự di chuyển vốn và lao động, hình thành mạng lưới sản xuất quốc tế và các cơ chế quốc tế điều hành hoạt động kinh tế toàn cầu đang lan rộng chưa từng thấy. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động rất mạnh đến hầu hết các quốc gia trên thế giới. Do đó sẽ có một sự dịch chuyển rất mạnh trong cấu trúc kinh tế toàn cầu. Kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế của từng quốc gia nói riêng sẽ được cơ cấu lại, trong đó các ngành, các sản phẩm tiết kiệm năng lượng thân thiện với môi trường sẽ được quan tâm hơn. Sự hình thành mạng lưới sản xuất, dịch vụ quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu là một đặc điểm nổi bật của toàn cầu hóa kinh tế và nó còn làm cho tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng.

Tái cơ cấu kinh tế đã được đề cập đến từ lâu ở Việt Nam, tuy nhiên đến tận thời kỳ bùng nổ lạm phát nghiêm trọng cuối năm 2008 và suy thoái kinh tế từ đầu năm 2009 đến nay thì vấn đề tái cơ cấu kinh tế càng được quan tâm. Việt Nam đã thay đổi rất nhiều sau 20 năm đổi mới với thành tích tăng trưởng cao và đạt được sự tiến bộ trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Việt Nam ngày càng được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và có những ảnh hướng nhất định trong khu vực và quốc tế. Có được thành công này một phần là nhờ vào giải phóng lực lượng sản xuất, thu hút FDI, xuất khẩu và hội nhập vào khu vực và toàn cầu. Điều này làm cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng trở nên phức tạp và bị tác động mạnh từ những “cú hích” của nền kinh tế thế giới. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã phần nào làm rõ hơn những nút thắt cổ chai đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới như: chất lượng tăng trưởng và hiệu quả của nền kinh tế thấp, sự yếu kém của hệ thống tài chính, cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp hỗ trợ, năng lực cạnh tranh, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao và các vấn đề xã hội phát sinh. Để tạo tiền đề cho tăng trưởng bền vững trong dài hạn vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là tái cấu trúc nền kinh tế nhằm tạo ra những động lực mới cho tăng trưởng giống như những năm đầu của thời kỳ đổi mới.

2. Nội dung của tái cơ cấu kinh tế

Thuật ngữ “tái cấu trúc” hay “tái cơ cấu” mới chỉ xuất hiện gần đây. Theo từ điển Oxford tái cơ cấu là tổ chức lại một cái gì đó như là một hệ thống hoặc một công ty theo một cách mới và khác hẳn”. Theo từ điển Cambridge tái cấu trúc là tổ chức một công ty, một công việc kinh doanh hoặc một hệ thống để nó vận hành hiệu quả hơn”. Hoặc từ điển Robert của Pháp định nghĩa “Tai cơ cấu là mang lại một cấu trúc mới, một cách tổ chức mới”.

Từ các quan niệm về tái cơ cấu kinh tế như trên, có thể định nghĩa  tái cơ cấu  nền kinh tế chính là tổ chức lại nền kinh tế bằng cách hình thành mới, bỏ đi, tăng hay giảm các ngành, các lĩnh vực, bộ phận kinh tế hoặc định hướng lại các ngành, bộ phận lĩnh vực của nền kinh tế để nó vận hành hiệu quả hơn.

Tái cơ cấu kinh tế có thể hiểu theo nghĩa rộng hoặc theo nghĩa hẹp. Tái cơ cấu theo nghĩa rộng là một quá trình cải tổ, chuyển đổi cách thức tổ chức và hoạt động của một nền kinh tế theo hướng giải phóng tối đa các nguồn lực kinh tế khan hiếm của xã hội nhằm phân bổ lại một cách có hiệu quả các nguồn lực này vào các khu vực sản xuất kinh tế năng động, mang lại giá trị gia tăng tối đa cho toàn xã hội. Các khu vực sản xuất này là động lực của quá trình phát triển kinh tế đất nước. Tái cơ cấu kinh tế phải được thực hiện trên cả ba khía cạnh của phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và môi trường. Theo nghĩa hẹp, khái niệm tái cơ cấu kinh tế thay đổi tùy theo điều kiện của từng nước trong từng giai đoạn phát triển nhất định, bao gồm quá trình chuyển dịch từ lao động thủ công sang sản xuất công nghiệp sử dụng máy móc hiện đại; quá trình điều chỉnh từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ; quá trình chuyển đổi chiến lược công nghiệp từ sản xuất hàng tiêu dùng sử dụng nhiều lao động với giá trị gia tăng thấp sang công nghiệp hiện đại sử dụng cao hàm lượng vốn và công nghệ; với nền kinh tế tri thức; quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế hướng nội khai thác thị trường trong nước, sản xuất hàng thay thế nhập khẩu sang nền kinh tế hướng ngoại, khai thác thị trường toàn cầu, định hướng xuất khẩu; quá trình điều chỉnh từ  bảo hộ mậu dịch sang tự do hóa thương mại và đầu tư; quá trình điều chỉnh chế độ sở hữu từ sở hữu nhà nước sang xã hội hóa các loại hình sở hữu; quá trình điều chỉnh từ nền kinh tế chịu sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ sang cơ chế thị trường; quá trình điều chỉnh phân phối thu nhập để đảm bảo xóa đói, giảm nghèo, công bằng và ổn định.

Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân trong những điều kiện về thời gian và không gian nhất định. Các mối quan hệ này được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau cho nên tái cơ cấu kinh tế cũng được phân thành nhiều loại như: tái cơ cấu sở hữu, tái cơ cấu tái sản xuất xã hội, tái cơ cấu ngành kinh tế, tái cơ cấu vùng lãnh thổ hoặc là tái cơ cấu khu vực thể chế. Quá trình phát triển kinh tế cũng đồng thời là quá trình làm thay đổi các loại cơ cấu nêu trên, kể cả những quan hệ về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, trong điều kiện bị tác động mạnh của cuộc khủng hoảng với những đảo lộn về nhu cầu và thị trường sẽ có những thay đổi lớn về cơ cấu kinh tế của các nước trên thế giới.

Tái cơ cấu kinh tế được thực hiện trên các cấp độ sau:

- Ở tầm vĩ mô là tái cơ cấu toàn bộ nền kinh tế bao gồm cơ cấu lại ngành nghề, vùng lãnh thổ, sản phẩm, nguồn nhân lực và các loại thị trường. Cần định vị đúng mục tiêu dài hạn và trước mắt của nền kinh tế, từ đó xác định những định hướng chiến lược cho từng thời kỳ.

- Tái cơ cấu ngành kinh tế: trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các chiến lược cơ cấu và tái cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia không chỉ thuần túy được nhìn nhận từ góc độ chuyển dịch ngành kinh tế trong phạm vi từng quốc gia như cách tiếp cận truyền thống. Tái cơ cấu ngày nay còn phải tính đến sự hoạt động của mạng lưới sản xuất đa quốc gia được sử hỗ trợ của mạng lới thông tin internet toàn cầu và chuỗi giá trị toàn cầu. Ngành kinh tế cần phải cơ cấu lại theo hướng các ngành các sản phẩm tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường và có sức cạnh tranh cao.

- Tái cơ cấu vùng được thực hiện thông qua tái phân bổ lượng sản xuất theo vùng. Cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu ngành kinh tế thực chất là hai mặt của một thể thống nhất và đều là biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Tái cơ cấu vùng dựa trên lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của từng vùng, từng địa phương, tăng cường sự kết nối, bổ sung cho nhau giữa các vùng thành một nền kinh tế thống nhất, kết nối hiệu quả với khu vực và kinh tế thế giới. Tái cơ cấu vùng trong điều kiện mới cần đi cùng với tái định dạng địa kinh tế dựa trên lý thuyết địa kinh tế mới theo hướng mật độ cao hơn, khoảng cách ngắn hơn và ít chia cắt hơn như là những yếu tố điều kiện thiết yếu để có được thành công về kinh tế. Trước đây Mỹ, Nhật Bản đã tái định dạng địa kinh tế của họ tế theo hướng mật độ cao hơn, khoảng cách ngắn hơn và ít sự chia cắt hơn2 , ngày nay Trung Quốc đang tái dựng lại địa kinh tế của mình và đã được những thành công nhất định.

- Tái cơ cấu các hình thức sở hữu cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ. Loại cơ cấu này phản ánh mối quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữa các chủ thể tham gia vào quá trình tăng trưởng và phát triển. Tái cơ cấu các hình thức sở hữu cần chú trọng nâng cao vai trò và vị trí của khu vực kinh tế tư nhân.

- Tái cấu trúc thị trường, bao gồm thị trường hàng hóa dịch vụ; thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường tiền tệ và thị trường đầu tư. Tái cơ cấu thị trường sau khủng hoảng cần theo hướng cân bằng hơn giữa thị trường trong nước và nước ngoài, nhất là ở các nền kinh tế có dung lượng thị trường nội địa lớn.

- Tái cơ cấu đầu tư là tái cơ cấu nguồn vốn huy động cũng như tái phân bổ sử dụng vốn đầu tư toàn xã hội bao gồm đầu tư nhà nước, đầu tư của doanh nghiệp và đầu tư hộ gia đình. Tái cơ cấu đầu tư cần theo hướng cân đối giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tái cơ cấu theo hướng giải phóng mạnh hơn các nguồn vốn tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân và dân cư cùng với cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nguồn vốn FDI.

- Tái cơ cấu khu vực thể chế, bao gồm các công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế như công cụ tài chính, chính sách pháp luật và môi trường đầu tư, kinh doanh. Tái cơ cấu khu vực tài chính là tái cơ cấu toàn bộ định chế tài chính, có nghĩa là tổ chức sắp xếp lại, thiết kế lại các bộ phận và mối quan hệ giữa các bộ phận này trong hệ thống tài chính, nhằm làm cho hệ thống tài chính có khả năng thích ứng và vận hành hiệu quả hơn.

- Tái cơ cấu hệ thống các doanh nghiệp, những tế bào quan trọng của nền kinh tế. Tái cơ cấu doanh nghiệp là quá trình tái thiết kế một hay nhiều mặt của một doanh nghiệp. Mục tiêu chung của tái cơ cấu doanh nghiệp là tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp nhằm đạt được một thể trạng tốt hơn cho doanh nghiệp, để doanh nghiệp vận hành hiệu quả hơn và thích nghi hơn trong điều kiện mới.

Tái cơ cấu nền kinh tế có thể diễn ra theo tin hiệu của thị trường hoặc do sự can thiệp của nhà nước hoặc kết hợp cả hai.

- Tái cơ cấu kinh tế theo tín hiệu thị trường là quá trình chuyển dịch cơ cấu theo dẫn dắt dắt của thị trường và người đầu tư kỳ vọng vào các lợi nhuận nhận được khi đầu tư và xu hướng này nằm ngoài tầm kiểm soát của quản lý nhà nước. Tái cơ cấu theo tín hiệu thị trường diễn ra dựa vào tín hiệu của thị trường như cung, cầu và giá của các sản phẩm, dịch vụ hoặc hoặc sự hấp dẫn của các ngành, các vùng, mà thiếu sự dẫn dắt của nhà nước thông qua các chính sách, định hướng. Tái cơ cấu theo tín hiệu thị trường có thể tạo ra các “bùng nổ” về đầu tư vào một lĩnh vực, một ngành nào đó đang được ưu chuộng. Tái cấu theo tín hiệu thị trường có thể sẽ làm cho nguồn lực không đến được các ngành, vùng hay lĩnh vực mà nhà nước ưu tiên phát triển hay các ngành có ý nghĩa đối với sự phát triển của quốc gia trong dài hạn (ví dụ công nghệ sạch, nông nghiệp sạch….)

- Tái cơ cấu kinh tế có chủ đích là tái cơ cấu kinh tế theo mục tiêu xác định trước và có sự can thiệp, điều chỉnh của nhà nước vì lợi ích kinh tế toàn xã hội. Thông qua vai trò của mình nhà nước thực hiện chính sách phát triển ngành, vùng trong đó có ưu tiên các ngành mũi nhọn, ngành công nghiệp xanh, sử dụng ít năng lượng…nhằm tái cơ cấu theo các mục tiêu đề ra. Nhà nước có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp đến cơ cấu ngành, vùng.

3. Kinh nghiệm về tái cơ cấu kinh tế của một số nước trên thế giới

Thái Lan

Thái Lan từ một nước Đông Nam Á đang trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp sang một nền kinh tế thu nhập trung bình cao với ngành chế tác và các ngành dịch vụ đa dạng. Thái Lan đã bắt đầu tái cơ cấu nền kinh tế của mình sau khủng hoảng tài chính năm 1997 và trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2007 – 2011 của Thái Lan nêu rõ tái cơ cấu kinh tế là cần thiết để đạt được cân bằng và bền vững phù hợp với nguyên tắc hài hòa, hợp lý và miễn nhiễm.

Các chiến lược về tái cơ cấu kinh tế của Thái Lan tập trung vào:

Thứ nhất, tái cơ cấu ngành kinh tế theo hướng: i) tái cơ cấu sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động và tăng thêm giá trị cho các hàng hóa và dịch vụ, trên cơ sở tri thức bản địa và văn hóa Thái Lan; ii) xây dựng các hệ thống miễn nhiễm và quản lý rủi ro cho các lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ, thị trường tài chính, tài nguyên thiên nhiên, cũng như hệ thống tài khóa; iii) phát triển nông nghiệp thành cơ sở lương thực an toàn và đầy đủ cho thế giới; iv) nâng cao chuỗi giá trị trong công nghiệp, thông qua hợp nhất các khu vực hợp nhất khác nhau như phát triển các cụm công nghiệp và ứng dụng các công nghệ giảm tiêu thụ năng lượng cũng như sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.

Thứ hai, tái cơ cấu đầu tư theo hướng khuyến khích tiết kiệm trọng nước để tăng cường năng lực đầu tư của quốc gia và thực hiện an sinh xã hội, và giảm bớt mức độ phụ thuộc vào vốn nước ngoài, nhất là vốn vay và vốn cổ phần ngắn hạn. Tái cơ cấu quản lý thích đáng tài chính để tạo ra cân đối ngân sách trong tầm trung hạn và tạo điều kiện cho sản xuất trong nước bằng cách huy động vốn theo hướng hình thành các khu vực hiệu quả.

Thứ ba, tái cơ cấu hình thức phân phối theo hướng cạnh tranh và phân phối của cải bình đẳng và thúc đẩy phân phối công bằng các lợi ích kinh tế của toàn bộ tăng trưởng trong toàn xã hội.

Thứ tư, tái cơ cấu theo hướng nâng cao hiệu quả tiêu thụ năng lượng và phát triển các nguồn năng lượng thay thế nhằm giảm mức độ nhạy cảm về năng lượng và mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu.

Liên bang Nga

Nga là một trong những nước chịu ảnh hưởng mạnh nhất từ suy thoái kinh tế toàn cầu. Kinh tế Nga, nền kinh tế tăng trưởng nhảy vọt theo giá hàng hoá trong thời kỳ kinh tế thuận lợi, đã đương đầu với tình trạng suy giảm và sau đó tăng trưởng âm khoảng 7,5% năm 2009. Còn nhiều yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến kinh tế Nga bao gồm tiêu dùng nội địa thấp, tăng trưởng kinh tế toàn cầu thấp, tín dụng thắt chặt, đầu tư cơ sở hạ tầng kém. Để đối phó với tình trạng này LB Nga đã thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế theo các hướng sau:

Một là, tái cơ cấu ngành bao gồm: thúc đẩy đầu tư vào phát triển các ngành công nghiệp phi năng lượng như công nghiệp chế tạo, công nghiệp phần mềm, công nghiệp chế biến thực phẩm, gỗ; thúc đẩy phát triển nông nghiệp đặc biệt là sản xuất lúa mì lúa mạch để đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu trong điều kiện giá lương thực trê thế giới tăng nhanh.

Hai là, tái cơ cấu thương mại quốc tế và đầu tư theo hướng: i) Chuyển từ xuất khẩu nhiên liệu, sản phẩm thô và tài nguyên sang xuất khẩu các sản phẩm chế biến hoặc qua chế biến; ii) Thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước thay vì huy động nguồn vốn vay thương mại hay đầu tư gián tiếp.

Ba là, tái cơ cấu sở hữu theo hướng thúc đẩy tư nhân hóa, bao gồm cả chuyển sang sở hữu tư nhân các tài sản của các DNNN và bất động sản.

Bốn là, tái cơ cấu đầu tư theo hướng tăng cường đầu tư cho R&D và tạo dựng một hệ thống có hiệu lực về chỉ thị của nhà nước cho các dòng sản phẩm quốc phòng, bảo đảm sự cân bằng trong chuyển giao các loại vũ khí, trang thiết bị hiện đại cho nhu cầu cần thiết của nội địa và trên thế giới.

Năm là, tái cơ cấu thị trường tài chính, hệ thống ngân hàng theo hướng giảm bớt mức độ đô la hóa, giảm sử dụng tiền mạch và tăng tính minh bạch của hệ thống ngân hàng.

Để thực hiện chiến lược toàn cầu,  tái cơ cấu kinh tế cần có lộ trình chiến lược cho cả Nga và các đối tác của LB Nga. Đó là định hướng lại cơ cấu kinh tế nhằm củng cố quan hệ hội nhập trong khuôn khổ các nước SNG và cùng nhau thâm nhập vào thị trường thứ ba, hỗ trợ xuất khẩu sản phẩm chế biến và nhập khẩu công nghệ cao.

Hàn Quốc:

Hàn Quốc đã trải qua cuộc khủng hoảng tài chính vào cuối năm 2007. Chương trình tài cơ cấu nền kinh tế đã giúp Hàn Quốc tiếp tục phát triển và phòng tránh tốt trước những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Bằng những chính sách phản ứng kịp thời và mạnh mẽ nhất với những nguyên tắc, chiến lược tái cơ cấu trên 6 lĩnh vực được thực hiện: tài chính và doanh nghiệp, hệ thống giám sát tài chính, thủ tục phá sản, quản trị doanh nghiệp chính sách vĩ mô, mạng lưới an sinh xã hội và cấu trúc tài chính quốc tế Hàn Quốc đã đạt được những thay đổi tích cực về hiện đại hóa khuôn khổ pháp lý, thể chế thị trường tài chính thông lệ kinh doanh, năng lực của chính phủ trong đối phó với nguy cơ tiềm ẩn và suy thoái kinh tế. Kết quả từ những chính sách này đem lại khá khả quan. Chỉ hai năm sau khủng hoảng tài chính năm 2007, 346 công ty tài chính (16,5% tổng số công ty) đã bị đóng cửa hoặc phá sản, 18 tập đoàn trong tổng số 30 tập đoàn lớn phá sản hoặc phải thay đổi các cổ đông chính. Cơ cấu tài chính được cải thiện đáng kể, tỉ lệ nợ/vốn trung bình cải thiện từ hơn 400% xuống khoảng 120%, vốn cho vay của các Ngân hàng lên tới 21 tỉ USD. Chính phủ đã bơm ra 168,5 nghìn tỉ won (12% GDP) và 91,7 nghìn tỉ won đã thu hồi (tính đến năm 2008). Cơ quan giảm sát thống nhất được thành lập với nhiệm vụ kiểm soát ngoại hối và dự trữ bắt buộc. Trong bối cảnh thị trường suy giảm và vòng luẩn quẩn của tình trạng vỡ nợ ngày càng tăng, thì quá trình tái cơ cấu là thực sự cần thiết. Tuy nhiên, để tái cơ cấu đạt được hiệu quả thì quá trình này phải được theo đuổi với một khuôn khổ nhất quán. Vì thế, cần nhanh chóng hình thành cơ sở pháp lý để nâng cao tính khách quan của hoạt động tái cơ cấu. Hàn Quốc nhấn mạnh vào việc thường xuyên cải thiện tất cả các hệ thống của nền kinh tế đặc biệt là 6 lĩnh vực trên trong ngăn chặn và vượt qua khủng hoảng tài chính thường xuyên tái diễn.

Trung Quốc

Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới dù tác động tiêu cực đến nền kinh tế Trung Quốc, nhưng cũng có mặt tích cực là nó làm lộ ra những yếu kém tồn tại lâu nay về mô hình phát triển của nước này. Cuộc khủng hoảng đã chấm dứt chuỗi thời gian thành công của mô hình công nghiệp chế biến dựa vào xuất khẩu, lệ thuộc vào thị trường bên ngoài. Vấn đề tái cơ cấu kinh tế được đặt ra theo các hướng sau:

Thứ nhất, chuyển đổi kiểu tăng trưởng dựa vào việc tiếp tục đẩy nhanh cải cách định hướng thị trường nhằm duy trì tăng trưởng và thúc đẩy thị trường, phát huy những yếu tố tiềm năng cho tăng trưởng theo các hướng sau: i) Triệt để cơ cấu lại thị trường nhân tố sản xuất do sự lạc hậu của thị trường nhân tố sản xuất như vốn, đất đai; ii) Cải cách hệ thống quyền về tài sản chưa triệt để; iii) Cải cách hệ thống tài chính.
  

Thứ hai, tăng trưởng cần đi đôi với tạo việc làm bằng cách thay đổi mô hình tăng trưởng được cho là không còn phù hợp nữa. Mô hình tăng trưởng mới chú trọng hơn đến chất lượng và hiệu quả tăng trưởng và thực hiện sự phát triển xanh.

Thứ ba, tiếp tục cải cách theo hướng thị trường, bao gồm: i) Cải cách cơ cấu, giảm và xóa bỏ độc quyền, chú trọng chính sách vĩ mô trong trung hạn  thay vì quá tập trung vào chính sách ngắn hạn như hiện nay; ii) Cải cách lĩnh vực xã hội hướng tới người dễ bị tổn thương, tăng dịch vụ công nhằm tạo lòng tin đối với người dân, đồng thời có tác dụng kích cầu trong ngắn hạn. Vấn đề dài hạn là kết hợp cải cách kinh tế, cải cách xã hội và cải cách dịch vụ công; iii) Tiếp tục mở cửa kinh tế, tăng cường hợp tác để chống bảo hộ mậu dịch, tăng hợp tác trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ với các nước khác; iv) Tăng cường điều chỉnh chính sách đối với các ngành được bảo hộ trước đây hay các ngành đang bị thu hẹp trong quá trình hội nhập.

Thứ tư, chiến lược phát triển của Trung Quốc sẽ hướng nội nhiều hơn so với trước đây, kích thích tiêu dùng nội địa nhiều hơn, đưa tiêu dùng nội địa thành động lực của tăng trưởng, đảm bảo phát triển trên cơ sở kết hợp hài hòa thị trường nội địa và xuất khẩu;  khuyến khích và củng cố các ngành then chốt bao gồm cả các ngành công nghiệp mũi nhọn.

Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam:

- Tái cơ cấu phải được thực hiện ở tất cảc các cấp độ của nền kinh tế bao gồm tái cơ cấu toàn bộ nền kinh tế, tái cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và tái cơ cấu các doanh nghiệp.

- Tái cơ cấu đi phải đi cùng với nó là thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng thị trường, nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,  phát triển xanh và thân thiện với môi trường.

- Tái cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu thông qua việc tham gia ngày càng sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu của các ngành, cũng như các mạng lưới sản xuất khu vực và quốc tế.

- Tái cơ cấu kinh tế cần chú trọng cân đối giữa nguồn tiết kiệm trong nước và tiết kiệm nước ngoài để tránh phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn nước ngoài, cân đối giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.

- Tái cơ cấu nền kinh tế phải theo hướng nâng cao hiệu quả tiêu thụ năng lượng và phát triển các nguồn năng lượng thay thế nhằm giảm mức độ nhạy cảm về năng lượng và mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu.

- Tái cơ cấu theo hướng phát triển dựa trên quan hệ hài hòa giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Nền kinh tế phát triển theo hướng “đứng vững trên hai chân” một mặt đẩy mạnh xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, mặt khác tăng cường phục vụ thị trường nội địa và thúc đẩy đầu tư trong nội bộ nền kinh tế.

- Để tái cơ cấu đạt được hiệu quả thì quá trình này phải được theo đuổi với một khuôn khổ nhất quán và cần nhanh chóng hình thành cơ sở pháp lý để nâng cao tính khách quan của hoạt động tái cơ cấu. Cần việc thường xuyên cải thiện tất cả các hệ thống của nền kinh tế để đối phó với khủng hoảng tài chính thường xuyên tái diễn.

4. Một số khuyến nghị cho Việt Nam

Muốn nâng cao chất lượng tăng trưởng và đảm bảo tăng trưởng trong dài hạn tái cơ cấu nền kinh tế là hết sức cần thiết đối với Việt Nam. Xu hướng tái cơ cấu kinh tế cần tập trung vào các hướng sau:

Thứ nhất, Việt Nam cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực, phát triển xanh, thân thiện với môi trường và chuyển sang giai đoạn 2 của quá trình phát triển (xem Hình 1). Tăng trưởng cao nhưng đi đôi với nó phải nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Mô hình tăng trưởng cũ vẫn chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, công nghệ gia công và gia tăng vốn đầu tư vào các ngành thâm dụng vốn được nhà nước bảo hộ (xi măng, thép, ô tô...) đã làm cho chất lượng tăng trưởng và hiệu quả của nền kinh tế của nền kinh tế thấp.


Nguồn: M. Porter

Thứ hai, định hướng lại các mẫu hình sản xuất nhằm vào khả năng thương mại trong khu vực và cầu nội địa. Phát triển các ngành dựa vào dấu hiệu của lợi thế so sánh, lợi thế nguồn lực và lợi thế cạnh tranh. Tái cơ cấu theo hướng hội nhập, kết nối được nền kinh tế nước ta với kinh tế toàn cầu và khu vực, cải thiện được vị thế của từng doanh nghiệp, từng ngành và cả nền kinh tế trong chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời thiết lập một nền kinh tế cân bằng hơn giữa trong và ngoài nước, cân bằng hơn giữa xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.

Thứ ba, tái cơ cấu theo hướng nâng cao chuỗi giá trị trong công nghiệp, thông qua hợp nhất các khu vực sản xuất khác nhau và ứng dụng các công nghệ giảm tiêu thụ năng lượng cũng như sử dụng tài nguyên thiên nhiên, đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ cơ bản.

Thứ tư, tái cơ cấu theo hướng xây dựng các hệ thống miễn nhiễm và quản lý rủi ro cho các lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt là khu vực tài chính, tài nguyên thiên nhiên, cũng như hệ thống tài khóa.

Thứ năm, nhận thức được các vấn đề sinh thái liên quan đến tăng trưởng trước đây và đảm bảo rằng các mẫu hình đầu tư và tiêu dùng trong tương lai không làm ô nhiễm, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và gìn giữ bảo vệ môi trường; nâng cao hiệu quả tiêu thụ năng lượng và phát triển các nguồn năng lượng thay thế nhằm giảm mức độ nhạy cảm về năng lượng và mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu.

Thứ sáu, tái cơ cấu theo hướng giảm bớt mức độ phụ thuộc vào vốn nước ngoài bằng cách tạo ra tỷ lệ tiết kiệm nội địa cao hơn.

Thứ bảy, tái cơ cấu vùng theo hướng nâng cao mật độ kinh tế của 3 vùng kinh tế trọng điểm, tăng cường sự liên kết giữa 3 vùng nhằm khai thác lợi thế quy mô và giảm bớt sự chia cắt giữa các vùng.

Thứ tám, tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng đảm bảo an ninh lương thực trong bối cảnh giá lương thực trên thị trường quốc tế dao động mạnh.

Thứ chín, tái cơ cấu theo hướng phân phối của cải bình đẳng và thúc đẩy phân phối công bằng các lợi ích kinh tế của toàn bộ tăng trưởng trong toàn xã hội nhằm tạo ra sự hài hòa và đồng thuận cho sự phát triển trong thời gian tới.

Thứ mười, các doanh nghiệp cũng tái cơ cấu và định hượng chiến lược hoạt động của mình cho phù hợp với điều kiện mới, đặc biệt là khu vực DNNN. Trong thời gian qua, doanh nghiệp nhà nước đã có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, sự phát triển đó chưa tương xứng với vai trò, tầm vóc, và sức mạnh tiềm năng của các doanh nghiệp này. Chính phủ phải sắp xếp lại theo hướng nhà nước chỉ giữ một số ít ngành, lĩnh vực chủ yếu  có ảnh hưởng ngoại lai tích cực tới các lĩnh vực khác.

-----------------------------------------------------------

1 Được đề cập trong Báo cáo Phát triển thế giới 2009 của Ngân hàng thế giới và Cuốn sách “Đông á phục hưng. ý tưởng phát triển kinh tế của Indermit Gill và Homi Kharas.

2 Xem thêm trong Báo cáo Phát triển thế giới 2009, Tái định dạng địa kinh tế.

-----------------------------------------------------------

Tài liệu tham khảo:

1. Chi Fulin, Điểm xuất phát lịch sử đối với các cải cách của Trung Quốc, Viện nghiên cứu Cải cách và Phát triển, Diễn đàn Quốc tế về chuyển đổi kinh tế.

2. Đinh Văn Ân, Nguyễn Thị Tuệ Anh (2008), Tăng trưởng năng suất lao động Việt Nam từ góc độ của các ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành. NXB Lao động.

3. Indermit Gill, Homi Kharas (2007), Đông á Phục Hưng. ý tưởng phát triển kinh tế, NXB Văn hóa Thông tin.

4. Nguyễn Kế Tuấn, Tái cơ cấu ngành công nghiệp theo yêu cầu phát triển bền vững, Tạp chí Kinh tế&Phát triển số 145 tháng 7 năm 2009.

5. Ngân hàng Thế giới (2009), Báo cáo phát triển thế giới 2009. Tái định dạng địa kinh tế, NXB Văn hóa Thông tin.

6. Tạp chí nhà quản lý số 73/2009.

7. Viện quản lý kinh tế Trung Ương (2009), Cơ cấu lại nền kinh tế: một số vấn đề về nhận thức và kinh nghiệm một số nước, Chuyên đề số 10.