ăm 1607,
Jamestown - khu định cư thường
xuyên đầu tiên của người Anh ở Bắc Mỹ được thành lập. Từ đó, đất Bắc
Mỹ đã chứng kiến sự mở đầu cơn sóng nhập cư từ Anh. Kéo dài suốt hai
thế kỷ, dòng nhập cư này từ nhỏ giọt chừng vài trăm người lập nghiệp
đến hàng vạn người mới tới. Bị thúc ép, bị bắt buộc bởi nhiều động
cơ, lý do mạnh mẽ và khác nhau, họ tới Tân Thế giới và góp phần xây
dựng một nền văn minh mới ở phần phía Bắc của lục địa này.
Trong quá trình đó, người Anh từ chỗ là cư dân thiểu số, đã dần dần
chiếm ưu thế trong cộng đồng cư dân Bắc Mỹ. Ưu thế về mặt số lượng
của người Anh so với dân cư bản địa và các nhóm di cư khác từ các
nước châu Âu, châu Phi trong thời gian đầu chủ yếu nhờ tăng cơ học -
những đợt di cư từ chính quốc. Nhưng, dưới tác động của một số nhân
tố, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dần chiếm ưu thế. Đến cuối thế kỷ
XVII, khoảng 90% dân định cư tại các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ là người
Anh và con cháu họ. Sau đó, do sự phát triển của những dòng nhập cư
khác từ châu Âu và châu Phi, đến năm 1775, tỷ lệ này không còn cao
như trước, nhưng so với những nhóm cư dân khác như: nô lệ và dân da
đen tự do (20%), Scotch-Irish (7,8%), Đức (6,9%), Scotland (6,6%),
Hà Lan (2,7%), Pháp (1,4%), Thụy Điển (0,6%) và một số nhóm người
khác (5,3%), người Anh vẫn là thành phần dân cư đông nhất - chiếm
48,7%.
Với ưu thế về dân số, lại có trình độ phát triển kinh tế cao hơn nên
ở Bắc Mỹ đã xảy ra quá trình đồng hoá của người nhập cư với cư dân
bản địa. Trong cộng đồng người nhập cư, người Anh chiếm đa số, hơn
nữa lại là người cai trị 13 thuộc địa, nên quá trình đồng hóa diễn
ra trước hết giữa cộng đồng dân di cư mà hạt nhân là người Anh với
cư dân bản địa, kế đến là giữa người Anh với các cộng đồng dân cư
khác di cư từ các nước châu Âu, châu Phi - thể hiện rõ nét nhất trên
phương diện ngôn ngữ. Tuy nhiên, phải khẳng định là quá trình này dù
có diễn ra ở mức độ nào cũng không thể xác lập một cách tuyệt đối
văn hoá Anh với các cộng đồng dân cư khác. Ở mỗi cộng đồng dân cư đó,
trong chừng mực nhất định vẫn bảo lưu được những giá trị văn hoá
truyền thống của mình. Hơn nữa, khi người Anh cũng như cư dân của
các nước khác di cư sang Bắc Mỹ, những điều kiện địa lý, môi sinh,
môi trường, xã hội khác rất nhiều so với nơi họ xuất cư, nên trong
cộng đồng dân cư ở Bắc Mỹ, bên cạnh những nét văn hóa mang tính
truyền thống đã tiếp nhận hoặc đã hình thành những thành tố văn hóa
mới phù hợp với những thay đổi về môi trường tự nhiên xã hội ở vùng
đất mới.
1. Sự thâm nhập tiếng Anh vào cộng đồng người bản địa
Trước khi tiếp xúc với người Anh, cư dân bản địa Mỹ đã trải qua một
thời gian dài chịu ảnh hưởng văn hoá Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp...
Trong khi đó những gì các nhà xâm thực Anh biết về nền văn hoá xa lạ
của họ hầu như chỉ giới hạn trong những cuốn sách viết về châu Mỹ và
những kinh nghiệm từ quá trình xác lập thuộc địa ở Ireland. Trong
thời gian đầu sau khi đặt chân lên Bắc Mỹ, những bất đồng về ngôn
ngữ khiến các nhà xâm thực Anh không thể hiểu đầy đủ về cuộc sống và
văn hoá của người bản địa. "Chưa được khai hóa và ngu ngốc", "Những
con người lạ lùng", "Kỳ quặc" là quan niệm phổ biến của người Anh về
cộng đồng cư dân đã sinh sống hàng ngàn năm trên mảnh đất Bắc Mỹ. "Lối
sống của họ khác chúng ta hoàn toàn", "cả chúng ta và họ đều không
thể hiểu thấu đáo suy nghĩ và thói quen của nhau" là kết luận được
John Lawson rút ra sau tám năm nghiên cứu văn hóa của người bản địa
sống tại Carolina. Trong khi đó, để phục vụ và củng cố nền thống trị
Anh ở Bắc Mỹ, việc thiết lập địa vị độc tôn của tiếng Anh là hết sức
cần thiết.
Song sự thâm nhập tiếng Anh vào cộng đồng cư dân bản địa là một quá
trình lâu dài. Biện pháp được người Anh sử dụng ở đây cũng không
giống với thuộc địa Anh tại một số nơi khác, tức là đưa tiếng Anh
vào hệ thống giáo dục cho người bản địa1. Tại Bắc Mỹ, ban đầu người
Anh tổ chức các buổi diễn kịch pantomime2 trong đó sử dụng tối đa cử
chỉ, điệu bộ, lối biểu hiện trên nét mặt và bất cứ âm thanh nào có
thể giúp người xem nắm được ý chính của vở kịch. Cách này đạt được
hiệu quả nhất định. Nhờ đó, người Anh và người bản địa có thể đoán
được ý nghĩa một số cử chỉ, điệu bộ của nhau. Chẳng hạn, điệu bộ vẫy
lông thú của người Indian mỗi khi gặp tàu Anh có nghĩa là họ sẵn
sàng tiến hành trao đổi hàng hoá. Ngược lại, người Indian cũng nhận
ra rằng khi người Anh đặt một đống vỏ sò vào xuồng của mình có nghĩa
là người Anh muốn kết bạn với họ.
Trong giai đoạn tiếp xúc đầu tiên, hệ thống biểu tượng của người bản
địa khá đa dạng và người Anh phải học cách "đọc" và hiểu những biểu
tượng này. Vào thế kỷ XVII, nhờ việc đếm số đá cuội, nút dây hoặc
hạt ngô do các "lái buôn" bản xứ gửi từ vùng nội địa, người dân
Virginia biết được khi nào là thời điểm thích hợp để tiến vào vùng
đất của người Indian trao đổi buôn bán. Tương tự
như vậy, người Anh có thể nhận biết được người của các bộ lạc bản
địa thông qua việc nhìn hình xăm hoặc hình vẽ: hình con rắn là biểu
tượng của người Occaneechi, quả dừa - người Susquehannock, ba mũi
tên - người Nahyssan... Cách "giao tiếp" này của các thương nhân
cũng được chính phủ thuộc địa chấp nhận. Dẫn chứng tiêu biểu là bang
Nam Carolina đã gửi thông điệp tới các bộ lạc bản địa ở xa bằng các
sợi dây có thắt nút, bang New York yêu cầu bộ lạc Iroquois sau khi
nhận thông điệp bằng các chuỗi vỏ sò cũng phải trả lời theo cách đó...
Song, phương thức giao tiếp này có nhiều điểm hạn chế, dễ gây hiểu lầm
và khó trao đổi những vấn đề phức tạp. Vì vậy, yêu cầu phá vỡ rào
cản ngôn ngữ một lần nữa được đặt ra. Trao đổi bằng lời đã
xuất hiện nhưng hết sức hạn chế. Chẳng hạn, cuộc tiếp xúc giữa
William Hilton và một bộ lạc ở Carolina vẫn diễn ra với rất nhiều cử
chỉ ra hiệu, trao đổi bằng lời chỉ gồm hai từ "Bonny" (tốt, vui mừng,
xinh đẹp) và "Skerry" (đá). Dần dần, tiếng Anh "bồi"3 xuất hiện.
Động lực quan trọng nhất sự ra đời của kiểu ngôn ngữ này là nhu cầu
trao đổi buôn bán. Cả người Anh và người bản địa đều có những mặt
hàng mà người kia cần. Đối với người bản địa, hoạt động trao đổi
thường mang ý nghĩa nghi thức nhằm thiết chặt quan hệ giữa người này
với người kia. Trong các nghi lễ đó, hàng hoá trao đổi được coi như
một món quà. Quan niệm của thương nhân Anh lại hoàn toàn khác, giá
cả và lợi nhuận là những điều họ nghĩ tới đầu tiên. Ban đầu, việc
trao đổi buôn bán ở Bắc Mỹ có sự kết hợp hai quan niệm này, nhưng
dần dần ý nghĩa thương mại được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, hoạt
động trao đổi buôn bán chỉ được tiến hành thuận lợi khi hai bên
thông hiểu ngôn ngữ của nhau. Tiếng Anh "bồi" ra đời từ chính nhu
cầu đó. Ở đây cần nhấn mạnh rằng, trong thời gian đầu, nhiều người
bản địa đã cản trở quá trình này hoặc tìm cách duy trì ngôn ngữ của
họ ở vị trí trội vượt hơn. Nhưng, với sự kiên trì và đòi hỏi của nhu
cầu giao tiếp khi mật độ tiếp xúc trở nên thường xuyên hơn, "những
chuyên gia về ngữ pháp bản địa" (Indian grammarians) đã vượt qua
điều đó để mở rộng phạm vi sử dụng của ngôn ngữ này. Hơn nữa, quá
trình truyền giáo và quan niệm của người Anh coi việc học và sử dụng
tiếng Anh là biểu hiện của sự tuân phục nền thống trị của họ tại đây
đã đóng góp vào việc làm cho tiếng Anh trở thành một ngôn ngữ có vị
trí quan trọng ở Bắc Mỹ. Một số quy định bắt buộc sử dụng tiếng Anh
xuất hiện. Vào những năm 1670, những người đứng đầu vùng đất ven
sông Potomac (Virginia) đề ra quy định: tại các cuộc gặp chính thức,
người Indian phải tự dịch nội dung trao đổi. Quy định tương tự cũng
lặp trên trong phạm vi toàn bang Virginia. Kết quả là, vào năm 1710,
tức là sau thời điểm thành lập khu định cư Nam Carolina 40 năm,
thanh thiếu niên bản địa được sinh ra sau khi người Anh định cư ở
vùng đất này đã nói thành thạo tiếng Anh4. Năm 1734, người bản địa ở
Virginia "hiểu và có thể nói tiếng Anh rất tốt"5. Một vài người bản
địa đã học cách đọc và viết bằng tiếng Anh6.
2. Sự thâm nhập tiếng Anh vào các cộng đồng dân nhập cư khác
Quá trình thâm nhập tiếng Anh vào các cộng đồng dân nhập cư khác vừa
mang tính tự nhiên, vừa mang tính áp đặt.
Tính tự nhiên thể hiện ở chỗ, với vị trí hàng đầu về dân số, kinh tế,
người Anh luôn chiếm ưu thế trong quan hệ tài chính, thương mại với
các cộng đồng khác và buộc họ khi quan hệ với người Anh phải sử dụng
tiếng Anh. Hơn nữa, ngay trong cộng đồng dân nhập cư khác đã có
không ít người sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai trước khi họ
di cư sang Bắc Mỹ. Đây chính là kết quả của quá trình tiếp xúc,
nghiên cứu và truyền bá tư tưởng, văn hoá Anh ra thế giới thời kỳ
trước đó.
Tính áp đặt thể hiện ở chỗ, với vị trí là chủ nhân của thuộc địa Bắc
Mỹ, người Anh tìm mọi cách làm cho tiếng Anh trở nên phổ biến ở tất
cả các bang thuộc địa. Bằng quyền lực thống trị, người Anh đã áp đặt
ngôn ngữ và lối sống của họ tại các bang thuộc địa và rõ ràng họ đã
đạt được phần nào ý đồ của mình. Hơn nữa, với đặc điểm được hình
thành từ nhiều nguồn7, tiếng Anh trở nên gần gũi với người Đức,
người Pháp và các dân tộc vốn đã từng chinh phục và để lại dấu ấn
văn hoá trên lãnh thổ của người Anh. Điều đó cùng với ưu thế về ký
tự, cách phát âm đã tạo cho tiếng Anh lợi thế để có thể được truyền
bá rộng rãi khắp các thuộc địa. Kết quả là, số lượng người Hà Lan,
Pháp, Tây Ban Nha... nói tiếng Anh ngày càng đông. Tiếng Anh trở
thành ngôn ngữ chính thức và phổ biến tại tất cả các bang thuộc địa,
trừ những cộng đồng nước ngoài biệt lập.
Nhưng, cũng phải khẳng định rằng, trong khi việc sử dụng tiếng Anh
ảnh hưởng lớn đến các ngôn ngữ khác và tạo sự biến đổi dần về vốn từ
vựng cho những ngôn ngữ đó, thì bản thân tiếng Anh của người Anh
cũng dần biến đổi và trở thành "tiếng Anh Mỹ" (American English). "Tiếng
Anh Mỹ" có đặc điểm:
Vay
mượn từ vựng của ngôn ngữ bản địa (barbecue,
canoe, chocolate, cocoa, maize, potato, tomato, caribou, tamahawk,...
nhưng thay đổi cách phát âm); hình thức rút ngắn của từ bản địa
(hominy từ rockahominy, squash từ asquutasquash, hickory từ
pawcohiccora...); biến thể của từ bản địa (muskrat từ muskwessu hoặc
muscassus, woodchuck từ otchek hoặc odjik...); kết hợp với tiếng Anh
(shunk cabbage, shunk bear, Indian pony, Indian mallow...)...
Vay
mượn từ vựng của các ngôn ngữ châu Âu và châu Phi, chẳng hạn từ
tiếng Pháp (portage, prairie), tiếng Hà Lan (boss, cookie), châu Phi
(cooter-turtle, goober-peanut, juke-immoral, disorderly,
juju-amulet)...
Chịu
ảnh hưởng cách phát âm của các ngôn ngữ khác.
Phục
hồi nhiều từ và cách phát âm những từ không được sử dụng ở nước Anh
trên hai thế kỷ trước đó, chẳng hạn: adze, andiron, bay-window,
greenhorn, home-spun, jeans, loophole, molasses...
Sự
khác biệt trong cách phát âm của cư dân các vùng khác nhau ở nước
Anh trải qua quá trình định cư lâu dài ở Bắc Mỹ có xu hướng bị xóa
mờ. Trong khi đó, cách phát âm "tiếng Anh Mỹ" ở các thuộc địa lại
nổi lên.
Chính sự ra đời ngôn ngữ chung - tiếng Anh là một trong những nền
tảng cho sự hình thành nền văn hoá Bắc Mỹ tách ra khỏi ảnh hưởng văn
hoá chính quốc. Cùng với những tác động khác của quá trình nhập cư
và định cư (chủ yếu từ Anh), sự hình thành nền văn hoá này đã góp
phần gắn bó những cộng đồng có nguồn gốc khác nhau, ý thức là người
Bắc Mỹ dần hình thành. Đây chính là một trong những tiền đề quan
trọng cho sự hình thành một dân tộc mới - dân tộc Bắc Mỹ và cho sự
ra đời của nước Mỹ cuối thế kỷ XVIII.
_______________
Chú thích:
[1]) Trên thực tế, người Anh cũng có ý định lập ra một số trường
phục vụ việc khai hóa cho người bản địa nhưng vì nhiều nguyên nhân
đã không thành lập được. Cũng có trường hợp, tại một số trường đã
được thành lập, mục tiêu ban đầu là cải đạo cho người bản địa không
được thực hiện đầy đủ.
2) Pantomime là loại kịch có nhạc, múa, trò hề dựa trên truyện cổ
tích, thần thoại.
3) Tiếng được chuyển hóa từ tiếng Anh và các thứ tiếng của người bản
địa.
4) Philip D. Morgan (1993), Diversity and Unity in Early North
America, Routledge, London & New York, tr.85
5) Sđd, tr. 86
6) Sđd, tr. 87
7) Tiếng Angles - Saxon (tức tiếng Anh cổ) có nền tảng là phương ngữ
Germanic do những người Angles, Saxons và Jute áp đặt vào thế kỷ X.
Từ thế kỷ VIII đến thế kỷ IX, từ vựng được phong phú lên nhờ vốn từ
Bắc Âu do người Viking đem lại. Sau đó, với sự chinh phục của người
Noocmandi, tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức ở Anh. Việc sử
dụng tiếng Pháp đã ảnh hưởng lớn đến tiếng Anh cổ và tạo sự biến đổi
dần về vốn từ vựng cho tiếng Anh hiện đại.
http://www.vias.com.vn |