Chúng
ta đều biết rằng, Nhật Bản là nước thực hiện thành công Cải cách Minh
Trị vào nửa sau của thế kỷ XIX. Nhờ những thành công này, Nhật Bản đã
phát triển đất nước theo hướng hiện đại hoá và chống được sự xâm lược
của phương Tây. Để có được những thành công đó phải kể đến vai trò của
giáo dục đối với quá trình hiện đại hoá đất nước. Bởi vì, chính giáo dục
giúp cho sự định hướng xã hội theo kiểu cách tân khi tính đến truyền
thống, sử dụng truyền thống như là tiền đề cho hiện đại hoá; giúp cho
quá trình nắm bắt, sử dụng các thành tựu khoa học một cách có hiệu quả
khi hợp thức hoá định hướng xã hội dựa trên các giá trị truyền thống
v.v..
Giáo
dục và đào tạo là một công cụ quan trọng đáng kể để xây dựng cơ cấu hạ
tầng của nước Nhật mới trong thời kỳ Minh Trị. Tuy nhiên, giáo dục thời
kỳ đó chỉ đơn giản là mở rộng truyền thống tôn kính. Thứ nhất, giáo dục
tiếp tục tạo dựng con đường dẫn tới cái tinh hoa. Thứ hai, giáo dục được
sử dụng một cách thận trọng để hỗ trợ cho hàng loạt chính sách của các
nhà lãnh đạo Nhật Bản. Vì vậy, chính sách giáo dục là một minh hoạ cho
chân lý là: truyền thống không chỉ đồng thời tồn tại, mà còn có thể
thường xuyên trở thành công cụ quan trọng đối với quá trình hiện đại
hoá.
*
* *
Ở
Nhật Bản, giáo dục cuối thời kỳ Tokugawa và đầu Minh Trị được đánh dấu
bởi một loạt đổi mới, như dịch tài liệu nước ngoài, gửi sinh viên đi học
nước ngoài, thuê người làm công là người nước ngoài, v.v.. Tuy nhiên,
Nhật Bản đã thừa kế một đức tin từ thế giới quan Nho giáo nguyên thuỷ,
khi người ta tin rằng, con người có thể rèn luyện được, đặc biệt là
thông qua giáo dục, lòng tin mà người Nhật Bản thấy có sự khác biệt với
những gì người ta vẫn gọi là "đặc điểm" ở phương Tây, cụ thể là ý tưởng
mà con người vốn có, về bản chất, không thay đổi một cách căn bản(1).
Thậm
chí, vào cuối của thời kỳ Tokugawa, chức tướng quân đã thiết lập nên
các tổ chức giáo dục cao hơn (ví dụ như Shoheiko); tại các lãnh địa là
những Hàn lâm viện của họ và tại các nơi quản lý chung là các thái ấp và
trường dòng của họ. Hơn thế nữa, ở các hàn lâm viện này và các trường
học khác của Nhật Bản đã có các chương trình nghiên cứu không đối lập
với Hà Lan và phần nào đó, còn rộng hơn đối với khoa học phương Tây.
Giáo
dục thời kỳ Tokugawa nhằm chủ yếu vào tầng lớp Samurai (chỉ chiếm 2%
dân số) và chỉ thường nhấn mạnh về lập trường đạo đức bền vững, về tầm
quan trọng của thứ bậc hay tôn ti trật tự trong xã hội, về sự ưu tiên
của cái chung (xã hội) trong mối quan hệ với cái riêng (cá nhân). Song,
dẫu sao, giáo dục Samurai cũng đã để lại một dấu ấn đặc trưng trong xã
hội Nhật Bản mà sau này, được phân chia thành hai thái cực khác nhau.
Tầng
lớp Samurai đã được đào tạo chuyên sâu về kỹ năng đọc và viết ở mức độ
cao nhất, về đặc trưng của nghệ thuật viết chữ đẹp, về sự phát triển của
Đạo Khổng, các tiêu chí của Thiền Phật giáo, các quy tắc đạo đức, lòng
trung thành, nghệ thuật quản lý nhà nước, về lòng hiếu thảo của đạo làm
con và tính nhân đức(2).
Với
cách giáo dục đó, những yếu tố tinh hoa trong nền văn hoá dân tộc Nhật
Bản luôn được chú trọng. Điều đó đã giúp cho người Nhật vượt lên trên
những thách thức trong thần thoại và với những tham vọng của mình, "đội
ngũ học trò"-"các cô cậu nhỏ" Nhật Bản đã có được sự thành đạt qua bậc
giáo dục này và sử dụng kết quả cá nhân để giành được những thành công
khác trong xã hội.
Năm
1883, 40% các trường tiểu học, 73% các trường cấp II có đội ngũ giáo
viên xuất thân từ tầng lớp Samurai. Năm 1878, 82% số sinh viên chuẩn bị
vào học ở Trường Đại học Hoàng gia Tokyo cũng có nguồn gốc xuất thân từ
Samurai; đến năm 1885, 76% số tốt nghiệp Trường Nông nghiệp Sapporo (nay
là Trường Đại học Hokkaido) có nguồn gốc xuất thân từ Samurai(3). Điều
đó đã nói lên ưu thế của những người được đào tạo từ tầng lớp Samurai.
Đồng
thời, với việc coi tầng lớp Samurai là đối tượng cần được hưởng ưu tiên
về chế độ giáo dục, nền giáo dục bình dân trong thời kỳ này cũng được
chú trọng. Motoyama Yukihiko đã giải thích điều đó như sau: Đạo Khổng
nói đến sự tập trung vào việc "học tập chân
chính" và những thay đổi này đã dọn đường cho sự xâm nhập của cách học
tập theo lối phương Tây. Do các cuộc khủng hoảng ở nhiều lãnh địa, người
ta đã gửi các sinh viên có nguồn gốc xuất thân từ Samurai tới các trung
tâm học tập trên khắp đất nước và cuối cùng là nước ngoài.
Mặc
dù được chia thành vài trăm lãnh địa, Nhật Bản vẫn chủ trương phát
triển một ngôn ngữ chung trong nhân dân. Để khắc phục hàng rào ngôn ngữ
đối với khách nước ngoài, ngôn ngữ Nhật Bản đã có sự thay đổi đáng kể.
Kể từ khi người Nhật phát triển một cơ sở ngữ âm và một chữ viết mang
tính tượng trưng, âm vị và ký hiệu mới đã làm cho nó có thể dịch ra
tiếng nước ngoài và đưa các khái niệm từ phương Tây vào. Tỉ lệ người
biết viết, biết đọc ở Nhật Bản khi đó là khá cao đối với một quốc gia
phát triển. Trong khi đó, những người bình dân tham gia giáo dục cũng đã
tăng lên nhờ một hệ thống giáo dục ước chừng 15.000 trường học giáo dân
và khoảng 1.500 trường học nội trú do tư nhân tổ chức.
Ngày
nay, người ta nhận ra rằng, giáo dục đóng một vai trò quan trọng trong
việc phát triển, trong sự chuyển đổi từ đời sống nông nghiệp cổ truyền
sang một xã hội công nghiệp hiện đại và sau đó, trong những biến đổi xã
hội cao hơn, nó tạo ra một loại trung tâm dịch vụ kiểu như trung tâm kỹ
thuật mới, mà như Jame S.Coleman đã đánh giá, giáo dục là chìa khoá để
mở cửa đến với hiện đại hoá(4). Mặc dù vậy, bản thân giáo dục lại cho
thấy rằng, việc chuyển đổi đó không phải là dễ dàng. Ở đây, mâu thuẫn đã
xuất hiện tại chính phần cốt lõi của quá trình này, vì những gì được
gọi là chiều cạnh phổ biến của sự phát triển thì cũng đồng thời được gọi
là đặc tính riêng biệt của quy chiếu văn hoá - lĩnh vực mà người Nhật
Bản coi là lý tưởng về sự thay đổi này.
Ở
Nhật Bản, giáo dục được coi là yếu tố tiên quyết trong việc phát triển
chính trị. Chỉ có hệ thống giáo dục và đào tạo chính quy mới được coi là
lĩnh vực có khả năng cung cấp và đáp ứng các kỹ năng chuyên môn hoá cần
thiết trong một xã hội hiện đại. Rằng, chỉ có hệ thống giáo dục mới đáp
ứng được yêu cầu tạo ra các quan chức kiểu mới, các cán bộ quản lý, cán
bộ kỹ thuật và đội ngũ chuyên gia. Giáo dục là lĩnh vực không thể thiếu
để nâng cao trình độ dân trí. Và trong một xã hội nghiêm ngặt như thời
kỳ Minh Trị của Nhật Bản thì giáo dục chính là nơi liên kết mọi công dân
thành một chỉnh thể, thành một xã hội công dân. Adam Curle đã chỉ rõ,
giáo dục thiết lập tiềm năng về một xã hội "bình đẳng" được đánh dấu bởi
khả năng có thể phát triển thành một xã hội "dân chủ".
Nền
giáo dục Nhật Bản thời kỳ này chủ yếu tập trung đào tạo những người
đóng vai trò nòng cốt trong việc xã hội hoá chính trị. Bởi lẽ, trong
quan niệm của người Nhật, một hệ thống giáo dục cũng có thể trở thành
công cụ có sức mạnh to lớn trong tiến trình thống nhất quốc gia. Đúng
như Herbert Passin đã khẳng định, khi hệ thống quốc gia được thiết lập ở
Nhật Bản, thì cái có ảnh hưởng đáng kể tới quá trình thiết lập hệ thống
đó là sự phân bố quyền lực nội bộ. Chính vì vậy, trong giáo dục, Nhật
Bản luôn quan tâm tới việc kết hợp các giá trị truyền thống với nhu cầu
hiện đại hoá và chủ trương xây dựng nền giáo dục gắn với nhiệm vụ chính
trị. Trên thực tế, chủ trương đó đã thu được những thành công đáng kể
khi giáo dục tập trung vào việc củng cố các trung tâm chính trị và chú
trọng đào tạo đội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý xã hội có năng
lực. Về phương diện này, nền giáo dục Nhật Bản thời kỳ Minh Trị có thể
được coi là một kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho các quốc gia mong
muốn đạt được tốc độ cao trong việc phát triển chính trị bằng cách hiện
đại hoá từ trên xuống.
Đánh
giá chính sách giáo dục của Nhật Bản thời Minh Trị, một học giả có uy
tín trong ngành giáo dục Nhật Bản đã rút ra kết luận rằng: "Những người
đứng đầu trong chính quyền Minh Trị đã đúng khi tập trung sự quan tâm
của họ vào giáo dục với tư cách một công cụ cho sự hiện đại hoá xã hội".
Để xây dựng một xã hội hiện đại, Chính quyền Minh Trị đã dồn nhiều công
sức, tập trung mọi nỗ lực cho việc phát triển kỹ thuật và gia tăng kiến
thức khoa học với phương châm được ghi trong Hiến chương của họ là:
"Kiến thức có thể được tìm kiếm trên khắp thế giới". Mặt khác, họ luôn
cố gắng sử dụng các giá trị truyền thống (cố gắng này đã đạt tới đỉnh
điểm trong thời kỳ Tokugawa) để củng cố tính đồng nhất dân tộc.
Để
có được cái nhìn tổng thể về vai trò của giáo dục đối với quá trình
hiện đại hoá ở Nhật Bản thời kỳ Minh Trị, chúng ta hãy xem xét tiến
trình thực hiện cải cách giáo dục ở Nhật Bản thời kỳ này.
1. Thời kỳ thử nghiệm.
Do
phải đối mặt với quá trình chuyển đổi chính trị cả trong nước và trên
thế giới, ban đầu các nhà lãnh đạo Nhật Bản thời kỳ Minh Trị đã không
đưa ra được một mô hình cố định cho hệ thống giáo dục. “Họ không có cách
lựa chọn nào khác ngoài việc phải chấp nhận cách thử nghiệm mang tính
chiết trung với mục đích là đạt được sự liên kết mới, tối ưu với giáo
dục”(5). Chính chủ nghĩa thực dụng kiểu này đã khiến cho phần lớn các
nhà lãnh đạo đi từ chỗ ủng hộ đến phản đối những người hiện đại hoá.
Chẳng
hạn, trong thời kỳ Minh Trị, như Fukuzawa Yukichi một nhà cải cách lớn
của Nhật Bản đã cho rằng, những người trí thức lớn đã hình dung ra hai
dạng xã hội. Dạng thứ nhất được đặc trưng bởi các mối quan hệ không thay
đổi, đóng kín mà theo đó, sự hiểu biết do tầng lớp thống trị độc quyền
chiếm giữ. Dạng thứ hai là mô hình xã hội được
đặc trưng bởi các mối quan hệ không cố định, mở rộng đối với sự giao
tiếp giữa người với người. Trong quá trình chuyển đổi từ dạng xã hội này
sang dạng xã hội khác, theo ông, cái đóng vai trò quyết định là chủ
nghĩa thực dụng. Với quan điểm thực dụng chủ nghĩa, chủ nghĩa Darwin xã
hội đã có ảnh hưởng đối với những tư tưởng của các nhà cải cách giáo dục
thời đầu Minh Trị, như Ito Hirobumi và Yagagata Aritomo, và Mori
Arinori - người sau này là Bộ trưởng Giáo dục đầu tiên trong hệ thống
nội các này.
Ở
thời kỳ này, phương pháp chiết trung đã đánh dấu bước tiến đầu tiên
trong cải cách giáo dục đó chính là việc ban hành bộ Luật mới về giáo
dục (1872). Nội dung cơ bản của bộ luật này được khái quát thành câu
khẩu hiệu: “Văn minh và khai hoá”. Mặc dù, khi đó, người Pháp là những
người nước ngoài có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất ở Nhật Bản, nhưng hệ thống
giáo dục này đã biết kế thừa, tiếp thu thành quả giáo dục từ rất nhiều
nước trên thế giới và biết chắt lọc các kinh nghiệm của chính mình.
Chẳng hạn, Oki Takato - Vụ trưởng Vụ Giáo dục ở thời kỳ này là người đã
chịu ảnh hưởng rất lớn từ phương pháp giáo dục của phương Tây và với ảnh
hưởng đó, ông đã có nhiều đóng góp trong việc đưa phương pháp giáo dục
của phương Tây vào nền giáo dục Nhật Bản(6). Trong khi đó thì Tanaka
Fujimoro - người đóng vai trò trung tâm trong công cuộc cải cách giáo
dục ở Nhật Bản thời kỳ này đã được giao nhiệm vụ nghiên cứu hệ thống
giáo dục nước ngoài (một phần trách nhiệm được giao của Iwakura vào năm
1871). Tanaka đã dùng phần lớn thời gian của mình để lĩnh hội hệ thống
giáo dục của Mỹ và Đức. Song, đáng tiếc là báo cáo của ông ta về các hệ
thống giáo dục này đã không được hoàn thành trước khi Nhật Bản ban hành
bộ Luật giáo dục.
Bộ
Luật giáo dục này đã phác thảo ra một hệ thống giáo dục hiện đại và
toàn diện, theo nguyên tắc phổ thông và bắt buộc. Lời mở đầu của bộ Luật
này có ghi: “Học là chìa khoá của sự thành công trong cuộc sống và
không ai lại không cần đến giáo dục”. Theo hệ thống giáo dục tập trung
của Pháp, các nhà giáo dục Nhật Bản đã phân chia hệ thống giáo dục thành
8 khu vực đại học; 8 khu vực này lại được chia thành 32 khu vực trường
trung học và tương tự, 32 khu vực này lại được chia nhỏ hơn thành 210
khu vực trường tiểu học. Chương trình giảng dạy ở trường tiểu học đối
lập với mô hình tập trung của Pháp và được áp dụng theo mô hình giảng
dạy của Mỹ.
Tuy
nhiên, kế hoạch tiến hành theo Luật này quá cực đoan. Ngoài các khoản
là 1.940.000 yên dùng mở rộng các trường công lập năm 1873, thì Chính
phủ chỉ hỗ trợ 12%, phần còn lại phải do nhân dân đóng góp. Xét về tính
bền vững của nền văn hoá Nhật Bản, hệ thống giáo dục du nhập từ ngoài
vào là khó có thể chấp nhận đối với người Nhật. Do vậy, số lượng học
sinh đến trường không nhiều như người ta dự đoán: chỉ có 28% trẻ em đến
trường vào năm 1873(7). Mặc dù vậy, qua hai thập niên tìm tòi và có cả
sai lầm đó, cuối cùng Nhật Bản cũng đã đưa ra thử nghiệm được nhiều mô
hình giáo dục khác nhau.
2. Thời kỳ áp dụng
Vào
những năm sau khi ban bố Luật giáo dục, các nhà lãnh đạo Nhật Bản thời
kỳ Minh Trị đã thi hành chính sách du nhập các quan niệm giáo dục từ
nước ngoài một cách có chọn lọc. Năm 1873, Bộ Giáo dục Nhật Bản đã dành
khoảng 14% tổng ngân sách cho việc thuê giáo viên ngoại quốc đến tham
gia giảng dạy ở các trường cao đẳng (khoảng 80% số giảng viên này được
sử dụng trong giai đoạn 1868-1890). Việc áp dụng các quan điểm của nước
ngoài, việc sử dụng chương trình giáo dục của nước ngoài một cách có
chọn lọc đã mang lại ý nghĩa tích cực. Kết quả đem lại đúng như nhận xét
của Ogata Hiroyasu, trong khoa học nhân loại thì người Anh đứng đầu,
theo sau là Đức, Mỹ và Pháp; về các môn khoa học xã hội thì Đức và Mỹ là
ngang nhau; về khoa học tự nhiên thì người Đức xếp hàng đầu, theo sau
là Anh và Mỹ.
Vào
thời kỳ này, Pháp lệnh giáo dục (1879) được coi là dấu hiệu thử nghiệm
quan trọng nhất. Mặc dù đề cao chủ nghĩa dân tộc, nhưng định hướng của
pháp lệnh này đã cho thấy sự chuyển đổi từ kiểu giáo dục tập trung của
Pháp sang hệ thống phi tập trung của Mỹ. Theo pháp lệnh này thì tính độc
lập, tính đa dạng và quyền tự do của người Nhật đã được chú ý nhiều.
Không chỉ thế, pháp lệnh này dường như đã phản ánh được sự phát triển
của phong trào vì quyền con người (sau năm 1874). Tuy nhiên, trên thực
tế sự phản đối của dân chúng đã lan rộng trên phạm vi toàn quốc, thoạt
đầu là chống Chính phủ và từ đó, họ phản đối chính sách cải cách giáo
dục này của Chính phủ Nhật Bản.
Những
người soạn thảo pháp lệnh này là Tanaka Fujimoro và Đavi Murray và
trước khi ban hành, đã được Ito Hirobumi và các nhà lãnh đạo khác của
Chính phủ Nhật Bản khi đó phê chuẩn. Tuy nhiên, pháp lệnh này đã không
được phổ biến rộng rãi bởi những diễn biến phức tạp của tình hình chính
trị ở Mỹ khi đó và một phần bởi kết quả thực sự của quá trình phi tập
trung hoá là một thảm hoạ. Số lượng học sinh đến trường đã giảm từ
41,26% (1878) xuống 41,16% (1879) và thậm trí còn xuống tới mức 41,06%
(năm 1880)(8). Trước tình hình đó, Chính phủ Nhật Bản đã buộc phải xoá
bỏ hệ thống giáo dục theo kiểu Mỹ, sửa đổi một phần pháp lệnh giáo dục
này vào năm 1880 và loại bỏ hẳn nó vào năm 1885 để đưa ra một pháp lệnh
mới.
3. Thời kỳ củng cố
Mặc
dù đã trải qua một số thử nghiệm, song vai trò chủ đạo của Nhà nước
trong giáo dục ở Nhật Bản khi đó vẫn còn đang ở quá trình cải cách. Bộ
Giáo dục Nhật Bản được thành lập vào năm 1871 và Eto Shimpei trở thành
vị Bộ trưởng đầu tiên có quyền kiểm soát tất cả các trường phổ thông.
Nhưng vào năm 1874, người kế nhiệm ông là Kido Takayoshi lại không có
được quyền đó. Bản thân ông cũng cho rằng, giáo dục phải vì lợi ích của
nhà nước và của nhân dân, chỉ khi nào dân giàu và mạnh lên nhờ được trau
dồi kiến thức dưới sự bảo hộ của chính phủ thì nhà nước mới có được vị
thế của nó trên trường quốc tế. Với quan điểm đó, ông đề cao cả trách
nhiệm của dân lẫn sự bảo hộ của nhà nước trong giáo dục. Mặc dù vậy,
trên thực tế, quá trình phi tập trung hoá tuy đã thu được những thành
công nhất định, nhưng Pháp lệnh Giáo dục mới vẫn còn quy định quyền kiểm
soát của Bộ trưởng Giáo dục đối với tất cả các loại trường lớp trong cả
nước.
Cùng
với sự ra đời của Pháp lệnh giáo dục mới, các nguyên tắc lớn của giáo
dục cũng đã được ban bố vào năm 1879. Nội dung của các nguyên tắc này
dường như là để truyền đạt quan điểm của các nhà cầm quyền và toà án.
Còn trên thực tế thì pháp lệnh này lại phản ánh quan điểm bảo thủ của
Motoda Nagazane, người đã tìm cách tăng cường vị thế của nhà cầm quyền
trong lĩnh vực chính trị bằng cách cố gắng dựa vào các nguyên tắc mang ý
nghĩa quyết định của một đế chế. Trong một cuộc tranh luận giữa Motoda
và Ito, Motoda đã hoàn toàn chiến thắng. Với chiến thắng này, ông kiên
quyết phản đối việc tách biệt giữa chính phủ và giáo dục. Theo quan điểm
của ông, giáo dục cần chú trọng đến truyền thống và đạo đức hơn là khoa
học và các vấn đề về thế giới. Với toàn bộ quyền lực của mình, ông chủ
trương phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc và đề cao quyền
con người(9).
Mặc
dù không ủng hộ việc xoá bỏ tất cả mọi phong cách tư duy theo lối
phương Tây, song Motoda lại chủ trương tập trung vào việc giáo dục cho
người dân Nhật Bản tính chính thống dân tộc. Bởi, theo ông, việc hội
nhập với văn hoá phương Tây chỉ tạo ra một môi trường mà theo đó, nhiều
người Nhật Bản đã quên mất các tập tục bản địa và kết quả trực tiếp là
đánh mất các truyền thống dân tộc của người Nhật. Ông cho rằng, cải cách
giáo dục cần phải "tập trung vào học tập luân lý theo Khổng giáo dựa
trên cơ sở những lời dạy của tổ tiên...”. Song, chủ trương đó của ông đã
vấp phải sự chống đối của phong trào đòi Nhật hoá các ảnh hưởng văn hoá
của nước ngoài.
Trong
bối cảnh đó, Chính phủ Nhật Bản đã trao quyền sửa đổi Pháp lệnh giáo
dục (1880) cho Bộ trưởng Giáo dục khi đó là Kono Togama. Kono đã chuyển
chương trình học luân lý từ cuối lên đầu chương trình giáo dục. Song,
trên thực tế, số lượng con trai và con gái đến trường (1883-1887) lại
giảm tới mức báo động - giảm 6%(10). Chính vì vậy mà sự sửa đổi tiếp
theo (1885) của Pháp lệnh giáo dục đã được thực hiện dưới thời nội các
đầu tiên của Ito. Người được trao quyền sửa đổi này là Mori Arinori - Bộ
trưởng Giáo dục. Mori Arinori chủ trương phát huy sức mạnh của chủ
nghĩa dân tộc đồng thời với nhu cầu khai sáng. Chính sách giáo dục này
của ông đã được đa số người dân Nhật Bản chấp nhận do nhu cầu duy trì
chính thể quốc gia với mục đích làm giàu và tăng cường tiềm lực quốc
gia. Vì vậy, Mori đã phân biệt rõ ràng giữa nghiên cứu và giáo dục. Mục
đích của ông là đi sâu vào tìm hiểu chân giá trị của sự việc và đào tạo
đội ngũ những người am hiểu công việc cho các ngành nghề cụ thể.
Thực
hiện triệt để mục đích này, Mori đã đưa vào chương trình giảng dạy
trong các trường học của Nhật Bản một phương châm giáo dục mới. Phương
châm đó là “Giáo dục nhằm mục đích đào tạo con người và do vậy, mọi
người đều phải coi việc học môn đạo đức học thực hành như một môn học
bắt buộc và đều phải có nghĩa vụ phấn đấu trở thành người có chất lượng
để trên cơ sở đó, hưởng thụ phúc lợi xã hội”. Trong các trường đại học
khoa học và công nghệ, các môn học đáp ứng đòi hỏi của nhà nước đều được
đưa vào chương trình giảng dạy(11). Năm 1882, khi còn đang ở Châu Âu,
Ito Hirobumi đã nghiên cứu và soạn thảo một Hiến pháp mới cho Nhật Bản
mang nhiều ảnh hưởng của các lý thuyết về nhà nước của người Phổ, các
khái niệm về chế độ quân chủ lập hiến và các tư tưởng về giáo dục. Trên
đường trở về nước, ông đã mời Mori Arimori - người mà sau này là đại sứ
tại London
- về Pari để làm cố vấn. Kế hoạch giáo dục khi đó của Mori Arinori có
lẽ bắt nguồn từ đây. Ông kêu gọi sửa đổi quản lý giáo dục từ Trung ương
đến địa phương và đề nghị chuyển hướng từ tư nhân sang nhà nước, từ việc
sử dụng phương pháp giáo dục của phương Tây sang sử dụng phương pháp
giáo dục của Nhật Bản. Kế hoạch cải cách giáo dục của ông được tiến hành
với lộ trình 3-4 năm với quy định bắt buộc về giáo dục đạo đức, chú
trọng truyền bá tri thức khoa học tại các trường đại học quốc gia nhằm
đào tạo những tài năng có khả năng nắm bắt được công nghệ hiện đại và
tham gia vào việc điều hành và quản lý đất nước.
Việc
phê phán các hệ thống giáo dục cổ hủ đã được tiến hành trong giai đoạn
từ 1879 - 1906. Nhờ đó, các trường học Nhật Bản đã thực sự trở thành
phương tiện hữu hiệu trong việc đào tạo nhân tài cho công cuộc hiện đại
hoá ở Nhật Bản. Cái đích cơ bản trên chặng đường thử nghiệm, thích nghi
và củng cố nền giáo dục Nhật Bản đã đạt được vào năm 1890. Đóng góp nổi
bật của công cuộc cải cách giáo dục này ở Nhật Bản là góp phần đẩy mạnh
hiện đại hoá, nhưng với con đường khác hoàn toàn so với những cách được
tiến hành bởi người Anh, người Pháp hay người Mỹ. Nhờ công cuộc cải cách
đó, Nhật Bản đã chuyển sang một hệ thống giáo dục mới dựa trên cơ sở
thống nhất giữa Chính phủ và cơ quan giáo dục, đề cao truyền thống dân
tộc theo tinh thần Khổng giáo nguyên thuỷ và phục vụ đắc lực cho lợi ích
đất nước đến cuối Thế chiến thứ Hai.
Nguyễn Kim Lai
Nghiên cứu sinh tiến sĩ, Đại học Waseda, Nhật Bản
Đặng Thị Tuyết Dung
Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á