PHẦN I: Nhìn lại chính sách của Trung Quốc đối với tranh chấp Biển Đông từ 2007 đến nay
Bài viết của hai tác giả Đỗ Thanh Hải & Nguyễn Thùy Linh*, Chương trình Nghiên cứu Biển Đông đánh giá những thay đổi về chính sách của Trung Quốc đối với tranh chấp Biển Đông từ năm 2007 đến nay, giải mã những căng thẳng ở khu vực Biển Đông nhìn từ khía cạnh chính sách và động thái của Trung Quốc.
Tháng
11/2002, tại Phnôm Pênh, các nước ASEAN và Trung Quốc ký kết Tuyên bố
về Ứng xử của các bên ở Biển Đông, mở ra hy vọng mới về khả năng quản lý
xung đột, thúc đẩy hợp tác, và sự hình thành cơ sở chính trị pháp lý
mới nhằm đảm bảo hòa bình và ổn định ở Biển Đông nói riêng và khu vực
Đông Nam Á nói chung. Tuyên bố này về cơ bản giúp xoa dịu căng thẳng
giữa các quốc gia liên quan sau tranh chấp Vành Khăn, góp phần ổn định
tình hình Biển Đông trong suốt bốn năm sau đó. Tuy nhiên, kể từ giữa năm
2007 đến nay, tranh chấp ở Biển Đông trở nên căng thẳng và nóng bỏng
hơn với một số va chạm xảy ra liên quan đến xác lập và bảo vệ chủ quyền,
khai thác và bảo tồn tài nguyên biển cùng những tranh cãi gay gắt trên
các diễn đàn ngoại giao khu vực. Đỉnh cao là việc vấn đề Biển Đông được
đưa ra tại Hội nghị ARF 17 (Hà Nội), trong đó 11 trong tổng số 28 nước
tham dự hội nghị thể hiện quan ngại về những diễn biến mới ở Biển Đông,
đặc biệt là thái độ cứng rắn và hành động quyết liệt từ phía Trung Quốc.
Việc tranh chấp Biển Đông được đưa ra thảo luận tại ARF là một sự kiện
mang tính lịch sử của Diễn đàn này.
Là
quốc gia mạnh nhất trong số các bên tranh chấp, hành vi của Trung Quốc
là yếu tố quan trọng nhất, quyết định “nhiệt độ” của tranh chấp này, và
từ giai đoạn 2007-2008 các động thái của Trung Quốc trở nên cứng rắn
hơn. Vậy Trung Quốc đã có những điều chỉnh gì trong việc giải quyết
tranh chấp Biển Đông thời gian vừa qua và liệu đó có phải là nguyên nhân
chính tạo ra những căng thẳng ở vùng biển này? Hành động của Trung Quốc
bắt nguồn từ những thay đổi trong tư duy chiến lược và chính sách hay
chỉ là những phản ứng nhất thời đối với hành động của các quốc gia khác
và những chuyển biến trong môi trường chiến lược? Các quốc gia khác nhìn
nhận và phản ứng thế nào với hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông trong
thời gian vừa qua? Bài viết này sẽ tìm cách giải mã những căng thẳng ở
khu vực Biển Đông nhìn từ khía cạnh chính sách và động thái của Trung
Quốc.
Nhìn lại hành động của Trung Quốc tại Biển Đông từ năm 2007 đến nay
Từ
đầu năm 2007 đến giữa năm 2010, Trung Quốc triển khai nhiều biện pháp
để củng cố cơ sở pháp lý của các yêu sách và đẩy mạnh hoạt động tuyên
truyền về chủ quyền ở Biển Đông, phê phán hành vi của các quốc gia khác
cùng với việc nhấn mạnh thái độ kiềm chế và hành vi tự vệ của Trung
Quốc. Tiếp theo Luật Lãnh hải và Vùng tiếp giáp (1992),[1] Luật về Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa (1998),[2]
Trung Quốc đi thêm một bước nhằm thiết lập cơ quan quản lý hành chính
đối với các quần đảo tranh chấp. Ngày 3/7/2007, Quốc Vụ Viện Trung Quốc
phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa thuộc
tỉnh Hải Nam để trực tiếp quản lý ba quần đảo: Hoàng Sa, Trung Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa).[3]
Hành động này dẫn đến nhiều cuộc biểu tình phản đối chống Trung Quốc ở
Việt Nam. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng thông qua hàng loạt văn bản pháp
lý nhằm kiện toàn bộ máy nhà nước quản lý về biển, hải đảo như Cương yếu
phát triển hải dương với Tầm nhìn 2020 (tháng 6/2010), Kế hoạch xây
dựng khu kinh tế Quảng Tây, Chương trình hỗ trợ công dân sử dụng các đảo
không người nhằm vào Trường Sa và Hoàng Sa).
Trên
thực địa, trong các nỗ lực nhằm khẳng định chủ quyền và quyền kiểm
soát, Trung Quốc liên tục ngăn cản các hoạt động khai thác tài nguyên
của các nước khác bất chấp các hoạt động đó nằm trong vùng đặc quyền
kinh tế của họ.
Thứ nhất,
Trung Quốc tăng cường sức ép, buộc các công ty nước ngoài rút khỏi các
dự án thăm dò và khai thác dầu khí mặc dù các dự án đó nằm trong vùng
nước thuộc phạm vi quyền chủ quyền của Việt Nam. Từ giữa năm 2007, Trung
Quốc đã nhiều lần phản đối và gây sức ép về dự án xây dựng đường ống
khí đốt do tập đoàn BP của Anh thực hiện. Tháng 6/2007, trước áp lực của
Trung Quốc, BP đã phải quyết định ngừng một dự án thăm dò dầu
khí trong vùng biển có tranh chấp ngoài khơi Việt Nam (lô 5.2 nằm
giữa Việt Nam và quần đảo Trường Sa, cách bờ biển Việt Nam khoảng 370
km).[4]
Tháng 7/2008, giới ngoại giao Trung Quốc tại Mỹ liên tiếp phản đối
Exxon Mobil và công khai đe dọa trả đũa công việc kinh doanh của công ty
này ở Trung Quốc đại lục nếu công ty hợp tác với Petro Vietnam trong
các dự án thăm dò và khai thác dầu khí ở khu vực ngoài khơi miền Trung
và miền Nam Việt Nam.[5]
Trong khi đó, ngày 24/11/2008, theo hãng tin Bloomberg, Tập đoàn dầu
khí quốc gia Trung Quốc (CNOOC) công bố dự án 30 tỷ USD để khoan tìm dầu
khí trong các khu vực nước sâu ở Biển Đông. Từ cuối tháng 5/2010 đến
nay, Trung Quốc đã sử dụng tàu khảo sát M/V Western Spirit cùng nhiều
tàu bảo vệ tiến hành khảo sát địa chấn tại khu vực đảo Tri Tôn, quần đảo
Hoàng Sa và tại các lô dầu khí 141, 142 và 143 trên thềm lục địa Việt
Nam, cách đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi khoảng 90-116 hải lý. Trung Quốc
còn tiến hành san lấp, mở rộng đảo Tri Tôn với mục đích xây dựng công
trình trên đảo này.[6]
Thứ hai,
Trung Quốc tiếp tục đơn phương áp đặt các lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển
Đông vào mùa đánh bắt cao điểm. Trong năm 2009 và 2010, Trung Quốc công
bố lệnh cấm đánh bắt trong ba tháng, từ giữa tháng Năm đến giữa tháng
Tám, mùa đánh bắt cao điểm của ngư dân Việt Nam. Trong một sự vụ nghiêm
trọng, tàu hải quân Trung Quốc ngày 9/7/2007 đã nã súng vào một
số thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vùng biển gần
Trường Sa, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350km. Trong nhiều trường hợp,
tàu ngư chính và tuần duyên của Trung Quốc cố tình va chạm trực tiếp
làm chìm các tàu cá của ngư dân Việt Nam, bắt giữ và đòi tiền chuộc
nhiều tàu cá của Việt Nam.[7]
Trong một số sự vụ khác, các lực lượng của Trung Quốc đã bắt giữ các
tàu cá và ngư dân vào tránh bão trong quần đảo Hoàng Sa, bắt họ ký vào
các biên bản thừa nhận vi phạm chủ quyền của Trung Quốc và buộc gia đình
họ phải nộp tiền phạt.[8] Ngư dân Phi-lip-pin và Ma-lai-xi-a cũng chịu chung các tình cảnh tương tự.[9]
Mặc
dù lệnh cấm đánh bắt cá được Trung Quốc đơn phương áp đặt từ năm 1999,
nhưng từ năm 2007 đến nay hành động của Trung Quốc mang tính hăm dọa
quyết liệt hơn với thời gian cấm biển ngày một dài hơn,các hoạt động
tuần tra, bắt giữ và cản phá ngư dân của các nước liên quan với quy mô
lớn hơn, thường xuyên hơn và mạnh bạo hơn. Gary Li, một chuyên gia về
Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA) cho rằng lệnh cấm đánh bắt
cá của Trung Quốc thực sự nhằm tạo ra quyền cai quản trên thực tế [de
facto jurisdiction], và tiền lệ lịch sử nhằm khẳng định chủ quyền.[10]
Quan
chức Trung Quốc tuyên bố mục đích của lệnh cấm đánh bắt cá là nhằm bảo
vệ nguồn cá, ngăn chặn đánh bắt cá trái phép và bảo vệ ngư dân Trung
Quốc. Tuy nhiên, có ba điểm đáng chú ý trong lệnh cấm đánh bắt hàng năm
của Trung Quốc. Một là, lệnh cấm của Trung Quốc có hiệu lực trong phạm
vi một vùng biển lớn nằm trong đường đứt khúc chín đoạn mà các nước khác
bác bỏ, bao gồm cả những ngư trường truyền thống của ngư dân Việt Nam
và các nước khác. Hai là, thời gian của các lệnh cấm đánh bắt cá ngày
càng được kéo dài một cách tùy tiện và vô lý, không tham khảo ý kiến và
không có được sự đồng thuận từ các quốc gia khác. Ba là, Trung Quốc sử
dụng các loại chiến hạm cải tiến thành các tàu tuần ngư quy mô lớn,
không ngại va chạm để xua đuổi, hăm dọa ngư dân các nước. Lyle
Goldstein, một nhà nghiên cứu của Trường Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ,
chỉ ra đó là cách Trung Quốc sử dụng các tàu dân sự để phát huy sức mạnh
mềm, nhưng cũng nhằm củng cố các yêu sách về lãnh thổ biển rộng lớn của
Trung Quốc. Giáo sư Carlyle A. Thayer thì cho rằng “việc sử dụng các
tàu tuần ngư là một chiến thuật tuyệt vời bởi chúng không phải là tàu
chiến, chúng được sơn với màu trắng chứ không phải màu xám, nhưng chắc
chắn, chúng được trang bị tận răng”.[11]
Vấn đề ở đây là những hành động như vậy hoàn toàn đi ngược lại những
cam kết của Trung Quốc được ghi trong Tuyên bố về Ứng xử ở Biển Đông năm
2002.
Thứ ba,
không chỉ hăm dọa, xua đuổi và bắt bớ tàu bè của các quốc gia khác,
Trung Quốc còn công khai xác định phạm vi ảnh hưởng. Đô đốc Timothy
Keating, chỉ huy trưởng Hải quân Mỹ tại Thái Bình Dương, trong cuộc họp
báo ngày 18/12/2008 tại Washington, đã đề cập đến ý định của Trung Quốc
chia Thái Bình Dương làm hai, theo đó, Hải quân Hoa Kỳ sẽ giới hạn sự
hiện diện của mình về phía Đông Hawaii và Hải quân Trung Quốc sẽ kiểm
soát từ phía Tây đảo Haiwaii.[12]
Tháng 3/2009, một số tàu của Trung Quốc đã đụng độ với tàu khảo sát
Impeccable của Hải quân Mỹ tại vùng biển cách đảo Hải Nam 75 dặm. Trong
tháng 6/2009, một tàu ngầm của Trung Quốc đã va chạm với thiết bị định
vị kéo theo sau tàu khu trục Hải quân Mỹ. Phản ứng của Mỹ tỏ ra khá ôn
hòa khi tuyên bố vụ va chạm là do vô ý. Nhưng phía Trung Quốc lại phản
ứng mạnh mẽ. Phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố sau sự
kiện tàu Impeccable rằng các tàu Mỹ cần phải xin phép trước khi đi vào
Vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc.
Ngày
26/8/2010, ngay sau chuyến thăm Trung Quốc của Trung tướng Nguyễn Chí
Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, chính quyền Trung Quốc thông
báo họ đã sử dụng tàu lặn nhỏ có người lái cắm cờ tại đáy Biển Đông ở độ
sâu 3.759m.[13] Dù
phía Trung Quốc không nói rõ vị trí cắm cờ của tàu ở đâu và nó có vào
vùng biển tranh chấp hay không, hành động mập mờ đó của Trung Quốc dường
như ngụ ý biểu dương sự tiến bộ của Hải quân Trung Quốc, đồng thời
khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ở vùng biển. Các nước liên quan
không thể không nghi ngại của về động thái đó của Trung Quốc.
Thứ tư,
để hỗ trợ các hoạt động kiểm soát trên thực tế và tạo dựng tiền đề cho
việc khống chế Biển Đông trong tương lai, Trung Quốc ra sức hiện đại hóa
lực lượng hải quân và không quân, củng cố và phát triển các căn cứ, cơ
sở quân sự và dân sự ở vùng duyên hải và ở nhiều vị trí trong quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa. Năm 2008, một vệ tinh thương mại phát hiện Trung
Quốc xây dựng một căn cứ hải quân ở Tam Á trên đảo Hải Nam. Trong số ra
ngày 15/04/2008, tạp chí Jane's Intelligence Review của Anh đã phân tích
các tấm ảnh vệ tinh nói trên trong bài viết mang tựa đề “Tiết lộ bí mật
về Tam Á, căn cứ hải quân nguyên tử mới của Trung Quốc”. Theo chuyên
gia phân tích Richard D. Fisher Junior, tác giả bài báo, thì Tam Á là
một căn cứ quan trọng có thể dùng cho loại tàu ngầm nguyên tử 094 thuộc
thế hệ mới của Trung Quốc, có khả năng mang tên lửa đạn đạo có đầu đạn
hạt nhân. Tháng 12/2007, Hải quân Trung Quốc đã đưa chiếc tàu ngầm
nguyên tử 094 đầu tiên của họ về căn cứ này. Hàng không mẫu hạm hay các
loại tàu khác có khả năng tung lực lượng tác chiến đi xa cũng có thể đặt
bản doanh tại Tam Á.[14]
Theo
giáo sư Carlyle A. Thayer, tương quan lực lượng quân sự ở vùng Biển
Đông và Thái Bình Dương có khả năng thay đổi một khi công trình được Bắc
Kinh hoàn tất. Với căn cứ này, Trung Quốc tăng cường sức mạnh để thực
thi các tuyên bố chủ quyền của họ ở Biển Đông, bảo vệ các tuyến hàng hải
trọng yếu qua eo biển Ma-lắc-ca và phát triển các khả năng hậu cần cho
lực lượng hải quân triển khai ở Biển Đông. Cùng lúc đó, Trung Quốc cũng
mở rộng sân bay ở đảo Phú Lâm trong quần đảo Hoàng Sa, củng cố căn cứ
quân sự ở Bãi Chữ Thập trong quần đảo Trường Sa với hệ thống ra-đa cảnh
báo sớm, duy trì sự hiện diện liên tục tại Bãi đá ngầm Vành Khăn ngoài
khơi bờ biển phía Tây của Phi-lip-pin.[15] Cũng
cần phải nói thêm, không chỉ có Trung Quốc, các quốc gia khác trong
tranh chấp cũng có các hành động củng cố sự chiếm giữ của họ.
Điều
đáng nói hơn, khi căn cứ hải quân Tam Á hoàn tất, cục diện chiến lược
sẽ có những chuyển biến quan trọng vì cơ sở này sẽ cho phép quân đội
Trung Quốc vươn xuống Biển Đông và vươn ra Thái Bình Dương. Một phần căn
cứ xây ngầm dưới lòng đất gây khó khăn cho việc theo dõi. Tàu ngầm
nguyên tử Trung Quốc sẽ có điều kiện tuần tra và tấn công từ những vị
trí khó phát hiện sâu dưới lòng biển ngoài khơi Hải Nam nếu Bắc Kinh
phát triển được năng lực tác chiến cần thiết. Hiện thời, người ta chưa
rõ là bao nhiêu trong số năm chiếc tàu ngầm nguyên tử của Trung Quốc sẽ
đặt bản doanh tại Tam Á. Các hoạt động xây dựng hiện nay chứng tỏ rằng
Tam Á sẽ trở thành một căn cứ quân sự trọng yếu với nhiều tác động trên
cán cân lực lượng trong khu vực. Trung Quốc có thể lưu trữ tại đấy một
phần đáng kể các loại tên lửa răn đe hạt nhân phóng đi từ tàu ngầm.[16]
Cùng
với căn cứ tàu ngầm ở Tam Á, Trung Quốc cũng thiết lập một căn cứ tên
lửa ở Quảng Đông, nơi đơn vị 96166 thuộc Lực lượng Hỏa tiễn thứ hai của
Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA) đóng quân. Các chuyên gia
quân sự cho rằng căn cứ này sẽ được trang bị tên lửa đạn đạo DF-21C hoặc
tên lửa tầm xa CJ-10. Cả hai loại này đều có khả năng tấn công chính
xác các mục tiêu trong phạm vi 2000 km, bao trùm cả khu vực Đài Loan
cũng như quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.[17]
Trên
mặt trận ngoại giao, Trung Quốc tiếp tục phản đối yêu sách của các quốc
gia khác cùng với các nỗ lực nhằm đa phương hóa và quốc tế hóa tranh
chấp. Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc (UNCLOS) quy định
ngày 13/5/2009 là hạn chót để các nước đăng ký đường ranh giới ngoài của
thềm lục địa. Ngày 6/5/2009, Ma-lai-xi-a và Việt Nam nộp bản đề xuất
chung và ngay ngày hôm sau, Việt Nam nộp một tuyên bố riêng.[18]
Ngay lập tức, Trung Quốc phản đối nhưng không nộp văn bản công khai.
Theo quy định của Ủy ban Ranh giới thì những yêu cầu bị phản đối sẽ
không thể được xem xét. Trung Quốc đã tư liệu hóa những yêu sách biển
của mình bằng việc đính kèm một bản đồ vẽ “đường đứt khúc chín đoạn”
(hay đường lưỡi bò) tạo thành một chữ U bao vây toàn bộ Biển Đông. Đây
là lần đầu tiên Trung Quốc công khai yêu sách này và điều đáng nói là
không có một bản đồ nào được đính kèm với những tuyên bố quan trọng như
Tuyên bố về Lãnh hải (1958), Tuyên bố về Lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải
(1992), Tuyên bố về Đường cơ sở để xác định lãnh hải, và Luật về Vùng
đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa (1998) của Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa.[19]
Trung
Quốc tiếp tục kiên định lập trường giải quyết tranh chấp với từng nước
ASEAN và không muốn các nước chia sẻ thông tin về các cuộc đàm phán liên
quan tới Biển Đông giữa từng nước với Trung Quốc.[20] Trung
Quốc đã sử dụng khái niệm “quyền lợi cốt lõi” liên quan đến chủ quyền
và sự toàn vẹn lãnh thổ của họ khi đề cập đến Đài Loan và Tây Tạng.
Trong cuộc đối thoại chiến lược giữa hai nước, quan chức Bắc Kinh tuyên
bố với quan chức Mỹ rằng họ coi Biển Đông thuộc phạm vi “lợi ích cốt
lõi” của họ, một động thái càng làm tăng những mối lo ngại về động cơ
của Trung Quốc sau những diễn biến gần đây nhất.
Tại
Hội nghị ARF Hà Nội tháng 7/2010, dường như bất ngờ trước việc Ngoại
trưởng Mỹ Clinton tuyên bố Mỹ có lợi ích thiết thực ở Biển Đông,[21]
Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì đã có những lời lẽ mạnh mẽ nhằm
phản đối sự can dự của các cường quốc bên ngoài và cho rằng đối thoại
song phương là phương thức hiệu quả duy nhất để giải quyết tranh chấp.
Sau diễn đàn ARF 17 tại Hà Nội, trong một thông cáo đăng trên mạng của
Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 26/7, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết
Trì nói: “Nếu Biển Đông trở thành một vấn đề quốc tế hoặc đa phương, sẽ
chỉ khiến cho vấn đề này trở nên tồi tệ hơn và giải pháp sẽ khó khăn
hơn... Thực tiễn quốc tế cho thấy cách tốt nhất để giải quyết các bất
đồng, tranh chấp đó là các bên liên quan đàm phán song phương trực
tiếp”. Bên cạnh đó, báo chí Trung Quốc có một chiến dịch phê phán mạnh
mẽ Việt Nam và Mỹ “thông đồng” với mục tiêu quốc tế hóa tranh chấp Biển
Đông. Thậm chí, nhiều tờ báo còn cho rằng Việt Nam tìm cách liên minh
với Mỹ để hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc.[22]
Theo giới phân tích, thái độ sẵn sàng can dự của Hoa Kỳ, kèm theo với
chủ trương quốc tế hóa và đa phương hóa hồ sơ Biển Đông đã đi ngược lại
với chủ trương muốn giải quyết vấn đề trên cơ sở song phương của Trung
Quốc nhằm dễ bề gây sức ép lên các nước nhỏ và yếu hơn mình, tránh được
sự nhòm ngó của quốc tế.[23]
* Mọi quan điểm nêu trong bài viết là của riêng các tác giả.
[1]
Luật này quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở
Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa).
[2]
Luật này một lần nữa chính thức thể hiện quan điểm cả hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đều có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
riêng mà họ thường gọi là “vùng nước phụ cận”.
[3] “Việt Nam lên tiếng về Trường Sa”, BBC Tiếng Việt, ngày 07/12/2007, tại địa chỉ http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/12/071203_viet_china_spratlys.shtml
[4] “BP ngừng thăm dò ở Trường Sa”, BBC Tiếng Việt, ngày 14/06/2007, tại địa chỉ http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/06/070614_bp_china.shtml
[6] “Yêu cầu Trung Quốc chấm dứt khảo sát đảo Tri Tôn”, Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 05/08/2010, xem tại: http://www.congan.com.vn/?mod=detnews&catid=681&id=127115.
[7] “Hanoi protests China fishing ban”, BBC, June 8, 2009, xem tại: http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/8089654.stm;
“Controversial Chinese Ban affects more Vietnamese Fishing Vessels”,
Thanh Nien News 5/6/2009, “Fishmen Intimidated and Harrassed by Chinese
Patrol Boats”, Thanh Nien News, 8/6/2009.
[8] Xem: “Phản đối Trung Quốc bắt giữ ngư dân Việt Nam”, Tuổi trẻ, 15/12/2009, tại http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/353329/Phan-doi-Trung-Quoc-bat-giu-ngu-dan-VN.html, “Trung Quốc lại bắt giữ ngư dân Việt Nam”, BBC Việt ngữ, ngày 28/3/2010, xem tại: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/03/100328_viet_fishermen.shtml, và “Ngư dân Việt Nam lại bị Trung Quốc bắt giữ”, Vnexpress, ngày 7/5/2010, xem tại:
http://vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2010/05/3BA1B97A/
http://vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2010/05/3BA1B97A/
[9] Greg Torode, “China ban on fishing as tension runs high”, South China Morning Post, 16/5/2010, xem tại: http://www.viet-studies.info/kinhte/china_ban_on_fishing_SCMP.htm
[12] Linh Huơng, “Hải quân Trung Quốc và dự tính chia đôi Thái Bình Dương”, Tuần Vietnamnet, ngày 28/2/2009, xem tại:
http://www.tuanvietnam.net/hai-quan-trung-quoc-va-du-tinh-chia-doi-thai-binh-duong.
http://www.tuanvietnam.net/hai-quan-trung-quoc-va-du-tinh-chia-doi-thai-binh-duong.
[13] “Trung Quốc cắm cờ ở dưới đáy Biển Đông”, Thanh Niên, ngày 28/8/2010, xem tại:
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/201035/20100828003929.aspx, ngày 11/10/2010.
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/201035/20100828003929.aspx, ngày 11/10/2010.
[14] “Căn cứ hải quân Tam Á: Chủ bài trong chiến lược khống chế biển Đông”, RFI, ngày 15/09/2008, xem tại: http://www.rfi.fr/actuvi/articles/101/article_34.asp, xem ngày 1/9/2010.
[15]
Carlyle A. Thayer, “The United States and Chinese Assertiveness in the
South China Sea”, Security Challenge, Vol. 6, No. 2, 2010, tr. 73.
[16] “Căn cứ hải quân Tam Á: Chủ bài trong chiến lược khống chế biển Đông”, RFI, 15/09/2008, xem tại: http://www.rfi.fr/actuvi/articles/101/article_34.asp, xem ngày 1/9/2010.
[17]
Minnie Chan and Greg Torode, “PLA opens Guangdong missile base; South
China Sea in range”, South China Morning Post, August 7, 2010 Saturday,
xem tại: http://www.viet-studies.info/kinhte/pla_opens_guangdong_missile_base.htm.
[18] Xem: http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_mysvnm_33_2009.htm và http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_vnm_37_2009.htm, truy cập ngày 9/9/2010.
[19]
Carlyle A.Thayer, “Những diễn biến gần đây ở Biển Đông : Hệ lụy đối với
hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực” trong Đặng Đình Quý (Chủ
biên), Biển Đông : Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong Khu vực, Nxb.
Thế Giới, Hà Nội, 2010, tr. 160.
[20] “Foreign Minister warns South China Sea issue”,
http://www.chinadaily.com.cn/china/2010-07/26/content_11046544.htm, xem ngày 10/9/2010.
http://www.chinadaily.com.cn/china/2010-07/26/content_11046544.htm, xem ngày 10/9/2010.
[21]
Ngày 23/7/2010, tại Diễn đàn An ninh Khu vực ARF tại Hà Nội, Ngoại
trưởng Mỹ H. Clinton đã tuyên bố rằng “Lợi ích quốc gia của Mỹ bao hàm
quyền tự do hàng hải, quyền tiếp cận các vùng biển chung của châu Á, và
sự tôn trọng luật lệ quốc tế tại khu vực Biển Đông”. Lo ngại về tác hại
của các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa 6 quốc gia và vùng lãnh thổ
trong khu vực là Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Brunei, Ma-lai-xi-a và
Phi-lip-pin, Ngoại trưởng Mỹ xác định việc giải quyết tranh chấp Biển
Đông là một “ưu tiên ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ”.
[22] “Giới phân tích Bắc Kinh coi tập trận Mỹ-Việt là chống lại Trung Quốc”, RFI, ngày 12/8/2010, xem tại: http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100812-gioi-phan-tich-bac-kinh-coi-tap-tran-my-viet-la-chong-lai-trung-quoc, ngày 19/9/2010.
[23] “Trung Quốc chống quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông”, RFI, ngày 25/7/2010, xem tại: http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20100725-trung-quoc-chong-viec-quoc-te-hoa-tranh-chap-bien-dong, ngày 19/9/2010.
PHẦN II: Đằng sau những thay đổi trong cách tiếp cận của Trung Quốc đối với Biển Đông
Ở
phần này bài viết sẽ đi vào phân tích đánh giá những tác nhân đằng sau
những thay đổi trong các tiếp cận của Trung Quốc đối với Biển Đông kể từ
năm 2007 đến nay. Bài viết đánh giá việc Trung Quốc duy trì chính sách
mập mờ về “lợi ích cốt lõi” của mình đối với Biển Đông là để nhằm tránh
việc đa phương hóa vấn đề tranh chấp Biển Đông nhằm hạn chế sự can thiệp
của quốc tế đặc biệt là Mỹ, và hơn nữa là nhằm tạo điều kiện có lợi cho
mình trong việc sử dụng “sức mạnh mềm” trong giải quyết tranh chấp với
các nước trong khu vực này.
Dễ
nhìn thấy rằng tuyên bố và hành động của Trung Quốc đối với Biển Đông
trong thời gian từ năm 2007 trở lại đây có yếu tố tiếp biến chính sách
giai đoạn trước. Sự tiếp biến thể hiện dưới hình thức sử dụng tuyên bố
của người phát ngôn Bộ Ngoại giao khẳng định chủ quyền của Trung Quốc
trong phạm vi đường lưỡi bò, triển khai các hoạt động thăm dò, chủ
trương giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán song phương, phản đối
quốc tế hóa, trong khi đó chủ động khai thác dầu khí ở Biển Đông, nhưng
lại phản đối hành động thăm dò và khai thác của các quốc gia khác trong
phạm vi đường đứt khúc chín đoạn, đơn phương áp đặt lệnh cấm bắt cá,
ngăn cản và bắt giữ tàu thuyền và ngư dân của các quốc gia khác hoạt
động tại vùng biển, tiến hành các hoạt động nhằm củng cố các công trình
dân sự và quân sự của Trung Quốc tại các đảo đã chiếm đóng… Các quan
chức và học giả Trung Quốc tiếp tục cổ súy, vận động các quốc gia tranh
chấp khác ủng hộ chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở những
vùng biển nằm trong phạm vi thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của
các bên tranh chấp khác.
Theo
Joshua Kurlantzick, trong những năm đầu của thập kỷ vừa qua, Trung Quốc
đã ít đả động đến yêu sách về chủ quyền ở Biển Đông, trong khi đẩy mạnh
thực hiện cuộc tấn công quyến rũ bằng “sức mạnh mềm”, phát triển mối
quan hệ kinh tế, ngoại giao và kể cả an ninh gần gũi với các quốc gia
Đông Nam Á. Thế nhưng gần đây, cách tiếp cận “mềm mỏng” đó dường như đã
bị bỏ qua.[1]
Bên cạnh việc vừa tiếp tục các tranh cãi về chủ quyền, vừa chủ động đàm
phán song phương, Bắc Kinh đồng thời đẩy mạnh xây dựng lực lượng hải
quân tác chiến, tranh thủ mọi cơ hội biểu dương sức mạnh, phớt lờ việc
thực hiện DOC và đẩy mạnh triển khai các biện pháp nhằm kiểm soát thực
tế trên các vùng biển mà Trung Quốc yếu sách chủ quyền theo hướng chính
thức, khẳng định và thách thức hơn. Hành động của Trung Quốc mang tính
chủ động, tự tin hơn, một mặt khoanh vùng và phát huy ảnh hưởng ở Biển
Đông, ngăn chặn ảnh hưởng, sự can dự của các nước lớn khác, mặt khác sử
dụng “nắm đấm thép bọc nhung” để hăm dọa các bên khác trong tranh chấp.
Trung Quốc đã cho cải hoán các tàu quân sự thành tàu tuần tra dân sự,
điều một số tàu này đến hoạt động ở Biển Đông.[2]
Việc Trung Quốc tăng cường hiện diện trên Biển Đông đồng nghĩa với việc
các ngư dân và tàu khảo sát của các nước khác trong khu vực hoạt động ở
Biển Đông sẽ đụng độ nhiều hơn với các tàu Trung Quốc lớn hơn và được
trang bị tốt hơn, trong đó có tàu Ngư Chính 311 (Yuzheng 311).[3]
Thực tế cho thấy, các tàu tuần ngư khổng lồ của Trung Quốc không ngại
đụng độ trên biển. Bên cạnh đó, các hoạt động mạnh mẽ và quy mô chưa
từng thấy của các lực lượng Hải quân Trung Quốc tại Biển Đông cho thấy
Hải quân Trung Quốc luôn sẵn sàng chiến đấu, khiến các quốc gia khác
không khỏi e dè.[4]
Điều
đáng chú ý là từ năm 2007 đến nay, các bên tranh chấp chủ quyền ở Biển
Đông khác cũng tiếp tục có các động thái củng cố cơ sở hạ tầng, tuyên
truyền về yêu sách chủ quyền, đẩy mạnh tuần tra, trinh sát trên biển...
Có thể kể đến việc Đài Loan đã hoàn thành công trình đường băng trên đảo
Ba Bình, cựu lãnh đạo Đài Loan Trần Thủy Biển ra thăm đảo và nêu “Đề
xướng Nam Sa”. Trong năm 2008, Phi-lip-pin từng bước hoàn tất các thủ
tục nội bộ để thông qua Dự luật về đường cơ sở mới, và ngày 10/3/2009,
Tổng thống nước này ký ban hành Luật đường cơ sở mới của Phi-lip-pin
(RA9522) trong đó quy thuộc các đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt
Nam vào lãnh thổ Phi-lip-pin. Ma-lai-xi-a khẳng định yêu sách chủ quyền
đối với quần đảo Trường Sa bằng chuyến thăm của Phó Thủ tướng kiêm Bộ
trưởng Quốc phòng (ngày 12/8/2008) và của Thủ tướng nước này (ngày
05/03/2009) đến đảo đá Hoa Lau.
Thực
trạng đó đặt ra câu hỏi: Thái độ cứng rắn, hành động tự tin và quyết
liệt của Trung Quốc tại Biển Đông từ năm 2007 đến nay là kết quả của (i)
việc điều chỉnh chủ động trong chiến lược biển và chính sách của Trung
Quốc với tranh chấp tại Biển Đông hay không, hay đó chỉ là (ii) những
phản ứng của Trung Quốc đối với động thái của các quốc gia khác trong
tranh chấp, hay là (iii) “động thái ném đá dò đường”, phép thử đối với
phản ứng của các quốc gia khác, hay chỉ là (iv) hành động vượt quá thẩm
quyền, có tính nhất thời của các lực lượng hải quân hoặc tuần duyên của
Trung Quốc? Đáng chú ý, trong các cuộc trao đổi gần đây với học giả Việt
Nam, học giả Trung Quốc khẳng định chính sách của Trung Quốc đối với
các nước láng giềng nói chung và với các tranh chấp ở Biển Đông không hề
thay đổi, rằng có sự hiểu nhầm do báo chí phương Tây.
Diễn
biến ủng hộ cho lập luận thứ hai là việc Trung Quốc công khai “đường
lưỡi bò” để phản đối báo cáo về ranh giới ngoài của thềm lục địa của
Việt Nam và Ma-lai-xi-a (2009). Tuy nhiên, khó có thể tìm thấy mối liên
hệ nhân quả giữa các hành động khác của các quốc gia khác và sự hung
hăng bất thường của Trung Quốc từ cuối năm 2007 đến nay. Khả năng thứ tư
vẫn còn để ngỏ bởi Trung Quốc chưa bao giờ công khai quy trình hoạch
định chính sách và chính trị nội bộ của họ. Trong phát biểu của mình tại
Hội thảo quốc tế lần thứ hai về Biển Đông, học giả Leszek Buszynski bày
tỏ lo ngại về sự không minh bạch trong quá trình ra quyết sách trong
chính trị nội bộ của Trung Quốc, thế áp đảo của phe quân sự trong nền
chính trị ở Bắc Kinh, và ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.[5]
Khả năng thứ ba có thể được loại bỏ vì hành động của Trung Quốc có vẻ
ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn bất chấp sự phản đối, nghi ngại của
cộng đồng quốc tế và các nước trong khu vực.
Xem
xét kỹ những hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm 2007 đến nay
cho thấy khả năng thứ nhất (i) hợp lý hơn cả. Lý do đơn giản là các biện
pháp mà Trung Quốc triển khai có cường độ mạnh và thái độ quyết liệt
“bất bình thường”, có sự phối hợp đồng bộ chặt chẽ của nhiều ngành,
nhiều lực lượng, và được đưa tin, phổ biến rộng rãi trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Nhiều dấu hiệu cho thấy với sức mạnh kinh tế và
quân sự tăng lên nhanh chóng, Trung Quốc đang phấn đấu vươn lên trở
thành một cường quốc toàn cầu, trong đó coi Biển Đông vừa là mắt xích
quan trọng trong tuyến phòng thủ hải quân chiến lược và nằm trong phạm
vi ảnh hưởng sống còn của Trung Quốc, vừa là cửa ngõ chiến lược để đi ra
thế giới. Thêm nữa, sự mạnh bạo của Trung Quốc ở Biển Đông diễn ra đồng
thời với thái độ và hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Hoa Đông,
mở rộng hoạt động của hải quân Trung Quốc ở biển E-den…
Bằng
chứng rõ rệt nhất là giới tinh hoa chính trị của Trung Quốc “đánh
tiếng” nâng cấp Biển Đông trở thành khu vực “lợi ích cốt lõi”[6] (hạch tâm quyền lợi) của Trung Quốc.[7]
Theo tin tức báo chí quốc tế, Trung Quốc lần đầu tiên coi vấn đề Biển
Đông thuộc “lợi ích cốt lõi” trong chuyến thăm Trung Quốc của Thứ trưởng
Ngoại giao Mỹ Steinberge vào tháng 3/2010. Tuy từ đó đến nay, chưa thấy
lãnh đạo Trung Quốc có phát biểu công khai nói Biển Đông là “lợi ích
cốt lõi” và học giả Trung Quốc tham dự Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần
hai cũng khẳng định điều này,[8] nhưng khi báo chí trong và ngoài Trung Quốc rầm rộ đưa tin,[9]
các kênh nhà nước của Trung Quốc cũng không có phản đối hay đính chính
chính thức. Liệu điều đó có hàm ý rằng giới lãnh đạo và tinh hoa chính
trị của Trung Quốc ngầm ủng hộ một quan niệm như vậy?
Ngụ
ý của việc quan chức Trung Quốc mập mờ phổ biến khái niệm lợi ích quốc
gia cốt lõi đối với Biển Đông là Bắc Kinh sẽ không cho phép thảo luận
hay đặt vấn đề đối với những chính sách của họ và có lẽ sẽ đẩy lùi sự
hiện diện của quân đội của các cường quốc khác ở ngoài khơi mạnh hơn bao
giờ hết. Trong những năm gần đây, Bắc Kinh cũng đã cảnh báo những công
ty dầu lửa của Hoa Kỳ không được tham gia các thỏa thuận thăm dò hỗn hợp
ở Biển Đông với Việt Nam. Và cũng có tin là họ đã nói với các quốc gia
Đông Nam Á không thảo luận những vấn đề liên quan đến biển Đông với
nhau.[10]
Việc
Trung Quốc có ý duy trì khái niệm mơ hồ về lợi ích cốt lõi có thể khiến
các nước trong tranh chấp lo sợ rằng: (i) có phải Bắc Kinh vừa tạo
không gian để áp dụng tiêu chuẩn kép, một mặt đòi các cường quốc khác
tuân thủ cái gốc là vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải
lý, mặt khác lại duy trì đòi hỏi phi lý về đường lưỡi bò đối với các
nước trong tranh chấp trực tiếp?; (ii) liệu có phải Bắc Kinh tạo tâm lý
răn đe dùng vũ lực, ép các nước liên quan chấp nhận giải pháp “gác tranh
chấp, cùng khai thác” có lợi cho Trung Quốc.
Không
thể phủ nhận Trung Quốc có những lợi ích hữu hình quan trọng ở Biển
Đông như: (i) đường biển quan trọng vận chuyển hàng hóa phục vụ phát
triển kinh tế: số lượng dầu nhập khẩu chiếm 50% nhu cầu trong nước,
trong đó 70% số dầu nhập khẩu này phải vận chuyển qua Biển Đông; (ii)
các nguồn tài nguyên biển, trong đó quan trọng nhất là dầu khí và hải
sản để phục vụ cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, thái độ và hành động
của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm 2007 đến nay cho thấy giới chính trị -
quân sự Bắc Kinh nhìn nhận Biển Đông chủ yếu ở góc độ địa chính trị và
địa chiến lược. Theo đó, Biển Đông là không gian lợi ích sống còn, là
cửa ngõ để tiến xuống khu vực Đông Nam Á, và vươn xa hơn trở thành cường
quốc đại dương. Một loạt hành động như trên trong thời gian gần đây có
thể được hiểu là nỗ lực của Bắc Kinh nhằm đặt toàn bộ Biển Ðông dưới
quyền kiểm soát của Trung Quốc, không chỉ để bảo vệ quyền lợi về dầu lửa
và tài nguyên biển của họ, mà còn vì lý do chiến lược và quân sự, chẳng
hạn như để ngăn chặn bất kỳ hành động can thiệp nào của lực lượng Mỹ
trong trường hợp khẩn cấp liên quan đến Đài Loan.[11]
Mong
muốn kiểm soát Biển Đông, biến khu vực này trở thành “ao nhà” ngày càng
trở nên rõ ràng qua nhiều tuyên bố, biện pháp và hành động mạnh bạo có
tính áp đặt và mạnh bạo nhằm khẳng định chủ quyền pháp lý cùng khả năng
kiểm soát biển trên thực tế. Tuy nhiên, Biển Đông còn có ý nghĩa là khu
vực ảnh hưởng sống còn, và là cửa ngõ chiến lược đầu tiên để Trung Quốc
đi ra thế giới. Việc các lực lượng quân sự của Trung Quốc mạnh dạn chặn
các tàu của Mỹ, thử phản ứng của Mỹ với đề nghị chia khu vực ảnh hưởng ở
Thái Bình Dương, đe dọa và bắt bớ các tàu thuyền của các nước tranh
chấp, xây dựng căn cứ tàu ngầm chiến lược ở Tam Á là những minh chứng rõ
ràng về quan niệm của giới chính trị và quân sự Bắc Kinh về tầm quan
trọng của Biển Đông và tương lai của vùng biển này trong chiến lược
cường quốc của Trung Quốc.
Sự
điều chỉnh cách tiếp cận của Trung Quốc là nguyên nhân cơ bản khiến
quan hệ giữa Trung Quốc và các nước tranh chấp khác trở nên căng thẳng.
Sau năm năm ra đời, Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)
giữa Trung Quốc và các nước ASEAN không đủ để ngăn tranh chấp Biển Đông
ngày càng nóng và trở thành nguy cơ hiện hữu đối với hòa bình, ổn định ở
khu vực và tình hữu nghị giữa các quốc gia trong khu vực. Tuy nhiên, rõ
ràng là Trung Quốc vẫn chưa đủ sức mạnh chính trị và quân sự để kiểm
soát toàn bộ Biển Đông và không muốn căng thẳng biến thành bất ổn, xung
đột quân sự. Do đó, lãnh đạo Trung Quốc luôn trấn an các nước trong khu
vực và kêu gọi cần phải có hòa bình, ổn định, và hợp tác. Tại buổi họp
báo sáng ngày 6/01/2010 ở Hà Nội, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc
tại Việt Nam Tôn Quốc Tường nói rằng “chúng ta đã thiết lập cơ chế đàm
phán về vấn đề trên biển, thực hiện nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao
hai nước, thúc đẩy tiến trình đàm phán. Để giải quyết tranh chấp, hai
bên cần xuất phát từ đại cục, toàn cục và lợi ích căn bản của nhân dân
hai nước, tạm gác lại tranh chấp, không làm ảnh hưởng đến sự phát triển
bình thường, thuận lợi của quan hệ hai nước. Tôi nghĩ đây là cách làm
phù hợp nhất”.[12]
Thông điệp “giữ đại cục” này cũng được nhắc đi nhắc lại trong nhiều
cuộc trao đổi giữa học giả Trung Quốc và Việt Nam, với lập luận Trung
Quốc còn phải đối phó với nhiều khó khăn trong nội bộ của nước này, đặc
biệt là các vấn đề phát triển và xã hội.
Nghịch
lý là, Trung Quốc trước hết sử dụng luận điểm “giữ đại cục” để trấn an
các nước vừa và nhỏ trong khu vực, trong khi tiếp tục duy trì sự mập mờ
trong chính sách an ninh biển và sử dụng nhiều chiến thuật khác nhau để
giành thế chủ động và quyền kiểm soát thực tế ở Biển Đông. Giáo sư
Carlyle A. Thayer cho rằng Trung Quốc đang cố tình theo đuổi một chính
sách mập mờ có tính toán trong vấn đề này và sẽ trì hoãn việc giải quyết
các tuyên bố chủ quyền trái ngược nhau cho đến thời điểm mà Bắc Kinh
cảm thấy thích hợp.[13]
Thứ hai, đó là chiến thuật “salami”, thực hiện chính sách “lấn dần từng
bước”, đảm bảo đạt được sự kiểm soát tình hình, mà không làm cho các
bên yêu sách cùng dư luận quốc tế phản ứng thái quá. Bắc Kinh luôn kết
hợp cứng và mềm, sẵn sàng đàm phán khi cần thiết, nhưng cũng sẵn sàng
vứt bỏ “cam kết” khi cần. Thứ ba, Trung Quốc kiên trì đàm phán song
phương, phản đối đa phương hóa và quốc tế hóa. Theo cách đó, Trung Quốc
có thể “chia để trị” và luôn duy trì được thế áp đảo đối với đối phương.
Ít có khả năng Trung Quốc tham gia các cơ chế an ninh hợp tác, nơi đó
Trung Quốc phải chấp nhận vị thế và lợi ích ngang bằng với các quốc gia
khác. và yếu hơn mình, tránh được sự nhòm ngó của quốc tế.[14]
[1] Joshua
Kurlantzick, “Avoiding a Tempest in the South China Sea”, Expert Brief,
Council on Foreign Relations, September 2, 2010, xem tại: http://www.cfr.org/china/avoiding-tempest-south-china-sea/p22858.
[2] Yuzheng 311, 303 start escort in South China Sea, Sina English, 26 November 2009, xem tại: http://english.sina.com/china/p/2009/1126/288553.html,
[3] Peter Brown, Calculated ambiguity in the South China Sea, Asia Times, 8 December 2009, xem tại: http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/KL08Ae01.html
[4] xem thêm: Bước phát triển mới của Hải quân Trung Quốc, BBC Vietnamese, ngày 12/5/2010, xem tại: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2010/05/100512_china_navy_strategy.shtml
[5]
Leszek Buszynski, “Rising Tensions in the South China and Implications
for Regional Security”, Tham luận tại Hội thảo quốc tế: “Biển Đông: Hợp
tác vì An ninh và Phát triển ở khu vực”, tổ chức tháng 11/2010 tại thành
phố Hồ Chí Minh.
[6] Một thuật ngữ mà nước này thường dùng trong quá khứ để đề cập đến vấn đề Đài Loan, Tây Tạng, và Tân Cương.
[7] Cary Huang, “A bolder China asserts 'core' interests - but will it act?”, South China Morning Post, August 12, 2010, xem tại: http://www.viet-studies.info/kinhte/china_asserts_core_interest.htm,
[8]
GS. Tô Hạo khẳng định tại Hội thảo Quốc tế về Biển Đông tại thành phố
Hồ Chí Minh (11/2010): Trung Quốc chưa bao giờ sử dụng thuật ngữ “lợi
ích cốt lõi” trong các tài liệu chính thức.
[9]
Các báo China Daily, Global Times, và một số tạp chí của Trung Quốc đều
có tin bài của học giả Trung Quốc nêu nội dung này. Báo China Daily
ngày 30/7/2010 đăng bài của Ai Yang nhấn mạnh “Nam Hải là một trong
những lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc. Tạp chí Thế giới Tri thức (thuộc
Bộ Ngoại giao Trung Quốc) số ngày 16/8 đăng bài của học giả Trung Quốc
khẳng định vào tháng 3 năm 2010, Trung Quốc đã nêu rõ với phía Mỹ rằng
Nam Hải liên quan đến “lợi ích cốt lõi” về chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của Trung Quốc.
[10]
Joshua Kurlandtzick, “Avoiding a Tempeset in the South China Sea”,
Expert Brief on Council on Foreign Relations Website, September 2, 2010,
retrieved on October 10, 2010 at http://www.cfr.org/publication/22858/avoiding_a_tempest_in_the_south_china_sea.html
[11] Trọng Nghĩa, “Nhìn từ Nhật Bản: Phải buộc Trung Quốc đàm phán đa phương về Biển Đông”, RFI, ngày 11/10/2010, xem tại: http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/20100827-nhin-tu-nhat-ban-phai-buoc-trung-quoc-dam-phan-da-phuong-ve-bien-dong.
[12] “Chờ điều kiện chín muồi để giải quyết tranh chấp Biển Đông”, VNN phỏng vấn Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường, xem tại http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/201001/Cho-dieu-kien-chin-muoi-giai-quyet-tranh-chap-bien-Dong-888092/ ngày 11/9/2010.
[13]Peter
J. Brown, “Calculated ambiguity in the South China Sea”, Asian Times,
December 8, 2009, retrieved at:
http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/KL08Ae01.html on October 10, 2010.
[14] “Trung Quốc chống quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông”, RFI, ngày 25/7/2010, xem tại: http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20100725-trung-quoc-chong-viec-quoc-te-hoa-tranh-chap-bien-dong, ngày 19/9/2010.
PHẦN III: Những điều chỉnh trong chiến lược của Trung Quốc đối với Biển Đông(tt)
Những
điều chỉnh trong chiến lược của Trung Quốc đối với Biển Đông đã có
những thay đổi rõ rệt. Điều này dựa trên mối liên hệ giữa chính sách
Biển Đông của Trung Quốc với những diễn biến mới trong bối cảnh quốc tế,
chính trị nội bộ của Trung Quốc, đặc biệt là gắn nó với chiến lược an
ninh - đối ngoại của Bắc Kinh hiện nay. Do đó chiến lược “giấu mình chờ thời” hay “ ngoại giao hài hòa”nhường chỗ cho chiến lược an ninh và đối ngoại mang tính khẳng định hơn, chủ động và hiếu chiến hơn nhằm gây sức ép với các nước tranh chấp trong khu vực.
Để
hiểu được động cơ đằng sau những thay đổi trong cách hành xử của Trung
Quốc ở Biển Đông, cần phải đặt chính sách Biển Đông của Trung Quốc trong
mối liên hệ với những diễn biến mới trong bối cảnh quốc tế, chính trị
nội bộ của Trung Quốc, đặc biệt là gắn nó với chiến lược an ninh - đối
ngoại của Bắc Kinh hiện nay. Có thể nhận định, điều chỉnh chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông nằm trong thay đổi chiến lược an ninh và đối ngoại của Bắc Kinh trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều nhân tố mới.
Thay đổi cơ bản nhất trong môi trường chiến lược quốc tế là
việc sức mạnh tổng hợp của Trung Quốc tăng mạnh làm cho khoảng cách
kinh tế, quân sự, và quốc phòng giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng thu hẹp,
cho cán cân quyền lực kinh tế và quân sự chuyển dịch theo hướng có lợi
cho Trung Quốc. Trung Quốc vươn lên mạnh mẽ vượt Đức và Nhật, trở thành
nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới trong lúc Mỹ suy yếu tương đối sau
cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế, gặp khó khăn cả bên trong và bên
ngoài. Một phần nguồn lực kinh tế được đầu tư để hiện đại hóa quốc
phòng, đặc biệt là hải quân. Đô đốc Mike Mullen, Chủ tịch Hội đồng Tham
mưu trưởng liên quân Mỹ, nhận định rằng ý đồ chiến lược đằng sau sự phát
triển các khả năng quân sự mới của Trung Quốc dường như tập trung vào
lực lượng hải quân Mỹ và căn cứ quân sự của Mỹ ở khu vực này của thế giới[1].
Thực
lực kinh tế hùng mạnh, đặc biệt là kho dự trữ ngoại hối to lớn và vị
thế hàng đầu trong nền thương mại quốc tế cho phép Trung Quốc có khả
năng tác động mạnh đến kinh tế thế giới, không những thoát khỏi thế phụ
thuộc vào Mỹ để phát triển mà còn đưa siêu cường này vào một tình thế
“phụ thuộc sống còn về kinh tế” [mutually economic destruction][2]. Đó
là lý do tại sao, Trung Quốc ngày càng tỏ ra tự tin, ngạo mạn, không
còn “giấu mình chờ thời”, mà chủ động phô diễn sức mạnh về quân sự và
sẵn sàng nói không với Mỹ trên nhiều vấn đề. Trung Quốc tận dụng mọi cơ
hội để thay đổi luật chơi, gạt bỏ vai trò chủ đạo của Mỹ. Hiện nay,
Trung Quốc là một đầu tàu kinh tế, là một bên chủ yếu nắm giữ chìa khóa
đối với nhiều vấn đề chính trị tại khu vực và đang muốn chứng tỏ vai trò
là cường quốc quân sự châu Á duy nhất tại Đông Á, thách thức vai trò
siêu cường của Mỹ ở khu vực.
Lợi
dụng việc Mỹ sa lầy trong cuộc chiến ở Áp-ga-ni-xtan và I-rắc, bối rối
trong cách ứng phó với CHDCND Triều Tiên và I-ran, bận rộn xử lý vấn đề
I-xra-en và Pa-le-xtin, Trung Quốc tìm cách từng bước lấn lướt Mỹ ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Từ 2002 đến 2007, Trung Quốc phát huy ảnh
hưởng đối với các nước Đông Nam Á qua các cơ chế ASEAN+1, ASEAN+3, Cấp
cao Đông Á, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO)… để đối trọng với hệ thống
an ninh “trục và nan hoa” của Mỹ. Tháng 3/2003, Trung Quốc tham gia Hiệp
ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) và cùng với ASEAN thông qua Tuyên bố
chung về Đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc
cũng đẩy mạnh ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á thông qua các kênh song
phương. Tháng 4/2005, Trung Quốc và In-đô-nê-xi-a ký tuyên bố chung về
xây dựng quan hệ đối tác chiến lược. Tháng 4/2006, Trung Quốc và
Cam-pu-chia thông qua Chương trình Đối tác Hợp tác Toàn diện. Tháng
5/2007, Trung Quốc và Thái Lan ký Chương trình Hành động cho Hợp tác
Chiến lược. Ngoài ra, còn có một loạt các thỏa thuận hợp tác an ninh
song phương giữa Trung Quốc với Ma-lai-xi-a, Việt Nam, Bru-nây,
Xinh-ga-po, Phi-lip-pin và Lào. Từ 2002 đến 2008, Trung Quốc và 10 nước
ASEAN trao đổi 124 đoàn quan chức quốc phòng cao cấp cùng với các hoạt
động tham vấn thường xuyên với 10 nước này[3]. Bằng
cách đó, Trung Quốc đã nâng cao vai trò và vị thế của mình ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương một cách tương đối so với vai trò và vị thế của
Mỹ và Nhật Bản.
Ở trong nước,
chính quyền Bắc Kinh ngày càng phải đối mặt với nhiều thách thức trong
việc thực hiện hai mục tiêu cơ bản xuyên suốt của mình là (i) duy trì ổn
định chính trị và phát triển kinh tế, cơ sở cho tính chính đáng của
Đảng Cộng sản, và (ii) ngăn chặn các làn sóng bạo loạn, ly khai trong
các cộng đồng sắc tộc thiểu số ở các vùng biên cương. Quá trình đổi mới
kinh tế mà không đổi mới chính trị buộc các nhà lãnh đạo thực dụng của
Trung Quốc phải tìm kiếm các cơ sở chính đáng mới ở chủ nghĩa dân tộc. Thứ nhất,
Đảng Cộng sản Trung Quốc thể hiện họ lãnh đạo dân tộc để bảo vệ độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc, từ Tây Tạng, Tân
Cương đến Đài Loan và Biển Đông.
Bên cạnh đó, con bài chủ nghĩa dân tộc đã được sử dụng tương đối thành
công khi Trung Quốc phải đối mặt với các thế lực thù địch từ bên ngoài,
ví dụ như trong việc Bắc Kinh phản đối Mỹ và Phương Tây trong các vấn đề
dân chủ, nhân quyền, can thiệp vào các vấn đề Tây Tạng, Tân Cương và
Đài Loan, bảo vệ hình ảnh của Trung Quốc trong Thế vận hội Olympic 2008,
và gần đây nhất là bảo vệ tàu và ngư dân Trung Quốc bị Nhật Bản bắt[4]. Đáng
chú ý, một học giả Mỹ phát hiện ra một thực tế rằng các phương tiện
thông tin đại chúng của Trung Quốc đưa tin nhanh và tuyên truyền rộng
rãi, mạnh mẽ về vấn đề tranh chấp biển đảo, trong khi đưa tin mờ nhạt về
các tranh chấp biên giới trên bộ, và nhận định đó có thể là một sách
lược để nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và lấy đó là cơ sở để duy trì tính
chính đáng của chính quyền cộng sản. Thứ hai, tính chính đáng của
Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng dựa trên việc trợ giúp các doanh nghiệp
của Trung Quốc tiếp cận các nguồn tài nguyên chiến lược. Từ
đầu thế kỷ 21 đến nay, để thỏa mãn một đại công xưởng tăng trưởng mạnh
mẽ và không ngừng, Trung Quốc cần một lượng tài nguyên khổng lồ. Chính
quyền cộng sản sử dụng triệt để các công cụ chính trị và kinh tế để hỗ
trợ cho các doanh nghiệp của Trung Quốc vươn ra mạnh mẽ để giành quyền
tiếp cận các nguồn tài nguyên chiến lược, từ Mỹ La-tinh đến châu Phi,
Trung Đông và các khu vực xung quanh Trung Quốc. Chính vì thế, Trung
Quốc gạt Mỹ và phương Tây ra khỏi Xu-đăng và nhiều nước châu Phi và Mỹ
La-tinh khác để giành được các hợp đồng khai thác tài nguyên thô. Trong
bối cảnh đó, nguồn tài nguyên ở Biển Đông, cả dầu mỏ và nguồn cá (đã
được báo chí Trung Quốc thổi phồng) là một “miếng mồi” không thể bỏ
qua. Thứ ba, chính sách đối ngoại của Bắc Kinh cũng chịu sự ảnh
hưởng của cạnh tranh giữa các lực lượng, phe phái chính trị trong nội bộ
Trung Quốc.
Chính
sách đối với Biển Đông của Trung Quốc cần được xem xét trong tổng thể
chiến lược an ninh và phát triển của nước này nhằm vươn lên thành một
cường quốc toàn cầu. Chứng kiến sự vươn ra mạnh mẽ của Trung Quốc, một
học giả nhận xét rằng “sự
bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông chỉ là một phần của kế hoạch
bành trướng tổng thể, bao gồm “bành trướng cứng” như bành trướng trên
biển, trên đất liền, và bành trướng mềm như tăng cường hiện diện ở tất
cả các nơi có tiềm năng lợi ích về tài nguyên, dầu mỏ, địa chính trị,
v.v... cho Trung Quốc”[5].
Mong
muốn trở thành cường quốc toàn cầu của Trung Quốc đã bộc lộ từ thời Mao
Trạch Đông, khi Bắc Kinh tự coi mình là lãnh tụ của các nước thế giới
thứ ba trong cuộc đấu tranh với hai siêu cường và các nước công nghiệp
phát triển. Định hướng chiến lược này, tuy nâng Trung Quốc lên hàng một
cường quốc trung gian giữa Mỹ và Liên Xô, nhưng lại không thể giúp Trung
Quốc có được nguồn vốn và công nghệ cần thiết để phát triển kinh tế.
Dưới thời Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc chuyển sang mục tiêu chiến lược
“bốn hiện đại hóa”, đồng thời áp dụng phương châm “giấu mình chờ thời”.
Ước vọng toàn cầu được giấu đi, kìm nén, không được cụ thể hóa, chỉ nói
chung chung là phấn đấu cho một trật tự thế giới công bằng, dân chủ và
“đa cực hóa”. Sau một phần tư thế kỷ “cải cách khai phóng”, Trung Quốc
đã từ một nước nghèo nàn lạc hậu vươn lên thành một nước công nghiệp hóa
mới, trở thành một đầu tàu tăng trưởng của thế giới, với tổng sản phẩm
xã hội đứng thứ 4 thế giới (2006) và một viễn cảnh sẽ vươn lên dẫn đầu
thế giới sau nửa thế kỷ tiếp theo. Những điều này một mặt khiến nhiều
nước, nhất là Mỹ, lo ngại Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng của họ, mặt
khác cũng khiến bản thân Trung Quốc khó lòng kiềm chế trong việc bày tỏ
tham vọng. Một biểu hiện của việc thiếu kiềm chế là Trung Quốc cố sức tự
đưa người vào vũ trụ trong khi thu nhập quốc dân đầu người vẫn còn ở
mức nghèo (hơn 1000 đôla), một việc làm mà nhiều nước phát triển cao có
khả năng cũng không đầu tư vì nặng tính khoa trương nhiều hơn là hiệu
quả kinh tế. Cũng trong giai đoạn này, Trung Quốc đưa ra thuyết “trỗi
dậy hòa bình” nhằm biện minh cho sự vươn lên vị thế một cường quốc thế
giới. Khái niệm này sau một thời gian thử nghiệm đã được thay thế bằng
cụm từ nhẹ nhàng hơn là “phát triển hòa bình”. Dù Trung Quốc đã hết sức
cẩn trọng trong ngôn từ, người ta vẫn nhận thấy, dù không dễ dàng, tham
vọng toàn cầu của Trung Quốc[6].
Từ
năm 2007 đến nay, chiến lược “giấu mình chờ thời” hay “ngoại giao hài
hòa” nhường chỗ cho chiến lược an ninh và đối ngoại mang tính khẳng định
hơn, chủ động và quyết liệt hơn. Về an ninh, nội dung cốt lõi của chiến
lược này là xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh, tăng cường quyền
kiểm soát của Trung Quốc ở các vùng biển trọng yếu, đảm bảo an ninh cho
các hoạt động giao thương của Trung Quốc. Có nhận định cho rằng Trung
Quốc đang xây dựng vành đai an ninh “chuỗi ngọc trai” kết nối các đảo mà
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, Biển Đông Trung Hoa (Trung
Quốc gọi tắt là Đông Hải) và Biển Nhật Bản cùng với các đảo và những cơ
sở cầu cảng khác của Trung Quốc trải rộng từ Hải Nam tới Trung Đông,
chuỗi ngọc trai sẽ giống như như một vành đai bao quanh rất nhiều đất
liền châu Á. Những khu vực này chính là lợi ích an ninh quốc gia mà
Trung Quốc tin là sống còn với cả sứ mệnh bảo vệ vùng biển cũng như chi
phối châu Á - Thái Bình Dương[7].
Bên
cạnh đó, Trung Quốc xây dựng chiến lược “hải dương xanh” và chuyển từ
“phòng ngự biển gần”, sang phát triển theo hướng “hải quân viễn dương”.
Trung Quốc đang lên kế hoạch đóng tàu sân bay để tăng cường phạm vi hoạt
động, phát triển các loại tên lửa tấn công loại tàu này. Cùng lúc đó,
hải quân Trung Quốc vươn ra xa hơn. Tháng 12/2008, hải quân Trung Quốc
điều động ba chiến hạm tới vùng biển Xô-ma-li, tham gia hoạt động hộ
tống tàu thuyền qua lại vùng biển này. Tiếp đó, hai tàu thăm dò hải
dương của Trung Quốc đã phá vỡ sự phong tỏa của Nhật Bản, tiến sâu vào
vùng biển phụ cận đảo Điếu Ngư, thực hiện khảo sát, khiến Nhật Bản bị
bất ngờ. Trung Quốc còn biểu dương sức mạnh hải quân vào tháng 4/2009.
Về
kinh tế, Trung Quốc cần chạy đua để giành giật các nguồn tài nguyên
chiến lược. Trung Quốc đã vươn ảnh hưởng đến châu Phi, châu Đại dương và
Mỹ La-tinh để tìm các nguồn cung cấp nguyên nhiên liệu nhằm duy trì nền
kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng cần đa
dạng hóa các nguồn cung dầu lửa. Có lẽ vì lý do đó mà Bắc Kinh ngày càng
quyết liệt và mạnh bạo hơn trong hoạt động thăm dò dầu khí ở Biển Đông,
kiểm soát và ngăn chặn hoạt động của các quốc gia khác ở vùng biển này.
[1]
Đô đốc Admiral Michael Mullen, “Remarks and Q&A at the Navy League
Sea-Air-Space Exposition”, Gaylor National Resort
and ConferenceCenter, National Harbour, Maryland, May 4, 2009.
[2] Ian Bremmer, “China vs American: Fight for the Century”, Prospect, March 22, 2010, xem tại: http://www.prospectmagazine.co.uk/2010/03/china-vs-america-fight-of-the-century/
[3]
Xem thêm: Carlyle A.Thayer, “Southeast Asia : Pattern of Security
Cooperation”,Australian Strategic Policy Institute – ASPI, September
2010, tr. 49-51.
[4]
Xem thêm: Suishen Zhao, “Chinese Nationalism and Approaches toward East
Asian Regional Cooperation”, International Institutions and Global
Governance Program, Japan Studies Program, Paper at Council on Foreign
Relations, December 2009.
[5] Giáp Văn Dương, “Việt Nam 2008: Mười hai bài toán lớn”, Bài viết cho Hội thảo Nhìn lại Việt Nam năm 2008, tr. 13, xem tại: http://hoithao.viet-studies.info/2009_GVDuong.pdf
[6] Vũ Hồng Lâm, “Thế giới đa cực: Cấu hình quyền lực thế giới đương đại”, Tham luận tại Hội thảo Dân chủ và Phát triển, Berkeley, California, Mỹ, 28-29/7/2006.
[7] http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/201005/Trung-Quoc-voi-tu-tuong-chi-phoi-hang-hai-the-gioi-907938/
PHẦN IV: Phản ứng của các nước và cục diện an ninh mới ở Biển Đông (phần cuối)
Sau
những chính sách và hành động của Trung Quốc đối với Biển Đông kể từ
2007, vấn đề Biển Đông càng được thu hút bởi dư luận thế giới đặc biệt
là Mỹ. Do đó sự căng thẳng của vấn đề Biển Đông cần
được xem xét trong tổng thể lợi ích và các mối quan tâm của các nước có
liên quan, trước hết là các nước trong khu vực, Trung Quốc và Mỹ.
Tại
Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần thứ hai ở thành phố Hồ Chí Minh
(tháng 11/2010), nhiều ý kiến cho rằng chính sự hung hăng của Trung Quốc
đã làm cho tranh chấp Biển Đông được quốc tế hóa và dẫn đến sự can dự
của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á.1]
Trong vài thập kỷ qua, những lời chỉ trích Mỹ xem nhẹ Đông Nam Á khá
phổ biến. Ngoại trừ các cường quốc chủ chốt như Trung Quốc, Nhật Bản và
Hàn Quốc, Washington rất ít quan tâm đến phần còn lại của toàn vùng.
Việc Trung Quốc gia tăng nhanh chóng sức mạnh chính trị và kinh tế đã
thuyết phục chính quyền Obama chuyển hướng và tung thêm nguồn lực và
nhân sự, dù còn hạn chế, vào phần đất này của thế giới. Nhiều học giả
bày tỏ lo ngại rằng cạnh tranh chiến lược Trung-Mỹ sẽ là một nhân tố
quyết định cục diện chiến lược ở khu vực trong tương lai và xu hướng
phát triển của tranh chấp.2]
Thái
độ mới đây của Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận các quy định và cách xử sự
hiện hành trong khu vực được thể hiện vào lúc Trung Quốc đã mở rộng ảnh
hưởng của họ khắp bốn phương trời. Từ lâu trước khi đạt đến tư thế hiện
nay, uy tín và giá trị ngoại giao của Trung Quốc đã dựa trên đường lối
chung sống hòa bình và trợ giúp Đông Nam Á. Đối với Trung Quốc, bất kỳ
một tranh chấp, dù là một vụ cãi cọ nhỏ với khu vực vào khi ấy đều có
thể làm hoen ố hình ảnh của Bắc Kinh trong tư cách người bạn của thế
giới đang phát triển.3]Theo
đuổi những gì mà Trung Quốc đã làm cũng với tâm niệm lấy ASEAN làm
trọng tâm, từ khi Tổng thống Barack Obama lên cầm quyền, Mỹ đã cải thiện
được chỗ đứng của mình trong khối vốn lâu nay vẫn nghi ngờ ý định của
Washington. Việc Hoa Kỳ tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông
Nam Á (TAC) 2009 và cử đại sứ đến ASEAN đã thay đổi lề lối can dự của Mỹ
và mở ra cho nước này một con đường mới.
Mỹ
ngày càng quan tâm đến Biển Đông và coi đây là một cơ hội để khôi phục
ảnh hưởng và giành lại vai trò chủ đạo ở Đông Á. Ngày 15/7/2009, Tiểu
ban về Đông Á và Quan hệ Thái Bình Dương của Ủy ban về Ngoại giao của
Thượng viện Mỹ đã tổ chức cuộc điều trần về “các vấn đề lãnh hải và
tranh chấp chủ quyền ở Đông Á”. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tham dự
Hội nghị ARF 17 tại Hà Nội tuyên bố rằng Mỹ có “lợi ích chiến lược”
trong việc chứng kiến các tranh chấp lãnh thổ được giải quyết thông qua
“tiến trình ngoại giao hợp tác của tất cả các bên tuyên bố chủ quyền”.
Trước đó, tại Đối thoại Shangri-la, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gate
đã bày tỏ quan điểm ủng hộ giải quyết tranh chấp ở Biển Đông thông qua
các nỗ lực đa phương, hòa bình và phù hợp với luật quốc tế.4]
Sự hung hăng của Trung Quốc đã góp phần đẩy Mỹ và Đông Nam Á xích lại
gần nhau hơn. Mỹ và Việt Nam đã tổ chức đối thoại về chính sách quốc
phòng tại Hà Nội ngày 19/8/2010 và được đánh giá là một bước ngoặt trong
các mối quan hệ giữa hai cựu thù. Giáo sư Carlyle A. Thayer thuộc Học
viện Quốc phòng Ô-xtrây-li-a nhận định: “Sự hiếu chiến về quân sự của
Trung Quốc tại Tây Thái Bình Dương và Biển Đông tạo ra một động lực để
tăng cường hợp tác quân sự Mỹ-Việt. Cả hai nước có lợi ích chung trong
việc ngăn chặn Trung Quốc hay bất kỳ nước nào thống trị các tuyến đường
biển thương mại cũng như thực thi tuyên bố chủ quyền bằng áp lực. Việt
Nam coi sự hiện diện của Mỹ như hàng rào chống lại sức mạnh quân sự ngày
càng gia tăng của Trung Quốc”.5]
Nhật
Bản cũng nhìn Trung Quốc bằng con mắt nghi ngại hơn nhiều. Bản báo cáo
của Bộ Quốc phòng Nhật Bản ngày 10/9/2010 nhắc đến những vụ trực thăng
của Trung Quốc bay quá gần các chiến hạm Nhật, vụ các tàu ngầm và khu
trục hạm Trung Quốc được nhìn thấy gần đảo Okinotori vào tháng 4/2010.
Đó là chưa kể vụ một tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc xâm nhập hải phận
Nhật Bản vào tháng 11/2004. Bản báo cáo này trách Bắc Kinh là đã không
nói rõ về những dự án hiện đại hóa quân đội Trung Quốc. Vào tháng
3/2010, Trung Quốc cho biết sẽ tăng ngân sách quân sự năm 2010 thêm 7,5%
lên thành 77,9 tỷ đôla, nhưng theo Bộ Quốc phòng Mỹ, tổng chi phí quân
sự của Bắc Kinh đã vượt quá 150 tỷ đôla từ năm 2009, nếu tính cả các
khoản chi tiêu không được ghi trong ngân sách chính thức.6]Theo
Bộ Quốc phòng Nhật, sự thiếu minh bạch trong chính sách quốc phòng của
Trung Quốc và những hoạt động quân sự của nước này là vấn đề đang gây
quan ngại cho khu vực và cộng đồng quốc tế, kể cả Nhật Bản.[7]
Chính
sách mập mờ, những hành động đơn phương và mạnh bạo của Trung Quốc ở
Biển Đông đã làm các nước trong khu vực thêm nghi ngờ chiến lược “phát
triển hòa bình” và “ngoại giao hài hòa” của Bắc Kinh.8]
Nhiều nước ASEAN nhìn nhận an ninh Đông Nam Á và an ninh quốc gia của
họ bị đe dọa trước quá trình hiện đại quân sự nhanh chóng một cách thiếu
minh bạch của Trung Quốc.9]
Tình huống tiến thoái lưỡng nan về an ninh xảy ra ở khu vực và kết quả
là chi tiêu quân sự ở Đông Nam Á tăng vọt. Theo Viện nghiên cứu Hòa bình
Quốc tế Stockholm: “Việc chuyên chở vũ khí đến Đông Nam Á trong giai
đoạn 2005-2009 gần như tăng gấp đôi so với giai đoạn 2000-2004. Số lượng
vũ khí mà Ma-lai-xi-a mua trong giai đoạn 2005-2009 tăng 722% so với
giai đoạn 2000-2004, Xing-ga-po tăng 146% và In-đô-nê-xi-a 84%.10]
Điều đáng nói là các nước ASEAN đều không muốn phải lựa chọn giữa Trung
Quốc và Mỹ, không muốn các nước bên ngoài khu vực can thiệp vào vấn đề
tranh chấp chủ quyền giữa họ và Trung Quốc. Cái mà họ cần là một Trung
Quốc thực sự phát triển hòa bình, có thái độ hợp tác và có trách nhiệm.
Trong bối cảnh đó, ASEAN đã chủ động giảm thiểu rủi ro bằng cách tìm
kiếm sự bảo đảm của các cường quốc bên ngoài khu vực.
Phản
ứng với thái độ và hành động của Trung Quốc cũng thể hiện trên các diễn
đàn ngoại giao. Kể từ tháng 7/2010, tình hình khu vực Biển Đông chuyển
sang một giai đoạn phát triển mới với những đặc trưng mới của một trong
những điểm nóng trong quan hệ chính trị và an ninh quốc tế. Những yếu tố
tạo nên sự thay đổi đã manh nha từ năm 2009, nhưng chính Diễn đàn An
ninh khu vực ARF 17 tại Hà Nội đã là điểm mốc đánh dấu bước ngoặt này
với việc Mỹ khẳng định trở lại khu vực Đông Nam Á và có lợi ích quốc gia
trong các vấn đề liên quan đến hàng hải và an ninh ở Đông Á. Có thể nói
ARF 17 hé mở khuynh hướng khu vực hóa, quốc tế hóa hồ sơ Biển Đông,
hoặc ít nhất thì tranh chấp Biển Đông cũng đã bắt đầu trở thành một
trong những chủ đề thời sự nóng, thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư
luận. Lần đầu tiên, an ninh ở khu vực Biển Đông đã được công khai tranh
luận tại một diễn đàn đa phương với sự tham dự của 27 quốc gia.11]Tiếp
đó, ngày 8/7/2010, Phái đoàn thường trực của In-đô-nê-xi-a tại Liên Hợp
Quốc đã có công hàm phản đối công hàm ngày 7/5/2009 của Phái đoàn
thường trực Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc về cái gọi là bản đồ yêu sách
hình chữ U (hay đường đứt khúc 9 đoạn) trong Biển Đông “đối với chủ
quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo trong Biển Nam
Trung Hoa và các vùng nước kế cận, cũng như các quyền chủ quyền và tài
phán đối với các vùng nước, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của
chúng”.[12]
Sau
ARF 17, rõ ràng an ninh ở Biển Đông là một hệ thống đa tầng nấc và đa
vấn đề với đa đối tượng. Ở đây, có các vấn đề tranh chấp chủ quyền, lãnh
thổ xảy ra giữa hai nước trong khu vực, ví dụ như tranh chấp quần đảo
Hoàng Sa và các vùng nước liên quan. Bên cạnh đó, cũng có các vấn đề
quốc tế liên quan đến các quốc gia bên ngoài khu vực như vấn đề an toàn
và an ninh hàng hải qua các vùng biển quốc tế. Cùng với các tranh chấp
về chủ quyền, còn có các vấn đề phát triển nghề cá và bảo vệ tài nguyên
biển, chống các nguy cơ an ninh phi truyền thống, nghiên cứu khoa học
biển, cứu hộ và cứu nạn… liên quan đến các nước ven biển, Trung Quốc và
các nước ASEAN. Mặc dù giữa ASEAN và Trung Quốc đã ký Tuyên bố chung về
Ứng xử của các bên ở Biển Đông song tuyên bố này đã không được thực thi
trong suốt thời gian qua. Hiện tại, quan chức của các nước đang bàn thảo
vấn đề thực thi Tuyên bố và đàm phán khả năng ký kết một Bộ luật ứng xử
(COC) ở Biển Đông có tính ràng buộc cao hơn.
Ngày
càng nhiều nước trên thế giới quan tâm hợp tác và mong muốn hiện diện
trong khu vực này, tạo ra các lợi ích đan xen và cạnh tranh ở Biển Đông.
Đây chính là hệ quả trào lưu thế giới ngày càng trở nên phẳng và phải
đối đầu với nhiều thách thức toàn cầu như khủng hoảng kinh tế, biến đổi
khí hậu, cấm sử dụng và phổ biến vũ khí hạt nhân, chạy đua vũ trang,
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, quyền con người và chống khủng bố, chống
cướp biển. Tất cả các quốc gia càng ngày càng phụ thuộc vào nhau. Hội
nhập và sự phát triển hòa bình của mỗi quốc gia phụ thuộc vào an ninh
khu vực và thế giới và ngược lại, không quốc gia nào có thể tách khỏi
luật chơi chung.[13]
Tóm
lại, sự căng thẳng của vấn đề Biển Đông cần được xem xét trong tổng thể
lợi ích và các mối quan tâm của các nước có liên quan, trước hết là các
nước trong khu vực, Trung Quốc và Mỹ. Những mối quan tâm đặc biệt hơn
cả gồm: sự quan ngại về tham vọng của Trung Quốc; những nguy cơ về an
ninh, tranh chấp trên biển; những bất đồng xung quanh căng thẳng giữa
Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên về vụ chìm tàu Cheonan và về vấn đề hạt
nhân của CHDCND Triều Tiên; việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan; và các bất
đồng về kinh tế - thương mại khác v.v… Ở một góc độ nào đó, Trung Quốc
cũng phải cân nhắc trước khả năng bị cô lập và chịu sức ép của cộng đồng
quốc tế trong vấn đề Biển Đông. Có không ít ý kiến cho rằng Trung Quốc
nên tỏ ra bớt độc đoán và ngạo mạn, có thái độ hòa giải hơn. Thời báo
Hoàn cầu ngày 27/7 có đoạn: “Trung Quốc phải tránh mở rộng vô tận những
lợi ích sống còn của mình. Một cường quốc cũng có thể nhượng bộ về lãnh
thổ, mà như vậy không có nghĩa là phải chịu hy sinh”. Thế giới đang
hướng về Biển Đông để kiểm nghiệm xem, liệu Trung Quốc có thực sự “phát
triển hòa bình”?./.
Đỗ Thanh Hải & Nguyễn Thùy Linh, Chương trình Nghiên cứu Biển Đông
[1] Ý kiến của các học giả tại Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần thứ hai tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh tháng 11/2010.
[2]
Mark Valencia, Tham luận tại Hội thảo Quốc tế “Biển Đông: Hợp tác vì an
ninh và phát triển trong khu vực” tại thành phố Hồ Chí Minh, tháng
11/2010.
[3]http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/20100826-my-sat-canh-voi-asean-buoc-trung-quoc-thay-doi-luat-choi
[4] Robert Gate, Remark at the 9th IISS Asia Security Summit, The Shangri-La Dialogue, June 2010, http://www.iiss.org/conferences/the-shangri-la-dialogue/shangri-la-dialogue-2010/plenary-session-speeches/first-plenary-session/robert-gates/
[5] Mark Tran, “Vietnam, unlikely US ally”, The Guardian, 31/8/2010, xem tại: http://www.guardian.co.uk/commentisfree/cifamerica/2010/aug/31/vietnam-us-military-china, ngày 13/12/2010.
[8] Evam A.Feigenbaum, “China’s rise and the Contested Commons”, CRF, August 13, 2010, xem tại: http://blogs.cfr.org/asia/2010/08/13/chinas-rise-and-the-contested-commons/
[9] Daljit Singh, “South China Sea tensions hurt Southeast Asian Security”, Strait Times, 16 August 2010, xem tại: http://www.viet-studies.info/kinhte/south_china_sea_tensions_hurt_security.htm
[10] Carlyle A.Thayer, “ Southeast Asia: Pattern of Security Cooperation”, tlđd, tr. 8-10.
[11] “South China Sea: First test for regional body”, The Straits Times (Singapore), August 10, 2010 Tuesday, xem tại: http://www.viet-studies.info/kinhte/south_china_sea_StraitsTimes_editorial.htm and “ASEAN shows sudden revole against Beijing”, South China Morning Post, August 6, 2010, xem tại: http://www.viet-studies.info/kinhte/asean_shows_sudden_resolve.htm
[13] Việt Long, “Biển Đông: Sao phải quốc tế hóa một vấn đề quốc tế”, Tuan Vietnamnet, ngày 08/09/2010.