Văn
Miếu - Quốc Tử Giám, khu di tích lịch sử văn hóa nằm giữa thủ đô Hà Nội
từ lâu đã trở thành biểu tượng của văn hiến và trí tuệ Việt, nơi hun
đúc truyền thồng hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng hiền tài của dân tộc.
Nơi đây đã đào tạo hàng ngàn bậc đại khoa, hiền tài cho đất nước. Trong
đó, 82 bia đề danh tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám là di sản độc đáo
và quý hiếm nhất mà ông cha ta để lại cho hậu thế.
Hiện
nay, có một thực trạng đáng buồn là nhiều người đến với Văn Miếu - Quốc
Tử Giám, thăm vườn bia và chỉ chăm chăm sờ đầu rùa lấy may. Hành động
này chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về giá trị và tầm quan trọng của 82 bia
tiến sĩ. Mặt khác, Văn Miếu - Quốc Tử Giám là trường Đại học đầu tiên
của Việt Nam và hiện là trung tâm hoạt động văn hóa khoa học của thủ đô
Hà Nội, có vinh dự đón nhiều chính khách đến tham quan. Đây là dịp để
chúng ta quảng bá về lịch sử, đất nước và con người của Việt Nam. Việc
hiểu biết đầy đủ và tôn vinh giá trị của 82 tấm bia là cần thiết hơn bao
giờ hết, là trách nhiệm của chúng ta với cha ông và với hậu thế.
82
tấm bia không chỉ là những pho “sử đá” mà còn chứa đựng giá trị văn
hóa, giáo dục, nghệ thuật và mang tính thời sự rất lớn... Những tư tưởng
triết học, sử học, quan điểm giáo dục, đào tạo, sử dụng nhân tài được
thể hiện trong những bài văn bia đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Với
vinh dự đó, 82 bia tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được lựa chọn
gửi lên UNESCO, đề cử là Di sản tư liệu thế giới. Chúng ta hy vọng, đó
sẽ là món quà có ý nghĩa đặc biệt nhân dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long -
Hà Nội.
82 bia được dựng hai bên phải, trái giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm, chia thành
2 hàng ngang, mặt bia đều quay về giếng. Cả hai bên, giữa mỗi vườn bia
xây tòa đình vuông, 4 mặt bỏ trống. Đây là hai tòa đình thờ bia. Hàng
năm, xuân thu nhị kỳ, trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật
cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quý tính cao danh còn khắc trên
bia đá.
Bia
tiến sĩ được làm bằng loại đá xanh (thanh thạch), khai thác từ núi An
Thạch, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa. Kích thước bia không đều nhau, cùng
đặt trên lưng rùa. Mỗi tấm bia đều có 3 phần. Trán bia hình khum vòm.
Thân bia hình chữ nhật, là phần chính của bia, sát trán bia khắc niên
đại tổ chức khoa thi theo lối chữ triện, bên dưới ghi năm tổ chức khoa
thi, tên và chức tước các vị được vua giao tổ chức kỳ thi, số lượng thí
sinh... Tiếp
theo là bài văn bia. Sau bài văn bia là họ tên, quê quán của các vị đỗ
kỳ thi đó theo thứ tự từ cao xuống thấp: đệ nhất giáp tiến sĩ (Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) rồi đến đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân và đệ
tam giáp tiến sĩ đồng xuất thân.
Ý
tưởng xây dựng bia đá được khởi dựng từ thời vua Lê Thái Tông, vị hoàng
đế tài cao, học rộng, quan tâm đến việc xây dựng nền văn hóa giáo dục
của dân tộc. Từ năm 1442 đến năm 1787 có 117 khoa thi tiến sĩ, tức là sẽ
có 117 tấm bia đề danh tiến sĩ. Trải qua thăng trầm của lịch sử, hiện ở
Văn Miếu chỉ còn 82 bia. Trong 82 tấm bia còn lại tới ngày nay, tấm sớm nhất dựng vào năm 1484, khắc tên các vị tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất,
niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) tấm cuối cùng dựng vào năm 1780,
khắc tên các tiến sĩ đỗ khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40
(1779). Điều này được ghi lại như sau:
Bia Tiến sĩ dựng trong Văn Miếu
Khởi từ năm Đại Bảo thứ ba
Xí vào Nhâm Tuất hội khoa
Thái Tông ngự trị thuộc nhà Hậu Lê
Rồi từ đó lệ về Quốc Giám
Trải ba trăm ba mươi tám năm ròng
Đến năm thứ 40 niên hiệu Cảnh Hưng vua Hiển Tông
Là khoa Kỷ Hợi cuối cùng hết bia...
Những giá trị lịch sử, văn hóa, giáo dục
Mỗi
dòng chữ trên 82 bia đá là nguồn sử liệu vô cùng quý giá giúp chúng ta
nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt. 82 bia
đá đề danh tiến sĩ đã lưu giữ tên họ, quê quán của 1306 vị tiến sĩ.
Người được khắc tên lên bia đá đầu tiên là Trạng nguyên Nguyễn Trực;
người cuối cùng là tiến sĩ Phạm Huy Ôn. Qua văn bia còn tìm thấy họ tên
của nhiều vị được sử sách Việt Nam nhắc đi nhắc lại. Đó là Lê Văn Thịnh,
Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Trãi, Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Quý Đức, Đặng Đình Tướng, Lê Quý Đôn. Ngô Thời Sĩ, Ngô Thời Nhậm,... Điều đặc biệt là các tấm bia còn giúp hậu thế biết về những dòng họ, những vùng đất có truyền thống khoa cử; quan điểm giáo dục thời phong kiến; sự náo nhiệt của không khí học hành thi cử, số người dự thi... chứng tỏ việc học hành, giáo dục thời phong kiến phát triển rất cao.
Nét
độc đáo nhất của 82 tấm bia là được khắc kèm theo bài văn ký. Làm phép
so sánh bia tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám với bia các địa danh khác chúng
ta sẽ thấy tính độc đáo của các bài văn ký trên bia: ở cấp quốc gia hiện
có hai nơi là Văn Miếu Hà Nội và Văn Miếu Huế có bia tiến sĩ; ở cấp
tỉnh có hai nơi là Bắc Ninh và Hưng Yên có bia tiến sĩ cùng khoảng 80
bia ở cấp huyện. Song, bia tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám có điểm
khác biệt hơn hẳn so với hệ thống bia của các nơi khác chính ở nội dung
bài ký được khắc trên bia. Và nếu so sánh với hệ thống bia tiến sĩ của
Trung Quốc và Hàn Quốc hiện còn lưu giữ được, thì nội dung này cũng
chính là điểm khác biệt lớn nhất của bia tiến sĩ Việt Nam.
Các
bài văn ký được những bậc văn nhân viết. Nội dung đề cập đến việc khoa
cử, mục đích dựng bia, khẳng định vai trò và những điều răn với kẻ sĩ.
Những áng văn bất hủ trên dù đã được khắc trên bia nhiều thế kỷ qua
nhưng tinh thần và giá trị của nó vẫn vẹn nguyên tính thời sự. Các vấn
đề như: phát triển giáo dục, trọng dụng nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực
luôn là chính sách hàng đầu, đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ thời
đại nào trong quá trình xây dựng và phát triển.
Trong
82 bia, hai bia tiến sĩ đầu tiên do Thân Nhân Trung soạn năm 1484 và
1487 để lại cho đời sau những bài học sâu sắc về vai trò của người trí
thức, về chính sách với danh nhân; nhắc nhở mỗi chúng ta về trách nhiệm
với thời cuộc, với non sông gấm vóc: "Hiền tài là nguyên khí của quốc
gia" (bia 1484); "Kẻ sĩ có mối quan hệ thật là quan trọng đối với sự
phát triển của đất nước" (bia 1487). Chẳng thế mà Giáo sư Vũ Khiêu từng
nhấn mạnh về giá trị giáo dục của 82 tấm bia tại Văn Miếu - Quốc Tử
Giám: "Trong tình hình hiện nay, 82 bia đá càng được toàn dân trân trọng
và tôn vinh. Đất nước ta đang tiến mạnh trong hoàn cảnh mới của dân tộc
và thời đại. Giáo dục đang trở thành quốc sách hàng đầu. Văn hóa, khoa
học và đội ngũ trí thức đang giữ vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự
nghiệp cung của đất nước. Những bài văn bia tại Văn Miếu sẽ mãi mãi là
bài học quý giá và nguồn cổ vũ lớn cho chúng ta hôm nay".
Nhiều
bài văn bia đề cập đến những quan điểm chính trị, chính sách của quốc
gia mà đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự: “dựng xây nghiệp lớn, diệt
trừ tàn bạo, cứu dân lầm than”, “mở mang văn đức, thu nạp anh tài, đổi
mới chính trị...” (bia 1484).
Giá trị mỹ thuật độc đáo
82
bia đá đề danh tiến sĩ được các nhà nghiên cứu mĩ thuật đánh giá là
nguồn tư liệu quan trọng trong quá trình nghiên cứu lịch sử mỹ thuật và
điêu khắc Việt Nam từ TK XV đến TK XVIII.
Nghệ
thuật tạo tác 82 bia đá đã đạt trình độ cao, thể hiện tài hoa của các
nghệ nhân hàng đầu với nhiều phong cách đặc trưng qua mỗi thời kỳ. Do ý
nghĩa đặc biệt của các tấm bia tiến sĩ, nên quá trình dựng bia được tiến
hành hết sức công phu, kỹ lưỡng: Vua giao cho Bộ Công tiến hành chuẩn
bị dựng bia, chọn và chỉ định những quan đại thần tài năng soạn văn bia,
kiểm tra tên những người đỗ của khoa thi; bài văn bia sau khi soạn xong
được trình lên nhà vua xem xét, đồng thời các nghệ nhân, thợ giỏi được
tuyển chọn tìm đá làm bia. Sau khi văn bia và mẫu bia được thông qua, nó
được chuyển cho nhà thư pháp viết lên mặt đá; thợ khắc đá sẽ khắc bài
văn bia cũng như trang trí bia dưới sự giám sát của quan đại thần do vua
chỉ định.
82
bia tiến sĩ hiện lưu giữ hệ thống đồ án hoa văn hết sức kinh điển và
mẫu mực. Điểm khác biệt và độc đáo của nghệ thuật trang trí bia đề danh
tiến sĩ ở Văn Miếu với các bia đá cùng loại ở Huế hay ở Bắc Kinh - Trung
Quốc là số lượng chim - hoa trên bia rất nhiều. Tần xuất xuất hiện chim
ở trên các đồ án bia tiến sĩ, gần với trường hợp vô số các loại chim
trên hoa văn trống đồng Đông Sơn. Phần lớn mang tính tượng trưng (kiểu
trúc điểu, tùng điểu), một số ngoại lệ mang tính hiện thực.
Nhiều
hình ảnh trang trí trên bia thể hiện theo lối hài thanh ngụ ý, lối chơi
chữ trong phép tạo hình dân gian. Hình ảnh những con cò trong đám hoa
sen trang trí trên bia (bia khoa 1598) được giải thích là đồ án lồ lộ liên khoa ám chỉ việc đăng khoa liên tiếp. Chữ lộ nghĩa là cò. Chữ sen có âm khá giống chữ liên khoa.
Vậy nên để thể hiện mong ước con đường công danh khoa bảng được trôi
chảy, người ta vẽ những con cò trong đám sen. Một số bia có hình ảnh
những chú vịt tắm mình trong nước giữa đám sen, đầu quay lại rỉa lông là
mong ước đỗ đạt ngôi cao. Người ta gọi đó là đồ án liên đăng nhất giáp.
Trong khoa cử xưa, đỗ ngôi đầu - nhất giáp là Trạng nguyên, ngôi thứ
hai là Bảng nhãn, ngôi thứ ba là Thám hoa. Trong tiếng Hán âm đọc lên
của chữ nhất giáp với một con vịt (nhất áp) na ná như nhau. Hay hình ảnh khỉ bắt chim với ngụ ý đỗ dạt được tước vị quyền quý cao sang. Nguyên là hầu (khỉ) và hầu trong hầu tước, tước trong ma tước (chim sẻ) đọc giống tước trong chức tước.
Như
vậy, có thể thấy hình ảnh trang trí trên bia không chỉ đơn thuần là
hình ảnh tả thực mà nó còn chứa đựng lối nghệ thuật hài thanh ngụ ý. Bia
đề danh tiến sĩ tuy được làm vào giai đoạn khá thịnh trị của mỹ thuật
làng nhưng nó chỉ dành cho đối tượng là người có học, biết chữ thánh
hiền. Dẫu có nôm na đến đâu cũng là thứ nôm na của người có chữ. Mỗi họa
tiết trang trí trên bia đều chất chứa hàm ý mà người xưa muốn gửi gắm
và ước mong.
Có
thể thấy, 82 bia tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám là 82 công trình
kiến trúc, nghệ thuật độc nhất vô nhị có ý nghĩa lịch sử, văn hóa, giáo
dục. Chúng không chỉ là niềm tự hào của nền văn hóa giáo dục Việt Nam mà
còn là di sản tư liệu có giá trị đặc biệt của nhân loại. Hơn bao giờ
hết chúng ta cần hiểu, trân trọng và gìn giữ di sản quý báu này, bởi đó
là một phần của lịch sử dân tộc, của truyền thống trong quá khứ đang soi
sáng cho hiện tại và tương lai.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 308, tháng 2-2010
Tác giả: Dương Thị Thu Hà