TS. Trần Quang Minh
Phó Viện trưởng, Viện nghiên cứu Đông Bắc á
Ngày 21 tháng 9 năm 1973, Việt Nam
và Nhật Bản đ• chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Sự kiện này
đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử quan hệ hai nước. Trong suốt
chặng đường 35 năm qua, với bao biến cố và sự kiện trong nước và quốc
tế, quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia đ• vượt lên tất cả, đơm hoa kết
trái, đóng góp vào hoà bình, ổn định và phát triển vì lợi ích của hai
quốc gia, hai dân tộc Việt Nam và Nhật Bản. Nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày
thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản, bài viết này sẽ điểm
lại một số thành tựu chủ yếu trong tiến trình xây dựng và phát triển
quan hệ hữu nghị toàn diện giữa hai nước, những dấu mốc quan trọng trên
con đường vươn tới một tầm cao mới như hiện nay.
Trước hết, cần khẳng định rằng Việt Nam
và Nhật Bản vốn có quan hệ từ khá lâu trong lịch sử. Hai nước không
những có nhiều nét tương đồng về văn hóa, mà còn có quan hệ giao lưu văn
hóa và thương mại rất sớm. Các quan hệ đó đ• từng chiếm vị trí quan
trọng trong quan hệ giữa Nhật Bản với Đông Nam á ở thế kỷ XVI và XVII. Đến đầu thế kỷ XX, Phong trào "Đông Du" của Việt Nam do Phan Bội Châu khởi xướng có thể được coi là một sự kiện quan trọng trong quan hệ Việt Nam
- Nhật Bản thời cận đại. Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ của Việt
Nam, phong trào ủng hộ Việt Nam đ• dấy lên mạnh mẽ ở Nhật Bản. Những sự
kiện này chứng tỏ rằng quan hệ Việt Nam - Nhật Bản vốn có cội nguồn từ
trong lịch sử và là nền tảng cơ sở cho sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ
giữa hai nước hiện nay.
Thứ
hai, mặc dù có một quá trình lịch sử hàng trăm năm, song quan hệ giữa
hai nước không phải lúc nào cũng thuận lợi, tốt đẹp, mà đ• trải qua
những bước thăng trầm gắn liền với những biến cố và sự kiện trong mỗi
quốc gia cũng như trong khu vực và trên thế giới. Năm 1973 là một mốc
quan trọng mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, và
từ đó đến năm 1978 đ• có những bước đi khởi đầu tạo điều kiện thuận lợi
cho việc mở rộng quan hệ giữa hai nước như: trao đổi Đại sứ quán, Nhật
Bản cho vay và viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam,v.v... Nhưng quan hệ
hai nước vừa mới ấm lên chưa được bao lâu đ• chuyển sang giai đoạn lạnh
nhạt kéo dài 12 năm (1979 - 1991), các mặt hợp tác giao lưu tụt xuống
mức thấp nhất sau khi Nhật Bản tuyên bố cắt viện trợ đối với Việt Nam.
Năm 1992 đánh dấu một mốc quan trọng khác trong quan hệ Việt Nam - Nhật
Bản, mở đầu một giai đoạn mới (từ 1992 đến nay) trong đó quan hệ hai
nước được thúc đẩy một cách tích cực nhất và phát triển nhanh nhất trong
lịch sử bang giao hai nước.
Thứ ba, quan hệ Việt Nam
- Nhật Bản trong hơn 3 thập kỷ qua phát triển mạnh nhất là trên lĩnh
vực kinh tế. Nh?t B?n là m?t trong nh?ng d?i tỏc kinh t? quan tr?ng hàng
d?u c?a Vi?t Nam.
Về mậu dịch, trong nhiều năm liền, Nhật Bản luôn là bạn hàng số một của
Việt Nam, chỉ đến những năm gần đây mới tụt xuống vị trí thứ hai hoặc
thứ ba sau Trung Quốc và Mỹ (Đồ thị 1). Tổng kim ngạch XNK của Việt Nam
với Nhật Bản trong những năm gần đây đạt mức từ 6 đến 8 tỷ USD/năm,
chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch XNK của Việt Nam với tất cả các nơớc
trên thế giới. Năm 2006, kim ngạch thương mại 2 nước đạt 9,9 tỷ USD tăng
16,8% so với năm 2005. Riêng 5 tháng đầu năm 2007 kim ngạch thương mại
giữa 2 nước đạt 4,2 tỷ USD, tăng 8,0% so với cùng kỳ năm 2006. Hai bên
đã đặt mục tiêu nâng tổng kim ngạch thương mại hai chiều lên 15 tỷ USD
vào năm 2010. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
sang Nhật Bản là thuỷ hải sản, dệt may, dầu thô, cáp điện, đồ gỗ...
Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Nhật Bản là cơ khí, sắt
thép, điện tử, xe gắn máy, nguyên liệu dệt, da...
Về
tiến trình hợp tác kinh tế, Việt Nam và Nhật Bản đ• kết thúc giai đoạn
nghiên cứu khả thi về Hiệp định đối tác kinh tế song phương (EPA) vào
cuối tháng 4/2006 và đã bắt đầu vòng đám phán chính thức đầu tiên tại
Tokyo tháng 1/2007, vòng đàm phán thứ 2 tại Hà Nội 26/3/2007, vòng đàm
phán thứ 3 tại Tokyo - Nhật Bản ngày 04/6/2007, vòng đàm phán thứ 4 đ•
diễn ra tại Hội An - Việt Nam từ 17-22/7/2007.
Về
đầu tư trực tiếp, tính đến tháng 12/2006, Nhật Bản đ• có 677 dự án đầu
tư trực tiếp còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư đăng ký là
7,1 tỷ USD, đứng thứ ba trong số các nước và vùng l•nh thổ có vốn đầu
tư tại Việt Nam (Sau Đài Loan và Singapore) (Đồ thị 2). Riêng năm 2006,
tổng vốn đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam là 1,34 tỷ USD với 137 dự án
cấp mới và 85 lượt tăng vốn. Hiện nay, hai bên đang tích cực triển khai
giai đoạn 2 sáng kiến chung Việt - Nhật về cải thiện môi trường đầu tư
tại Việt Nam.
Về
viện trợ phát triển chính thức (ODA), Nhật Bản là nước tài trợ lớn nhất
cho Việt Nam với tổng luỹ kế giai đoạn 1992-2005 đạt khoảng 11 tỷ USD,
chiếm khoảng 30% tổng lượng ODA của cộng đồng quốc tế cam kết dành cho
Việt Nam, trong đó viện trợ không hoàn lại khoảng 1,4 tỷ USD. Các chương
trình viện trợ của Nhật Bản cho Việt Nam nhằm vào 5 lĩnh vực chính là:
phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế; xây dựng và cải tạo các
công trình giao thông và điện lực; phát triển nông nghiệp và xây dựng cơ
sở hạ tầng nông thôn; phát triển giáo dục đào tạo và y tế; bảo vệ môi
trường.
ODA
của Nhật Bản dành cho Việt Nam đ• góp phần tích cực vào quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và phát triển nền kinh tế
Việt Nam theo cơ chế thị trường. Những đóng góp đáng kể của ODA Nhật Bản
bao gồm: Cung cấp nguồn tài chính quan trọng cho sự phát triển kinh tế
của VN; Góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng và các chươơng trình phát triển
kinh tế x• hội của VN; Góp phần phát triển nguồn nhân lực, xây dựng thể
chế và chuyển giao công nghệ, quản lý cho VN; góp phần thúc đẩy và tăng
cơường quan hệ hợp tác kinh tế VN-NB và hợp tác trên các lĩnh vực khác.
Một số công trình quan trọng sử dụng nguồn vốn ODA của Nhật Bản như: Các
công trình giao thông quan trọng: Quốc lộ 1A, quốc lộ 5, quốc lộ 10,
quốc lộ 18, các cầu và cảng lớn nhơư cảng Hải Phòng, cảng Đà Nẵng, cầu
Mỹ Thuận, cầu Tân Đệ, đươờng hầm qua đèo Hải Vân...; Hệ thống cấp thoát
nơớc ở các thành phố lớn nhươ Hà Nội, TP HCM, Hải Dơương; Các bệnh viện
lớn nhươ: Bệnh viện Chợ Rẫy TP HCM, bệnh viện Bạch Mai (HN); các trơường
học từ cấp tiểu học đến đại học ở hầu hết các tỉnh thành trong cả
nơước...
Thứ
tư, trong quan hệ chính trị, nếu như ở các giai đoạn trước việc viếng
thăm của quan chức cấp cao hai nước thường là hiếm hoi và thưa thớt, thì
trong những năm gần đây các cuộc viếng thăm đó ngày càng trở nên thường
xuyên và liên tục. Kể từ chuyến viếng thăm Nhật Bản của Thủ tướng Võ
Văn Kiệt vào tháng 3 năm 1993 đến nay, không có năm nào hai nước ngừng
các chuyến viếng thăm lẫn nhau của các nhà l•nh đạo cấp cao của hai
nước.
Những cuộc viếng thăm lẫn nhau quan trọng của l•nh đạo cấp cao hai nước có thể đến như: Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam
5 lần (Murayama 8/1994, Hashimoto 1/1997, Obuchi 12/1998, Koizumi
4/2002, Shinzo Abe 11/2006). Hoàng tử Nhật Bản Akishino thăm Việt Nam
tháng 6/1999. Về phía Việt Nam, Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm Nhật Bản năm
1995, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh 10/2002, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm
chính thức Nhật Bản tháng 4/1993, Thủ tướng Phan Văn Khải thăm chính
thức Nhật Bản năm 1999 và sau đó thăm làm việc tại Nhật Bản vào các năm
2001, 4/2003, 12/2003, 6/2004 và tháng 7/2005. Tháng 10/2006, sau khi
nhậm chức, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thăm chính thức Nhật Bản. Điều
đáng nói là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là vị thủ tướng nước ngoài đầu
tiên là khách mời của tân Thủ tướng Nhật Bản, Shinzo Abe. Tiếp theo,
tháng 11/2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã thăm chính thức Nhật
Bản với tư cách là nguyên thủ Nhà nước Việt Nam đầu tiên đến thăm Nhật
Bản kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Đây là sự kiện có ý
nghĩa rất lớn đối với quan hệ hai nước, mở ra một thời kỳ phát triển
mới cao hơn nữa của quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Nhật Bản.
Sau
các chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Koizumi (tháng 4/2002)
và chuyến thăm Nhật Bản của Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nông Đức
Mạnh (tháng 10/2002), quan hệ giữa hai nước đã được nâng lên một nấc
thang mới với tinh thần: cùng hành động, cùng tiến bước, thúc đẩy quan
hệ - ổn định lâu dài và tin cậy lẫn nhau”. Trong chuyến thăm Việt Nam
7/2004 của Ngoại trưởng Nhật Bản, hai bên đã ký Tuyên bố chung "Vươn
tới tầm cao mới của quan hệ đối tác bền vững". Và, đặc biệt là sau
chuyến thăm chính thức Nhật Bản tháng 10/2006 của Thủ tướng Việt Nam
Nguyễn Tấn Dũng, quan hệ giữa hai nước đã được nâng lên một tầm cao mới
với việc hướng tới xây dựng “d?i tỏc chi?n lu?c vỡ hũa bỡnh và ph?n vinh
? Châu Á".
Việt Nam
và Nhật Bản cũng đã tạo dựng cơ chế đối thoại ở nhiều cấp. Ngoài đối
thoại chính trị định kỳ ở cấp Bộ trưởng Ngoại giao (từ 7/2004), Thứ
trưởng Ngoại giao (từ 1993), hai bên đã xây dựng được cơ chế đối thoại
kinh tế, an ninh và quốc phòng thường kỳ hàng năm. Trao đổi Ngoại giao -
Quốc phòng cấp Vụ (từ 1/2001). Trao đổi tuỳ viên quân sự, mở Tổng lãnh
sự quán ở TPHCM và Osaka
(3/1997). Tháng 5/2007, hai bên thành lập ủy ban hợp tác Việt-Nhật do
hai Bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch phiên họp đầu tiên do đoàn tổ
chức nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản của PTT Bộ trưởng Phạm Gia
Khiêm (22-26/5/2007).
Nhật
Bản đ• trao tặng Huân chương mặt trời mọc - Huân chương cao quý nhất
của Nhật Bản cho nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 11/2006) và
nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan (tháng 5/2007). Nhật Bản ủng hộ đường lối
đổi mới, mở cửa của Việt Nam; hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào khu vực và
thế giới (APEC, WTO, ASEM, ARF, vận động OEDC giúp Việt Nam về kỹ
thuật...); Hai bên ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế quan trọng,
trong đó có Liên Hợp Quốc (LHQ).
Thứ
năm, trong lĩnh vực an ninh, giữa Việt Nam và Nhật Bản đ• xuất hiện
những điểm chung về lợi ích chính trị là duy trì hòa bình và ổn định ở
khu vực Đông á và coi an ninh quốc gia là một bộ phận cấu thành và không
thể tách rời khỏi an ninh khu vực và thế giới. Việt Nam và Nhật Bản đều
có nhu cầu hợp tác về an ninh và đều thấy sự cần thiết phải đổi mới tư
duy trong việc nhìn nhận và đánh giá các quan hệ quốc tế, phải tôn trọng
và chấp nhận sự khác biệt giữa hai nước và cố gắng tìm ra những điểm
tương đồng nhằm đáp ứng được nhu cầu của mỗi nước. Hợp tác Việt Nam
- Nhật Bản phòng chống tội phạm xuyên quốc gia trong hơn một thập kỷ
qua cũng là nét nổi bật đáng chú ý trong sự hợp tác về bảo đảm an ninh
quốc gia của hai nước. Gần đây, hai nước đều nhận thấy sự cần thiết phải
tiếp tục đối thoại song phương ở các cấp, đặc biệt là đối thoại chính
trị sẽ giúp cho hai nước hiểu biết nhau hơn. Đồng thời, hai nước đ• và
đang hợp tác chặt chẽ với nhau trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và tại
các diễn đàn khu vực và quốc tế.
Thứ
sáu, trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản cũng có những nét đáng chú ý. Chẳng
hạn, giao lưu văn hóa giữa hai nước được thúc đẩy mạnh mẽ và đ• diễn ra
với những hình thức rất phong phú, đa dạng như: trao đổi các đoàn nghệ
thuật, chiếu phim, dịch và xuất bản truyện tranh và các tác phẩm văn
hóa, v.v... Đặc biệt, những năm gần đây Chính phủ Nhật Bản đ• tích cực
giúp Việt Nam
trong việc bảo tồn và phát triển các di sản văn hoá truyền thống. Trong
đó phải kể đến phố cổ Hội An, khu Thánh địa Mỹ Sơn... và gần đây nhất
là kế hoạch bảo tồn khu di tích Hoàng Thành Thăng Long, Hà Nội
Trong
hơn 30 năm qua, sự quan tâm của người Nhật về Việt Nam ngày càng tăng,
số người nghiên cứu Việt Nam và số người biết tiếng Việt ở Nhật Bản ngày
càng nhiều, số lượng sách của người Nhật nghiên cứu về Việt Nam được
xuất bản liên tục, trong đó có một số được lựa chọn dịch sang tiếng
Việt. Ngược lại, sự quan tâm của người Việt Nam về Nhật Bản cũng ngày
càng gia tăng, số người nghiên cứu Nhật Bản và số người biết tiếng Nhật ở
Việt Nam ngày càng nhiều, số lượng sách của người Việt Nam nghiên cứu
về Nhật Bản và số lượng sách của người nước ngoài viết về Nhật Bản được
dịch và xuất bản bằng tiếng Việt đ• tăng lên nhiều lần so với trước đây.
Trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo hai nước Việt Nam và Nhật Bản đ• có truyền
thống hợp tác từ Phong trào Đông Du đầu thế kỷ XX, rồi đến nửa cuối của
thế kỷ trước Nhật Bản đ• đào tạo cho Việt Nam hàng loạt các nhà khoa
học. Số lượng sinh viên Việt Nam học tập ở Nhật Bản và số lượng sinh viên Nhật Bản học tập ở Việt Nam
trong những năm gần đây có xu hướng tăng nhanh. Có nhiều người cho rằng
hiện nay đang xuất hiện một phòng trào Đông Du mới của Việt Nam.
Ngoài
ra, còn nhiều sự hợp tác giúp đỡ khác nữa của Nhật Bản đối với Việt Nam
như sự hợp tác giúp đỡ trong việc xây dựng luật pháp, sự hợp tác và
giúp đỡ trong việc phát triển khoa học và công nghệ, v.v... Nhưng có lẽ
sự giúp đỡ trao đổi kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm thành công và chưa
thành công của Nhật Bản là những bài học rất quý giá đối với Việt Nam.
*
* *
Trên đây là những đặc trưng cũng như những dấu mốc quan trọng trong quan hệ Việt Nam
- Nhật Bản 35 năm qua. Có thể khẳng định rằng những thành tựu đ• đạt
được trong quan hệ giữa hai nước là rất to lớn và ngày càng phát triển
theo chiều hướng tốt đẹp. Những năm đầu thế kỷ 21 này thực sự là một
bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự vươn tới một tầm cao mới của quan hệ
giữa hai nước. Có thể khẳng định rằng, triển vọng của quan hệ Việt Nam
- Nhật Bản trong tương lai là rất sáng sủa. Trong bối cảnh gia tăng hội
nhập khu vực và toàn cầu hoá hiện nay, với tiềm năng phát triển của hai
nước, quan hệ Việt Nam
- Nhật Bản nhất định sẽ phát triển hơn nữa về mọi mặt. Hiện nay vấn đề
hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển đang là xu thế chủ đạo ở khu
vực châu á - Thái Bình Dương. Đây chính là môi trường rất thuận lợi để
Việt Nam và Nhật Bản tích cực tham gia ngày càng nhiều vào quá trình
liên kết về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Những
bài học kinh nghiệm trong quan hệ trước đây giữa hai nước và đặc biệt là
sự ổn định trong mỗi nước đang là những tiền đề quan trọng cho sự hợp
tác lâu dài trong tương lai./.
tài liệu tham khảo
1. Trần Quang Minh - Ngô Xuân Bình (Chủ biên): Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản: Quá khứ, hiện tại, và tương lai. NXB Khoa học x• hội, Hà Nội, 2005
2. Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á (nhiều số)
3. Bản tin Kinh tế, TTXVN (nhiều số).
4. Tài liệu tham khảo, TTXVN (nhiều số)
5. Thời báo Kinh tế Việt Nam (nhiều số).
6. Báo Đầu tư (nhiều số).
7. Website của Bộ Ngoại giao Nam http://www.mofa.gov.vn/
8. Website của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam: http://www.mpi.gov.vn/
9. Website của Bộ Thương mại Việt Nam: http://www1.mot.gov.vn/tktm/
10. Website của Tổng cục Thống kê Việt Nam: http://www.gso.gov.vn/