Thứ Ba, 5 tháng 7, 2011

Những nguyên nhân tạo sự thần kì kinh tế Nhật Bản được hình thành từ các cuộc cải cách dân chủ sau chiến tranh thế giớ hai

Sau khi đã loại trừ những yếu tố về điều kiện quốc tế, khoa học kỹ thuật, những di sản trước chiến tranh, chi phí quốc phòng ít ỏi và những yếu tố thuộc về truyến thống con người Nhật Bản. Trên cơ sở tổng hợp phân tích, những nguyên nhân của các nhà nghiên cứu nói trên, phân tích những tác động ảnh hưởng của các cuộc cải cách dân chủ sau chiến tranh, bài viết cho thấy những nguyên nhân còn lại đều trực tiếp hoặc gián tiếp được xuất hiện từ trong cuộc cải cách dân chủ sau chiến tranh.
Tuy nhiên,  trong mức độ cho phép bài viết chỉ trình bày những nguyên nhân trực tiếp được hình thành trong các cuộc cải cách sau chiến tranh và tác động của nó đối với sự tăng trưởng kinh tế  Nhật Bản giai đoạn sau đó.
1. Cải cách kinh tế
* Công cuộc cải cách kinh tế được bắt đầu ngay sau khi chiến tranh kết thúc đã có tác dụng to lớn đến sự phát triển kinh tế Nhật Bản sau này. Cải cách ruộng đất được coi là cải cách quan trọng nhất và đạt hiệu quả cao nhất trong các cuộc cải cách kinh tế với mục tiêu "xoá bỏ những trở ngại kinh tế nhằm khắc phục và củng cố các thiên hướng dân chủ để phá bỏ sự kìm hãm kinh tế vốn đoạ đày người nông dân Nhật Bản trong nhiều thế kỷ áp bức phong kiến". Đạo luật cải cách ruộng đất ban bố ngày 11/10/1946, với nội dung là nghiêm khắc với đối tượng mua đất, lập các uỷ ban ruộng đất, đề ra các phưng thức mua đất, cách thanh toán và qui định về địa chủ vắng mặt. Cuộc cải cách này được thực hiện khá cương quyết từ năm 1946 đến năm 1950 dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của lực lượng chiếm đóng. Tính đến 1948, số lượng đất chính phủ mua lên đến 163.000 hecta thực hiện liên tiếp trong 10 lần. Diện tích phát canh tính đến tháng 8/1950 chỉ còn 10%. Địa chủ vắng mặt* đã bị xoá bỏ; 80 đến 90% đất của họ đã bị chuyển nhượng cho tá điền; khoảng 70 đến 80% số ruộng đất cho thuê hoặc canh tác của địa chủ làng xã đã bị chuyển nhượng cho nông dân. Nhiều nhà chính trị, chính khách và nghiên cứu Nhật Bản trong và ngoài nước đánh giá cao những thành tựu của chương trình cải cách ruộng đất. Toshino Kawa Goe cho rằng cải cách ruộng đất Nhật Bản giai đoạn sau chiến tranh được coi là "Ví dụ về thành tựu lịch sử của cải cách ruộng đất trong nông nghiệp". Tác động của cuộc cải cách ruộng đất rất to lớn đối với ý nghĩa phát triển kinh tế Nhật Bản. Vì ruộng đất ở nông thôn Nhật Bản đã bị xoá bỏ, xoá bỏ luôn cả tàn dư phong kiến của nền nông nghiệp Nhật Bản và từ đó làm tan rã chế độ đẳng cấp ở nông thôn 4 làm thay đổi hẳn trật tự xã hội nông thôn. Điều này tạo ra sự phân phối tài sản và thu nhập bình đẳng hơn. Sau khi quyền sở hữu ruộng đất đã được chuyển nhượng nông dân đã tiến hành cải tạo ruộng đất gieo trồng, tích cực áp dụng kỹ thuật canh tác mới, tăng năng suất lao động nông nghiệp. Những tiến bộ kỹ thuật trong việc trồng lúa và thu nhập của nông dân cũng đã góp phần mở rộng đáng kể thị trường trong nước.
Cùng với hàng loạt chương trình "cải cách nông thôn", cải cách ruộng đất đã không chỉ trực tiếp mà gián tiếp làm thay đổi toàn bộ chiều hướng phát triển của làng xã Nhật Bản.
* Giải thể các công ty lũng đoạn Zaibatsu cũng là một nội dung quan trọng của cải cách kinh tế và tác động lớn đến sự thần kỳ Nhật Bản. Việc giải thể này nhằm giải tán các tập đoàn tài phiệt theo quan hệ gia tộc mang tính phong kiến.
Sự tập trung công nghiệp vào một số Zaibatsu "gây ra quan hệ nửa phong kiến giữa chủ, thợ và kìm hãm tiền lương, cản trở sự phát triển công đoàn". Nhằm thực hiện giải thể  Zaibatsu, lực lượng Đồng minh đã lập ra ủy ban giải quyết vấn đề công ty cổ phần. Do đó 57 gia đình  Zaibatsu phải giao nộp tài sản tổng cộng lên đến 233 triệu cổ phần và bán cổ phần này cho nhiều công ty, hiệp hội. Những tập đoàn tài phiệt lớn: Mitsuibishi, Sumitomo, Yasuda đã bị giải thể. Nhờ vậy, những công ty chịu sự kiểm soát  của chúng đã được độc lập loại trừ sự chi phối và sức mạnh của các cá nhân và các gia tộc Zaibatsu. Việc giải thể phần lớn các công ty khổng lồ trong các ngành công nghiệp chủ chốt của Nhật như thép, đóng tàu... đã làm thay đổi hoàn toàn bản đồ công nghiệp của Nhật Bản. Nhiều nhà kinh tế đã đánh giá việc gii thể các Zaibatsu góp phần vào việc xoá bỏ tình trạng  tập trung kinh tế, thiết lập một khuôn khổ cạnh tranh 7 và giúp cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh. Việc thanh lọc kinh tế đã loại bỏ trong thực tế 1.535 người ở 295 công ty, có tư tưởng quân phiệt, hiếu chiến 8 tạo cơ hội cho các nhà quản lý trẻ tuổi, năng động, táo bạo, phát huy tốt chức năng "thuyền trưởng mới" của các ngành công nghiệp. Do đó, nền kinh tế Nhật Bản có điều kiện lấy lại sức sống của nó.
* Cùng với các cải cách dân chủ khác, việc thực hiện ngay cuộc cải cách lao động của Nhật Bản sau chiến tranh nhằm ngăn chặn phục hồi quân phiệt, nâng cao tự do và đời sống vật chất cho nhân dân. Trong những năm 1945 - 1951 các cuộc cải cách lao động được thể hiện chủ yếu dưới hình thức đòi cải thiện quan hệ chủ, thợ trong xí nghiệp, công ty, đề cao tự do, dân chủ, nâng cao đời sống vật chất cho công nhân tạo nên mối quan hệ mới có lợi cho sự phục hồi và phát triển kinh tế.
Những cải cách lao động được thực hiện thông qua các luật công đoàn lao động được ban bố trong những năm này. Trên cơ sở đó, phong trào công nhân phát triển nhanh chóng, số lượng đoàn viên tăng mạnh mẽ. Cải cách công đoàn và nhiều nội dung thể hiện trong cải cách tăng cường quan hệ hợp tác chủ thợ (sẽ nói phần sau), góp phần tạo ra năng suất lao động cao và khả năng cạnh tranh vào cuối thập kỷ 50 và các giai đoạn lịch sử sau đó của Nhật Bản.
2. Những nhà kinh doanh tích cực
Một trong những nguyên nhân quan trọng giúp cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh sau chiến tranh là các nhà kinh doanh xí nghiệp đã tỏ rõ năng lực kinh doanh tích cực. Điều này được hình thành mạnh mẽ nhất trong các cuộc cải cách: thanh trừng chính trị, gii thể Zaibatsu, thanh lọc kinh tế, qua đó đã tạo ra lực lượng nhà kinh doanh có tư tưởng năng động, sáng tạo, táo bạo, tích cực trong kinh doanh là nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế Nhật Bản. Sau khi lấy lại tinh thần do tình trạng chiến tranh mang lại dưới tác động của các cuộc cải cách kinh tế, các tổ chức kinh tế tư nhân Nhật Bản được thành lập khắp nơi với quyết tâm phát triển kinh tế, tổ chức lại các hoạt động kinh tế, làm cho cỗ máy kinh tế vận hành. Tháng 4 năm 1946, Hội đồng hữu kinh tế (Keizai Doyukai - tổ chức của các nhà kinh doanh) đã được thành lập với quyết tâm của những nhà kinh doanh dưới 50 tuổi như: Kanichi Mori, Otsuka...Họ đã phê phán những nhà kinh doanh lỗi thời không chịu tuân  thủ nguyên tắc dân chủ hoá chiến  tranh và phong trào cùng công nhân quá khích, tuyên bố xác lập vị trí riêng của tổ chức mình, phân chia ranh giới giữa tư bản và kinh doanh... trong đó dựa vào sự thỏa hiệp giữa chủ và thợ. Nhiều hội viên của tổ chức này khá cao tuổi, Có người gọi đó là "Hội kinh tế của những người già". Sau đó liên tục có nhiều tổ chức những nhà kinh tế trẻ, ví dụ: tháng 8/1946, Keidansen (Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản); năm 1948, thành lập Mikeiren (Liên đoàn các tổ chức kinh doanh Nhật Bản) nhằm đối phó lại phong trào công đoàn đang lên, kêu gọi, xác lập và giữ vững quyền kinh doanh của mình.
Những nhà kinh doanh tích cực của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh thế giới có thể chia thành 3 loại:
+ Những nhà kinh doanh trẻ được đề bạt thay thế các nhà lãnh đạo xí nghiệp hàng đầu đã bị loại bỏ chức vụ thông qua các cuộc giải thể Zaibatsu và thanh lọc kinh tế. Đây là lực lượng các nhà kinh doanh có tư tưởng dân chủ, hoà bình và năng động phát triển kinh tế. Ví  dụ: Chikara Karuta (hãng chế tạo Hitachi), Ishisaka (xí nghiệp đồ điện Toshiba), Nishiyama (hàng sắt thép Kawasaki).
+ Những nhà doanh nghiệp mới nổi lên sau chiến tranh. Các xí nghiệp trung tiểu trước chiến  tranh, chớp thời cơ lợi dụng cơ chế tự do cạnh tranh do việc giải thể các tập  đoàn tài phiệt quá lớn sau chiến tranh để vượt lên kinh doanh, trở thành các công ty lớn dưới sự lãnh đạo của các nhà kinh doanh lớn mới nổi lên. Ví dụ: Konosuke Matsu (công ty điện Matushita), Sazo Idemitsu (Idemitsu Hunsan), Shojiro Ishibashi (hãng sản xuất lốp xe Bridgestone)
+ Loại thứ 3 các nhà kinh doanh mới nổi lên sau chiến tranh. Ví dụ: Oh Ibuka (Soni), Tsuyoshi Mitarai (Canon)...
Thời cơ sau Chiến tranh Thế giới thứ II dưới tác động của các cuộc cải cách trên mọi lĩnh vực (thanh lọc chính  trị, kinh tế, hiến pháp mới ban hành) đã tạo điều kiện cho hàng loạt các nhà kinh doanh tích cực thử sức mình và thi thố tài năng của họ. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các xí nghiệp do các tập đoàn tài phiệt bị giải thể và bầu không khí tự do sau chiến tranh là mảnh đất tốt cho sự ra đời các nhà doanh nghiệp mới. Điều đầu tiên mà các nhà doanh nghiệp đó đã làm là mạnh dạn chuyển đổi các ngành công nghiệp phù hợp, hoà bình và phục hồi đời sống, xây dựng kinh tế cho nhân dân. Họ có tinh thần đi tiên phong đổi mới kỹ thuật chủ yếu từ Mỹ và phương Tây và cải biến nó để tạo ra những sản phẩm mới tốt hơn, đẹp hơn và giá hạ hơn. Họ tiếp tục cải cách đầu tư thiết bị, đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu để kinh tế Nhật Bản có thể thích ứng được môi trường kinh tế sau chiến tranh. Đó là phương pháp kinh doanh cải cách mà các nhà kinh doanh trước đó rất ít thấy. Ví dụ: 1951, Công ty Toyo Rayon nhân việc có sự tranh chấp về vấn đề xâm phạm bí quyết kỹ thuật với Công ty Ruybon của Mỹ, đã quyết định du nhập kỹ thuật sản xuất Nilon 66 sử dụng bí quyết kỹ thuật. Quyết định táo bạo đó trở thành nguồn gốc cho sự phát triển tơ sợi  tổng hợp ở Nhật Bản thời kỳ sau đó. Năm 1953, Hãng Sony đã quyết định mua kỹ thuật bán dẫn (Transistor) của Hãng Western Electronic và đã thành công trong việc sản xuất đài bán dẫn (Transistor Radio).
Cùng với lực lượng các nhà kinh doanh tích cực, họ có nhiệm vụ hướng dẫn hành chính, hoạch định kế hoạch, hình thành mục tiêu đạt tới trong tương lai. Với bản tính tài ba, năng động, sáng tạo và liêm khiết, bộ máy quan chức Nhật Bản cũng đã chịu sự tác động trực tiếp và gián tiếp của cải cách dân chủ sau chiến tranh một trong những chìa khoá tạo sự tăng trưởng Nhật Bản sau chiến tranh.
3. Lực lượng lao động ưu tú
Trên cơ sở những điều kiện quốc tế  và trong nước sau chiến tranh, dưới tác động của hàng loạt các cuộc cải cách dân chủ: cải cách kinh tế, cải cách hiến pháp, cải cách lao động, cải cách giáo dục văn hoá xã hội khác, lực lượng lao động Nhật Bản đã có điều kiện, cơ hội đóng góp có hiệu quả vào thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao của Nhật Bản sau chiến tranh.
Sau chiến tranh, Nhật Bản có một lợi thế là nguồn lao động dồi dào. Chiến tranh kết thúc, dân số Nhật Bản tăng thêm 10 triệu người: từ các thuộc địa trở về, binh lính giải ngũ và sự gia tăng dân số. Nguồn cung cấp lao động lúc đó là quá dư thừa và họ sẵn sàng làm việc với đồng lương rẻ mạt. Nhưng dù đồng lương thấp đến mức nào mà chất lượng lao động kém, năng suất lao động thấp thì cũng không thể có giá trị thặng dư. Nhật Bản không ở trong trường hợp đó, mặc dù số lượng dân số bùng nổ rất đông và hàng loạt những khó khăn vô kể sau chiến tranh nhưng phần lớn lao động ở Nhật Bản có trình độ giáo dục cao, được đào tạo về kỹ năng lao động, cần cù, chịu khó và trung thành với các xí nghiệp. Đó là những yếu tố rất có lợi cho Nhật Bản để tăng trưởng kinh tế. Dưới tác động mạnh mẽ của các cải cách đã tác động trực tiếp đến lực lượng lao động này. Cải cách hiến pháp cho phép mọi người công dân đều có quyền tự do, dân chủ, nam nữ có quyền ngang nhau; cải cách kinh tế tạo điều kiện cho cơ chế tự do cạnh tranh, cơ hội phát triển kinh tế; cải cách giáo dục đã loại bỏ tư tưởng quân phiệt hiếu chiến ra khỏi nhà trường, thổi vào tư tưởng hoà bình xây dựng kinh tế, tạo mọi cơ hội áp dụng thành tựu giáo dục phương Tây hiện đại vào Nhật Bản. Đặc biệt với hàng loạt các chính sách văn hoá xã hội như: hạn chế gia tăng dân số, đạo luật về cải cách giáo dục đã tạo điều kiện đảm bảo đến những năm 1970 có đủ lực lượng lao động ưu tú cho thời kỳ "cất cánh" của Nhật Bản.
Cùng với những cải cách dân chủ trong các lĩnh vực khác, cải cách giáo dục, cải cách chính trị, văn hoá xã hội Nhật Bản sau chiến tranh thực sự có tác dụng to lớn trong tiến trình phát triển lịch sử Nhật Bản. Nó đóng góp đắc lực xoá bỏ những tàn tích phong kiến, loại bỏ tư tưởng quân phiệt và những hạn chế khác trong hệ thống giáo dục cũ của Nhật Bản và thổi vào xã hội Nhật Bản một xu hướng mới dân chủ tự do. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành tựu tinh hoa của nền giáo dục truyền thống Nhật Bản trước và trong thời kỳ Minh Trị, kết hợp với những xu hướng mới trong cải cách giáo dục... các cải cách chính trị, xã hội Nhật Bản có công lao to lớn trong việc đào tạo thế hệ con người mới sau chiến tranh. Họ là những con người có năng lực chuyên môn phục vụ cho mục đích kinh tế, xây dựng nền dân chủ, phát triển khoa học kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu hiện đại hoá ngày càng cao của đất nước trong xu thế hoà bình, hợp tác cùng phát triển của thế giới.
4. Hợp tác chủ - thợ
Theo nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới, ở Nhật Bản khác hẳn các nước công nghiệp tiêu biểu Tây Âu và Mỹ trong mối quan hệ chủ - thợ, góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế của Nhật Bản giai đoạn sau chiến tranh. Ngoài những lý do về yếu tố truyền thống cơ sở xã hội, ý tưởng đạo đức phong kiến đạo Khổng còn rơi rớt lại thì rõ ràng tính chất tập thể đặc thù hợp tác chủ - thợ chủ yếu được xuất hiện dưới tác động của các cuộc cải cách sau chiến tranh tạo nên nguyên nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế giai đoạn sau đó.
Trước Chiến tranh Thế giới II, quan hệ công nhân và giới chủ ở Nhật Bản phổ biến không phải là quan hệ hợp đồng mà là quan hệ phụ thuộc gần như quan hệ của nông dân và chủ phong kiến, hình thành chế độ làm thuê "bán mình". Công nhân không có quyền hành, thiếu tổ chức và chịu theo mệnh lệnh của chủ. Họ thường làm, ăn, ở ngay trong xí nghiệp và không được ra ngoài. Chế độ này làm cho công nhân mất quyền tự do về sinh hoạt cũng như hành động.
Ngược lại, sau chiến tranh nhờ phong trào lao động và các cuộc cải cách lao động mối quan hệ chủ - thợ đã thay đổi tạo hình thức lao động mới là công đoàn xí nghiệp. Trong xí nghiệp đó, họ khuyến khích công nhân cổ trắng và công nhân cổ xanh cùng hoạt động; đồng thời cấp nhà ở và những điều kiện thuận lợi khác cho các hoạt động của công đoàn. Giới chủ đã thoả thuận ký kết với công đoàn về chế độ trả lương theo thâm niên, việc làm ổn định trong xí nghiệp. Xí nghiệp như một gia đình lớn trong đó chủ có "trách nhiệm" quan tâm đến công nhân và ngược lại công nhân cũng phải "tận tâm", "trung thành" với chủ. Vì vậy, trong các phong trào công đoàn, hầu hết công nhân đều có chung một ý nghĩ "những cuộc đấu tranh sẽ không gây nguy hại cho tương lai của công ty mình". Việc thực hiện lương trả theo thâm niên và đảm bảo ổn định việc làm thường xuyên buộc giới chủ phải thường thuyên chuyển hoặc đào tạo lại công nhân của xí nghiệp nếu họ muốn áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm tăng  năng suất lao động. Như vậy, việc cải cách chế độ công đoàn từ công đoàn ngành trước chiến tranh thành công đoàn  xí nghiệp (*) trong các công ty và việc thay đổi quan hệ giữa người chủ và những người nhân viên nhằm đảm bảo việc làm ổn định đã giúp các công ty Nhật Bản tích cực phát huy sáng kiến và áp dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động và gắn bó với công nhân. Bên cạnh đó, sự đối xử công bằng với cả công nhân lẫn viên chức trong công đoàn xí nghiệp tạo điều kiện tăng cường hợp tác trong quá trình sản xuất. Công đoàn công ty và cải cách quan hệ lao động giới chủ và công nhân đã góp phần tạo ra năng suất lao động cao và khả năng cạnh tranh chuẩn bị tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh vào cuối thập kỷ 1950 và đầu thập kỷ 1960. Việc làm ổn định, lương theo thâm niên và công đoàn công ty cũng như quan hệ hợp tác chủ thợ ở Nhật Bản có sự kết hợp ví chủ nghĩa truyền thống lao động có tính chất gia đình. Nhưng đó không phải là những điều kiện có sẵn sau chiến tranh mà chính là sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài giữa giới chủ và công nhân sau Chiến tranh Thế giới thứ II tạo  ra 14.
5. Ổn định chính trị và xã hội
Kể  từ sau khi thực hiện các cuộc cải cách dân chủ đến khi Nhật Bản bước vào giai đoạn thần kỳ kinh tế vào cuối những năm 1970 nhìn chung xã hội Nhật Bản có những sự kiện đôi lúc gây chia rẽ trong xã hội. Ví dụ, phong trào tổng bãi công của công nhân có thái độ đối đầu với Chính phủ vào những năm 1946, 1947. Và năm 1960 dư luận đã bị chia rẽ mạnh mẽ khi sửa đổi kéo dài Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật. Các đảng phái, tổ chức sinh viên, công đoàn, cơ quan ngôn luận đã phản đối mạnh mẽ sự sửa đổi này; hoặc năm 1968 cuộc bãi khóa của sinh viên các trường đại học lớn ở Nhật Bản, phong trào lên cao đến mức người ta có cảm tưởng như đêm trước của một cuộc cách mạng. Chính phủ đã tăng cường các biện pháp cưỡng chế và nhiều lý do khác đã làm cho các cuộc bãi khoá dịu đi và được giải quyết ổn thoả. Xã hội Nhật được coi là xã hội ổn định là một trong những nguyên nhân tạo sự "tăng  trưởng thần kỳ" Nhật Bản. Đó là hiệu quả tác động trực tiếp do các cuộc cải cách Nhật aanr mang lại. Hàng loạt các biện pháp giải quyết cấp  bách sau chiến tranh như: khuyến khích phát triển các tổ chức dân chủ,  cho phép thành lập các công đoàn, hiệp hội, và thực hiện một loạt biện pháp gim lạm pháp, cứu đói, khuyến khích sản xuất để tạo thêm sức mạnh và tinh thần dân tộc Nhật Bản.
Các cuộc cải cách chính trị: thanh trừng phạm tội phát xít, phong trào đòi tự do hoạt động của các đảng  phái chính trị đã đi trước một bước tạo tiền đề cho cải cách, làm trong sạch bộ máy chính trị, chuyển  toàn bộ bộ máy chính trị phục vụ chiến tranh sang phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, và đã  thổi một  làn gió tự do, dân chủ trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho Nhật Bản bước vào kỷ nguyên tăng trưởng kinh tế.
Cải cách chính trị quan trọng nhất ở Nhật Bản sau chiến tranh là cải cách hiến pháp. Hiến pháp mới đã được  ban bố vào ngày 7/10/1946 dưới hình thức chế độ Thiên hoàng là tượng trưng chủ quyền thuộc về nhân dân hoà bình, tôn trọng quyền cơ ảan của con người. Hiến pháp trên thực tế đã tuyên bố xoá bỏ những hình thức phong kiến ràng buộc quyền cơ bản của con người. Hiến pháp 1946 thực tế công khai xoá bỏ ràng buộc phong kiến và là điểm khởi đầu cho những tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng của xã hội Nhật Bản ngay sau Chiến tranh Thế giới  thứ II.
Những thành quả của cải cách lao động đã tạo mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa chủ - thợ trong quá trình lao động. Cải cách giáo dục đã tạo nên một  thế hệ con người mới sau chiến tranh có trình độ học vấn cao, có tư tưởng hoà bình và phát triển kinh tế. Các cuộc cải cách đã góp phần vào việc xây dựng và củng cố một nền chính trị xã hội ổn định, một xã hội mà trong đó số đông 87% người Nhật tự cho mình thuộc tầng lớp trung lưu được hình thành (*. Tuy là một đất nước hiện đại bậc nhất của thế giới nhưng vẫn giữ gìn được cốt cách truyền thống  tốt đẹp của dân tộc Nhật Bản. Các tệ nạn xã hội ở Nhật Bản ít hơn so với Mỹ. Trên chính trường, trừ thời gian nội các Katayama của Đảng Xã hội chỉ tồn tại được 7 tháng còn hầu hết thời gian sau chiến tranh liên tiếp do Đảng Dân chủ - Tự do Nhật Bản nắm **, và Đảng này đã có các chính sách đúng đắn, nhất là đối với nông dân sau cải cách ruộng đất. Tình hình trên đây đã mang lại sự ổn định xã hội duy trì được tính nhất quán của chính sách. Chính sách của Đảng Dân chủ - Tự do Nhật Bản đã có không ít những mặt tiến bộ mang lại sự thay đổi cho Nhật Bản.
Mặc dù cho đến nay, Nhật Bản cường quốc kinh tế thứ hai thế giới đã không còn sự thần  kỳ đáng kinh ngạc như cuối những năm 1970, tuy nhiên Nhật Bản vẫn là cường quốc kinh tế thế giới đáng khâm phục về mọi mặt, nhất là về tài chính. Trong khi, Nhật Bản cho nước ngoài vay 1 nghìn tỷ USD thì Mỹ lại nợ nước ngoài 1 tỷ USD. Do đó, mô hình Nhật Bản vẫn cần được nghiên cứu và khám phá. Bài học thành công hay chưa thành công của mô hình kinh tế Nhật Bản vẫn là một điều cần tìm hiểu sâu kỹ để phục vụ cho chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam vì Việt Nam và Nhật Bản có rất nhiều nét tương đồng về truyền thống, lịch sử, con người, văn hoá.

TS. Hoàng Thị Minh Hoa
Trường Đại học Khoa học Huế
(Lược trích từ Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 1 - 2003)