Sau
khi đã loại trừ những yếu tố về điều kiện quốc tế, khoa học kỹ thuật,
những di sản trước chiến tranh, chi phí quốc phòng ít ỏi và những yếu tố
thuộc về truyến thống con người Nhật Bản. Trên cơ sở tổng hợp phân
tích, những nguyên nhân của các nhà nghiên cứu
nói trên, phân tích những tác động ảnh hưởng của các cuộc cải cách dân
chủ sau chiến tranh, bài viết cho thấy những nguyên nhân còn lại đều
trực tiếp hoặc gián tiếp được xuất hiện từ trong cuộc cải cách dân chủ
sau chiến tranh.
Tuy nhiên, trong
mức độ cho phép bài viết chỉ trình bày những nguyên nhân trực tiếp được
hình thành trong các cuộc cải cách sau chiến tranh và tác động của nó
đối với sự tăng trưởng kinh tế Nhật Bản giai đoạn sau đó.
1. Cải cách kinh tế
*
Công cuộc cải cách kinh tế được bắt đầu ngay sau khi chiến tranh kết
thúc đã có tác dụng to lớn đến sự phát triển kinh tế Nhật Bản sau này.
Cải cách ruộng đất được coi là cải cách quan trọng nhất và đạt hiệu quả
cao nhất trong các cuộc cải cách kinh tế với mục tiêu "xoá bỏ những trở
ngại kinh tế nhằm khắc phục và củng cố các thiên hướng dân chủ để phá bỏ
sự kìm hãm kinh tế vốn đoạ đày người nông dân Nhật Bản trong nhiều thế
kỷ áp bức phong kiến". Đạo luật cải cách ruộng đất ban bố ngày
11/10/1946, với nội dung là nghiêm khắc với đối tượng mua đất, lập các
uỷ ban ruộng đất, đề ra các phưng thức mua đất, cách thanh toán và qui
định về địa chủ vắng mặt. Cuộc cải cách này được thực hiện khá cương
quyết từ năm 1946 đến năm 1950 dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của lực lượng
chiếm đóng. Tính đến 1948, số lượng đất chính phủ mua lên đến 163.000
hecta thực hiện liên tiếp trong 10 lần. Diện tích phát canh tính đến
tháng 8/1950 chỉ còn 10%. Địa chủ vắng mặt* đã bị xoá bỏ; 80 đến 90% đất
của họ đã bị chuyển nhượng cho tá điền; khoảng 70 đến 80% số ruộng đất
cho thuê hoặc canh tác của địa chủ làng xã đã bị chuyển nhượng cho nông
dân. Nhiều nhà chính trị, chính khách và nghiên cứu Nhật Bản trong và
ngoài nước đánh giá cao những thành tựu của chương trình cải cách ruộng
đất. Toshino Kawa Goe cho rằng cải cách ruộng đất Nhật Bản giai đoạn sau
chiến tranh được coi là "Ví dụ về thành tựu lịch sử của cải cách ruộng
đất trong nông nghiệp". Tác động của cuộc cải cách ruộng đất rất to lớn
đối với ý nghĩa phát triển kinh tế Nhật Bản. Vì ruộng đất ở nông thôn
Nhật Bản đã bị xoá bỏ, xoá bỏ luôn cả tàn dư phong kiến của nền nông
nghiệp Nhật Bản và từ đó làm tan rã chế độ đẳng cấp ở nông thôn 4 làm
thay đổi hẳn trật tự xã hội nông thôn. Điều này tạo ra sự phân phối tài
sản và thu nhập bình đẳng hơn. Sau khi quyền sở hữu ruộng đất đã được
chuyển nhượng nông dân đã tiến hành cải tạo ruộng đất gieo trồng, tích
cực áp dụng kỹ thuật canh tác mới, tăng năng suất lao động nông nghiệp.
Những tiến bộ kỹ thuật trong việc trồng lúa và thu nhập của nông dân
cũng đã góp phần mở rộng đáng kể thị trường trong nước.
Cùng
với hàng loạt chương trình "cải cách nông thôn", cải cách ruộng đất đã
không chỉ trực tiếp mà gián tiếp làm thay đổi toàn bộ chiều hướng phát
triển của làng xã Nhật Bản.
*
Giải thể các công ty lũng đoạn Zaibatsu cũng là một nội dung quan trọng
của cải cách kinh tế và tác động lớn đến sự thần kỳ Nhật Bản. Việc giải
thể này nhằm giải tán các tập đoàn tài phiệt theo quan hệ gia tộc mang
tính phong kiến.
Sự
tập trung công nghiệp vào một số Zaibatsu "gây ra quan hệ nửa phong
kiến giữa chủ, thợ và kìm hãm tiền lương, cản trở sự phát triển công
đoàn". Nhằm thực hiện giải thể Zaibatsu, lực lượng Đồng minh đã lập ra ủy ban giải quyết vấn đề công ty cổ phần. Do đó 57 gia đình Zaibatsu
phải giao nộp tài sản tổng cộng lên đến 233 triệu cổ phần và bán cổ
phần này cho nhiều công ty, hiệp hội. Những tập đoàn tài phiệt lớn:
Mitsuibishi, Sumitomo, Yasuda đã bị giải thể. Nhờ vậy, những công ty
chịu sự kiểm soát của chúng đã được độc lập loại
trừ sự chi phối và sức mạnh của các cá nhân và các gia tộc Zaibatsu.
Việc giải thể phần lớn các công ty khổng lồ trong các ngành công nghiệp
chủ chốt của Nhật như thép, đóng tàu... đã làm thay đổi hoàn toàn bản đồ
công nghiệp của Nhật Bản. Nhiều nhà kinh tế đã đánh giá việc gii thể
các Zaibatsu góp phần vào việc xoá bỏ tình trạng tập
trung kinh tế, thiết lập một khuôn khổ cạnh tranh 7 và giúp cho nền
kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh. Việc thanh lọc kinh tế đã loại bỏ
trong thực tế 1.535 người ở 295 công ty, có tư tưởng quân phiệt, hiếu
chiến 8 tạo cơ hội cho các nhà quản lý trẻ tuổi, năng động, táo bạo,
phát huy tốt chức năng "thuyền trưởng mới" của các ngành công nghiệp. Do
đó, nền kinh tế Nhật Bản có điều kiện lấy lại sức sống của nó.
*
Cùng với các cải cách dân chủ khác, việc thực hiện ngay cuộc cải cách
lao động của Nhật Bản sau chiến tranh nhằm ngăn chặn phục hồi quân
phiệt, nâng cao tự do và đời sống vật chất cho nhân dân. Trong những năm
1945 - 1951 các cuộc cải cách lao động được thể hiện chủ yếu dưới hình
thức đòi cải thiện quan hệ chủ, thợ trong xí nghiệp, công ty, đề cao tự
do, dân chủ, nâng cao đời sống vật chất cho công nhân tạo nên mối quan
hệ mới có lợi cho sự phục hồi và phát triển kinh tế.
Những
cải cách lao động được thực hiện thông qua các luật công đoàn lao động
được ban bố trong những năm này. Trên cơ sở đó, phong trào công nhân
phát triển nhanh chóng, số lượng đoàn viên tăng mạnh mẽ. Cải cách công
đoàn và nhiều nội dung thể hiện trong cải cách tăng cường quan hệ hợp
tác chủ thợ (sẽ nói phần sau), góp phần tạo ra năng suất lao động cao và
khả năng cạnh tranh vào cuối thập kỷ 50 và các giai đoạn lịch sử sau đó
của Nhật Bản.
2. Những nhà kinh doanh tích cực
Một
trong những nguyên nhân quan trọng giúp cho nền kinh tế Nhật Bản phát
triển mạnh sau chiến tranh là các nhà kinh doanh xí nghiệp đã tỏ rõ năng
lực kinh doanh tích cực. Điều này được hình thành mạnh mẽ nhất trong
các cuộc cải cách: thanh trừng chính trị, gii thể Zaibatsu, thanh lọc
kinh tế, qua đó đã tạo ra lực lượng nhà kinh doanh có tư tưởng năng
động, sáng tạo, táo bạo, tích cực trong kinh doanh là nền tảng cho sự
tăng trưởng kinh tế Nhật Bản. Sau khi lấy lại tinh thần do tình trạng
chiến tranh mang lại dưới tác động của các cuộc cải cách kinh tế, các tổ
chức kinh tế tư nhân Nhật Bản được thành lập khắp nơi với quyết tâm
phát triển kinh tế, tổ chức lại các hoạt động kinh tế, làm cho cỗ máy
kinh tế vận hành. Tháng 4 năm 1946, Hội đồng hữu kinh tế (Keizai Doyukai
- tổ chức của các nhà kinh doanh) đã được thành lập với quyết tâm của
những nhà kinh doanh dưới 50 tuổi như: Kanichi Mori, Otsuka...Họ đã phê
phán những nhà kinh doanh lỗi thời không chịu tuân thủ nguyên tắc dân chủ hoá chiến tranh
và phong trào cùng công nhân quá khích, tuyên bố xác lập vị trí riêng
của tổ chức mình, phân chia ranh giới giữa tư bản và kinh doanh... trong
đó dựa vào sự thỏa hiệp giữa chủ và thợ. Nhiều hội viên của tổ chức này
khá cao tuổi, Có người gọi đó là "Hội kinh tế của những người già". Sau
đó liên tục có nhiều tổ chức những nhà kinh tế trẻ, ví dụ: tháng
8/1946, Keidansen (Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản); năm 1948,
thành lập Mikeiren (Liên đoàn các tổ chức kinh doanh Nhật Bản) nhằm đối
phó lại phong trào công đoàn đang lên, kêu gọi, xác lập và giữ vững
quyền kinh doanh của mình.
Những nhà kinh doanh tích cực của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh thế giới có thể chia thành 3 loại:
+
Những nhà kinh doanh trẻ được đề bạt thay thế các nhà lãnh đạo xí
nghiệp hàng đầu đã bị loại bỏ chức vụ thông qua các cuộc giải thể
Zaibatsu và thanh lọc kinh tế. Đây là lực lượng các nhà kinh doanh có tư
tưởng dân chủ, hoà bình và năng động phát triển kinh tế. Ví dụ: Chikara Karuta (hãng chế tạo Hitachi), Ishisaka (xí nghiệp đồ điện Toshiba), Nishiyama (hàng sắt thép Kawasaki).
+ Những nhà doanh nghiệp mới nổi lên sau chiến tranh. Các xí nghiệp trung tiểu trước chiến tranh, chớp thời cơ lợi dụng cơ chế tự do cạnh tranh do việc giải thể các tập đoàn
tài phiệt quá lớn sau chiến tranh để vượt lên kinh doanh, trở thành các
công ty lớn dưới sự lãnh đạo của các nhà kinh doanh lớn mới nổi lên. Ví
dụ: Konosuke Matsu (công ty điện Matushita), Sazo Idemitsu (Idemitsu
Hunsan), Shojiro Ishibashi (hãng sản xuất lốp xe Bridgestone)
+ Loại thứ 3 các nhà kinh doanh mới nổi lên sau chiến tranh. Ví dụ: Oh Ibuka (Soni), Tsuyoshi Mitarai (Canon)...
Thời cơ sau Chiến tranh Thế giới thứ II dưới tác động của các cuộc cải cách trên mọi lĩnh vực (thanh lọc chính trị,
kinh tế, hiến pháp mới ban hành) đã tạo điều kiện cho hàng loạt các nhà
kinh doanh tích cực thử sức mình và thi thố tài năng của họ. Sự cạnh
tranh gay gắt giữa các xí nghiệp do các tập đoàn tài phiệt bị giải thể
và bầu không khí tự do sau chiến tranh là mảnh đất tốt cho sự ra đời các
nhà doanh nghiệp mới. Điều đầu tiên mà các nhà doanh nghiệp đó đã làm
là mạnh dạn chuyển đổi các ngành công nghiệp phù hợp, hoà bình và phục
hồi đời sống, xây dựng kinh tế cho nhân dân. Họ có tinh thần đi tiên
phong đổi mới kỹ thuật chủ yếu từ Mỹ và phương Tây và cải biến nó để tạo
ra những sản phẩm mới tốt hơn, đẹp hơn và giá hạ hơn. Họ tiếp tục cải
cách đầu tư thiết bị, đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu để kinh tế Nhật
Bản có thể thích ứng được môi trường kinh tế sau chiến tranh. Đó là
phương pháp kinh doanh cải cách mà các nhà kinh doanh trước đó rất ít
thấy. Ví dụ: 1951, Công ty Toyo Rayon nhân việc có sự tranh chấp về vấn
đề xâm phạm bí quyết kỹ thuật với Công ty Ruybon của Mỹ, đã quyết định
du nhập kỹ thuật sản xuất Nilon 66 sử dụng bí quyết kỹ thuật. Quyết định
táo bạo đó trở thành nguồn gốc cho sự phát triển tơ sợi tổng
hợp ở Nhật Bản thời kỳ sau đó. Năm 1953, Hãng Sony đã quyết định mua kỹ
thuật bán dẫn (Transistor) của Hãng Western Electronic và đã thành công
trong việc sản xuất đài bán dẫn (Transistor Radio).
Cùng
với lực lượng các nhà kinh doanh tích cực, họ có nhiệm vụ hướng dẫn
hành chính, hoạch định kế hoạch, hình thành mục tiêu đạt tới trong tương
lai. Với bản tính tài ba, năng động, sáng tạo và liêm khiết, bộ máy
quan chức Nhật Bản cũng đã chịu sự tác động trực tiếp và gián tiếp của
cải cách dân chủ sau chiến tranh một trong những chìa khoá tạo sự tăng
trưởng Nhật Bản sau chiến tranh.
3. Lực lượng lao động ưu tú
Trên cơ sở những điều kiện quốc tế và
trong nước sau chiến tranh, dưới tác động của hàng loạt các cuộc cải
cách dân chủ: cải cách kinh tế, cải cách hiến pháp, cải cách lao động,
cải cách giáo dục văn hoá xã hội khác, lực lượng lao động Nhật Bản đã có
điều kiện, cơ hội đóng góp có hiệu quả vào thời kỳ tăng trưởng kinh tế
cao của Nhật Bản sau chiến tranh.
Sau
chiến tranh, Nhật Bản có một lợi thế là nguồn lao động dồi dào. Chiến
tranh kết thúc, dân số Nhật Bản tăng thêm 10 triệu người: từ các thuộc
địa trở về, binh lính giải ngũ và sự gia tăng dân số. Nguồn cung cấp lao
động lúc đó là quá dư thừa và họ sẵn sàng làm việc với đồng lương rẻ
mạt. Nhưng dù đồng lương thấp đến mức nào mà chất lượng lao động kém,
năng suất lao động thấp thì cũng không thể có giá trị thặng dư. Nhật Bản
không ở trong trường hợp đó, mặc dù số lượng dân số bùng nổ rất đông và
hàng loạt những khó khăn vô kể sau chiến tranh nhưng phần lớn lao động ở
Nhật Bản có trình độ giáo dục cao, được đào tạo về kỹ năng lao động,
cần cù, chịu khó và trung thành với các xí nghiệp. Đó là những yếu tố
rất có lợi cho Nhật Bản để tăng trưởng kinh tế. Dưới tác động mạnh mẽ
của các cải cách đã tác động trực tiếp đến lực lượng lao động này. Cải
cách hiến pháp cho phép mọi người công dân đều có quyền tự do, dân chủ,
nam nữ có quyền ngang nhau; cải cách kinh tế tạo điều kiện cho cơ chế tự
do cạnh tranh, cơ hội phát triển kinh tế; cải cách giáo dục đã loại bỏ
tư tưởng quân phiệt hiếu chiến ra khỏi nhà trường, thổi vào tư tưởng hoà
bình xây dựng kinh tế, tạo mọi cơ hội áp dụng thành tựu giáo dục phương
Tây hiện đại vào Nhật Bản. Đặc biệt với hàng loạt các chính sách văn
hoá xã hội như: hạn chế gia tăng dân số, đạo luật về cải cách giáo dục
đã tạo điều kiện đảm bảo đến những năm 1970 có đủ lực lượng lao động ưu
tú cho thời kỳ "cất cánh" của Nhật Bản.
Cùng
với những cải cách dân chủ trong các lĩnh vực khác, cải cách giáo dục,
cải cách chính trị, văn hoá xã hội Nhật Bản sau chiến tranh thực sự có
tác dụng to lớn trong tiến trình phát triển lịch sử Nhật Bản. Nó đóng
góp đắc lực xoá bỏ những tàn tích phong kiến, loại bỏ tư tưởng quân
phiệt và những hạn chế khác trong hệ thống giáo dục cũ của Nhật Bản và
thổi vào xã hội Nhật Bản một xu hướng mới dân chủ tự do. Trên cơ sở kế
thừa có chọn lọc những thành tựu tinh hoa của nền giáo dục truyền thống
Nhật Bản trước và trong thời kỳ Minh Trị, kết hợp với những xu hướng mới
trong cải cách giáo dục... các cải cách chính trị, xã hội Nhật Bản có
công lao to lớn trong việc đào tạo thế hệ con người mới sau chiến tranh.
Họ là những con người có năng lực chuyên môn phục vụ cho mục đích kinh
tế, xây dựng nền dân chủ, phát triển khoa học kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu
hiện đại hoá ngày càng cao của đất nước trong xu thế hoà bình, hợp tác
cùng phát triển của thế giới.
4. Hợp tác chủ - thợ
Theo
nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới, ở Nhật Bản khác hẳn các nước công
nghiệp tiêu biểu Tây Âu và Mỹ trong mối quan hệ chủ - thợ, góp phần tích
cực cho sự phát triển kinh tế của Nhật Bản giai đoạn sau chiến tranh.
Ngoài những lý do về yếu tố truyền thống cơ sở xã hội, ý tưởng đạo đức
phong kiến đạo Khổng còn rơi rớt lại thì rõ ràng tính chất tập thể đặc
thù hợp tác chủ - thợ chủ yếu được xuất hiện dưới tác động của các cuộc
cải cách sau chiến tranh tạo nên nguyên nhân quan trọng thúc đẩy sự phát
triển kinh tế giai đoạn sau đó.
Trước
Chiến tranh Thế giới II, quan hệ công nhân và giới chủ ở Nhật Bản phổ
biến không phải là quan hệ hợp đồng mà là quan hệ phụ thuộc gần như quan
hệ của nông dân và chủ phong kiến, hình thành chế độ làm thuê "bán
mình". Công nhân không có quyền hành, thiếu tổ chức và chịu theo mệnh
lệnh của chủ. Họ thường làm, ăn, ở ngay trong xí nghiệp và không được ra
ngoài. Chế độ này làm cho công nhân mất quyền tự do về sinh hoạt cũng
như hành động.
Ngược
lại, sau chiến tranh nhờ phong trào lao động và các cuộc cải cách lao
động mối quan hệ chủ - thợ đã thay đổi tạo hình thức lao động mới là
công đoàn xí nghiệp. Trong xí nghiệp đó, họ khuyến khích công nhân cổ
trắng và công nhân cổ xanh cùng hoạt động; đồng thời cấp nhà ở và những
điều kiện thuận lợi khác cho các hoạt động của công đoàn. Giới chủ đã
thoả thuận ký kết với công đoàn về chế độ trả lương theo thâm niên, việc
làm ổn định trong xí nghiệp. Xí nghiệp như một gia đình lớn trong đó
chủ có "trách nhiệm" quan tâm đến công nhân và ngược lại công nhân cũng
phải "tận tâm", "trung thành" với chủ. Vì vậy, trong các phong trào công
đoàn, hầu hết công nhân đều có chung một ý nghĩ "những cuộc đấu tranh
sẽ không gây nguy hại cho tương lai của công ty mình". Việc thực hiện
lương trả theo thâm niên và đảm bảo ổn định việc làm thường xuyên buộc
giới chủ phải thường thuyên chuyển hoặc đào tạo lại công nhân của xí
nghiệp nếu họ muốn áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm tăng năng suất lao động. Như vậy, việc cải cách chế độ công đoàn từ công đoàn ngành trước chiến tranh thành công đoàn xí
nghiệp (*) trong các công ty và việc thay đổi quan hệ giữa người chủ và
những người nhân viên nhằm đảm bảo việc làm ổn định đã giúp các công ty
Nhật Bản tích cực phát huy sáng kiến và áp dụng nhanh chóng những thành
tựu khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động và gắn bó với công nhân.
Bên cạnh đó, sự đối xử công bằng với cả công nhân lẫn viên chức trong
công đoàn xí nghiệp tạo điều kiện tăng cường hợp tác trong quá trình sản
xuất. Công đoàn công ty và cải cách quan hệ lao động giới chủ và công
nhân đã góp phần tạo ra năng suất lao động cao và khả năng cạnh tranh
chuẩn bị tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh vào cuối thập kỷ 1950
và đầu thập kỷ 1960. Việc làm ổn định, lương theo thâm niên và công đoàn
công ty cũng như quan hệ hợp tác chủ thợ ở Nhật Bản có sự kết hợp ví
chủ nghĩa truyền thống lao động có tính chất gia đình. Nhưng đó không
phải là những điều kiện có sẵn sau chiến tranh mà chính là sản phẩm của
cuộc đấu tranh lâu dài giữa giới chủ và công nhân sau Chiến tranh Thế
giới thứ II tạo ra 14.
5. Ổn định chính trị và xã hội
Kể từ
sau khi thực hiện các cuộc cải cách dân chủ đến khi Nhật Bản bước vào
giai đoạn thần kỳ kinh tế vào cuối những năm 1970 nhìn chung xã hội Nhật
Bản có những sự kiện đôi lúc gây chia rẽ trong xã hội. Ví dụ, phong
trào tổng bãi công của công nhân có thái độ đối đầu với Chính phủ vào
những năm 1946, 1947. Và năm 1960 dư luận đã bị chia rẽ mạnh mẽ khi sửa
đổi kéo dài Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật. Các đảng phái, tổ chức sinh
viên, công đoàn, cơ quan ngôn luận đã phản đối mạnh mẽ sự sửa đổi này;
hoặc năm 1968 cuộc bãi khóa của sinh viên các trường đại học lớn ở Nhật
Bản, phong trào lên cao đến mức người ta có cảm tưởng như đêm trước của
một cuộc cách mạng. Chính phủ đã tăng cường các biện pháp cưỡng chế và
nhiều lý do khác đã làm cho các cuộc bãi khoá dịu đi và được giải quyết
ổn thoả. Xã hội Nhật được coi là xã hội ổn định là một trong những
nguyên nhân tạo sự "tăng trưởng thần kỳ" Nhật
Bản. Đó là hiệu quả tác động trực tiếp do các cuộc cải cách Nhật aanr
mang lại. Hàng loạt các biện pháp giải quyết cấp bách sau chiến tranh như: khuyến khích phát triển các tổ chức dân chủ, cho
phép thành lập các công đoàn, hiệp hội, và thực hiện một loạt biện pháp
gim lạm pháp, cứu đói, khuyến khích sản xuất để tạo thêm sức mạnh và
tinh thần dân tộc Nhật Bản.
Các cuộc cải cách chính trị: thanh trừng phạm tội phát xít, phong trào đòi tự do hoạt động của các đảng phái chính trị đã đi trước một bước tạo tiền đề cho cải cách, làm trong sạch bộ máy chính trị, chuyển toàn bộ bộ máy chính trị phục vụ chiến tranh sang phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, và đã thổi một làn gió tự do, dân chủ trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho Nhật Bản bước vào kỷ nguyên tăng trưởng kinh tế.
Cải cách chính trị quan trọng nhất ở Nhật Bản sau chiến tranh là cải cách hiến pháp. Hiến pháp mới đã được ban
bố vào ngày 7/10/1946 dưới hình thức chế độ Thiên hoàng là tượng trưng
chủ quyền thuộc về nhân dân hoà bình, tôn trọng quyền cơ ảan của con
người. Hiến pháp trên thực tế đã tuyên bố xoá bỏ những hình thức phong
kiến ràng buộc quyền cơ bản của con người. Hiến pháp 1946 thực tế công
khai xoá bỏ ràng buộc phong kiến và là điểm khởi đầu cho những tư tưởng
dân chủ, tự do, bình đẳng của xã hội Nhật Bản ngay sau Chiến tranh Thế
giới thứ II.
Những
thành quả của cải cách lao động đã tạo mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa
chủ - thợ trong quá trình lao động. Cải cách giáo dục đã tạo nên một thế
hệ con người mới sau chiến tranh có trình độ học vấn cao, có tư tưởng
hoà bình và phát triển kinh tế. Các cuộc cải cách đã góp phần vào việc
xây dựng và củng cố một nền chính trị xã hội ổn định, một xã hội mà
trong đó số đông 87% người Nhật tự cho mình thuộc tầng lớp trung lưu
được hình thành (*. Tuy là một đất nước hiện đại bậc nhất của thế giới
nhưng vẫn giữ gìn được cốt cách truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Nhật Bản. Các tệ nạn xã hội ở Nhật Bản ít hơn so với Mỹ.
Trên chính trường, trừ thời gian nội các Katayama của Đảng Xã hội chỉ
tồn tại được 7 tháng còn hầu hết thời gian sau chiến tranh liên tiếp do
Đảng Dân chủ - Tự do Nhật Bản nắm **, và Đảng này đã có các chính sách
đúng đắn, nhất là đối với nông dân sau cải cách ruộng đất. Tình hình
trên đây đã mang lại sự ổn định xã hội duy trì được tính nhất quán của
chính sách. Chính sách của Đảng Dân chủ - Tự do Nhật Bản đã có không ít
những mặt tiến bộ mang lại sự thay đổi cho Nhật Bản.
Mặc dù cho đến nay, Nhật Bản cường quốc kinh tế thứ hai thế giới đã không còn sự thần kỳ
đáng kinh ngạc như cuối những năm 1970, tuy nhiên Nhật Bản vẫn là cường
quốc kinh tế thế giới đáng khâm phục về mọi mặt, nhất là về tài chính.
Trong khi, Nhật Bản cho nước ngoài vay 1 nghìn tỷ USD thì Mỹ lại nợ nước
ngoài 1 tỷ USD. Do đó, mô hình Nhật Bản vẫn cần được nghiên cứu và khám
phá. Bài học thành công hay chưa thành công của mô hình kinh tế Nhật
Bản vẫn là một điều cần tìm hiểu sâu kỹ để phục vụ cho chiến lược công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam vì Việt Nam và Nhật Bản có rất
nhiều nét tương đồng về truyền thống, lịch sử, con người, văn hoá.
TS. Hoàng Thị Minh Hoa
Trường Đại học Khoa học Huế
(Lược trích từ Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 1 - 2003)