Thứ Năm, 7 tháng 7, 2011

Sự vươn lên của Trung Quốc và tương lai của phương Tây

Trên tạp chí Đối ngoại, Giáo sư John Ikenberry cho rằng: Sự cất cánh của Trung Quốc chắc chắn sẽ đưa vị thế đơn cực của Hoa Kỳ đi tới hồi kết. Nhưng điều đó không nhất thiết phải là một cuộc chiến tranh giành quyền lực hay là sự đổ vỡ của hệ thống Phương Tây. Trật tự quốc tế do Hoa Kỳ dẫn đầu vẫn có thể tiếp tục chi phối thậm chí ngay cả khi hội nhập thêm một thành viên đầy quyền lực là Trung Quốc – nhưng chỉ khi Washington bắt tay vào củng cố hơn nữa hệ thống tự do này ngay bây giờ.  
Phần 1
Sự vươn lên của Trung Quốc chắc chắn một trong những kịch bản lớn nhất của thế kỷ 21. Tăng trưởng kinh tế thần kỳ và chính sách đối ngoại chủ động của Trung Quốc đã và đang làm biến đổi Đông Á, và trong những thập kỷ tiếp theo thậm chí thế giới sẽ còn được thấy sự tăng cường hơn nữa về quyền lực và tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. Nhưng chính xác thì kịch bản này sẽ diễn ra như thế nào thì vẫn là một câu hỏi mở. Liệu Trung Quốc sẽ phá vỡ trật tự đang tồn tại hay sẽ trở thành một phần của trật tự đó? Và nếu có thì Mỹ có thể làm gì để duy trì vị thế của mình trước một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh? Một số nhà quan sát cho rằng kỷ nguyên của Hoa Kỳ đang dần kết thúc, và trật tự thế giới nghiêng về phương Tây đang dần bị thay thế bởi một trật tự do phương Đông thống trị. Nhà sử học Niall Ferguson đã viết rằng thế kỷ hai mươi đẫm máu đã chứng kiến “sự xuống dốc của Phương Tây” và “sự thay đổi quan điểm của thế giới” hướng về phương Đông. Những người theo thuyết duy thực vẫn tiếp tục nhấn mạnh rằng khi Trung Quốc nắm trong tay nhiều quyền lực hơn và vị thế của Hoa Kỳ yếu dần đi, thì có hai điều chắc chắn sẽ xảy ra: Trung Quốc sẽ cố gắng sử dụng tầm ảnh hưởng ngày càng mạnh để định hình lại những quy tắc và thể chế của hệ thống quốc tế nhằm phục vụ tốt hơn cho những lợi ích của họ, và các quốc gia khác trong hệ thống – đặc biệt là những cường quốc bá chủ một thời – sẽ bắt đầu coi Trung Quốc như một mối quan ngại an ninh đang lớn dần. Họ cũng dự đoán rằng kết quả của quá trình phát triển này là tình trạng căng thẳng, ngờ vực và xung đột - những đặc điểm điển hình của quá trình chuyển đổi quyền lực. Trong viễn cảnh đó, kịch bản về sự vươn lên của Trung Quốc sẽ khắc hoạ một Trung Quốc ngày càng hùng mạnh và một Hoa Kỳ đang tụt dốc và kẹt trong một trận chiến thiên anh hùng ca trước những quy tắc và vai trò lãnh đạo hệ thống quốc tế. Và khi quốc gia lớn nhất thế giới nổi lên không phải từ bên trong mà là từ bên ngoài trật tự quốc tế đã được thiết lập sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, thì đó là một màn kịch sẽ kết thúc với quyền lực vĩ đại của Trung Quốc và sự khởi đầu hoành tráng của một trật tự thế giới mà châu Á là trung tâm. Tuy nhiên quá trình trên không phải là không thể tránh khỏi. Sự cường thịnh của Trung Quốc không nhất thiết phải gây ra sự chuyển đổi quyền lực méo mó. Chuyển đổi quyền lực giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể rất khác so với những lần chuyển đổi trong quá khứ, bởi vì Trung Quốc đang phải đối mặt với một trật tự quốc tế khác biệt về căn bản so với trật tự mà các quốc gia từng ở vị trí như Trung Quốc phải đối mặt trước đây. Trung Quốc không chỉ phải đối mặt với Hoa Kỳ; mà còn phải đối mặt với một hệ thống lấy phương Tây làm trung tâm, mở, hội nhập, có nguyên tắc, với những nền tảng chính trị sâu rộng. Trong khi đó cuộc cách mạng hạt nhân đã khiến cuộc chiến giữa những đế quốc hùng mạnh sẽ không xảy ra – loại bỏ công cụ chính mà các cường quốc đang lên từng sử dụng để đảo lộn những hệ thống quốc tế nằm dưới sự che chắn của những cường quốc vang bóng một thời. Tóm lại, trật tự Phương Tây ngày nay rất khó phá vỡ nhưng lại dễ gia nhập. Bản thân cái trật tự tồn tại một cách bất thường và đang mở rộng này chính là sản phẩm của đường lối lãnh đạo Hoa Kỳ nhìn xa trông rộng. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Hoa Kỳ không chỉ đơn giản tạo lập cho bản thân trở thành một cường quốc quyền lực hàng đầu. Quốc gia này còn dẫn đầu quá trình xây dựng những thể chế chung không chỉ lôi kéo sự góp mặt của các thành viên toàn cầu mà còn đưa chế độ dân chủ và xã hội thị trường lại gần nhau hơn. Hoa Kỳ đã xây dựng lên một trật tự thúc đẩy sự tham gia và hội nhập của cả những cường quốc lão làng và cả những quốc gia độc lập non trẻ. (Người ta thường quên mất rằng trật tự trong thời hậu chiến này được tạo ra với mục đích chính là để khôi phục lại trục Berlin - Rome - Tokyo bại trận và để đưa khối các quốc gia Liên minh đang bị bao vây vào một hệ thống quốc tế thống nhất). Ngày nay, Trung Quốc có thể tiếp cận và phát triển thịnh vượng trong hệ thống này. Và nếu như vậy, Trung Quốc sẽ cất cánh, còn trật tự Phương Tây, nếu điều phối hợp lý, sẽ tiếp tục tồn tại. Khi phải đối mặt với một Trung Quốc đang lên, Hoa Kỳ cần phải ghi nhớ rằng vai trò lãnh đạo của họ trong trật tự phương Tây cho phép bản thân quốc gia này thiết lập nên một môi trường trong đó Trung Quốc sẽ thực hiện sự lựa chọn chiến lược then chốt. Nếu muốn gìn giữ được vai trò lãnh đạo này, Hoa Kỳ cần phải củng cố các quy tắc và thể chế là cơ sở cho trật tự này – làm cho nó trở lên dễ hòa nhập hơn nhưng khó phá bỏ hơn. Chiến lược quan trọng này của Hoa Kỳ cần phải được xây dựng dựa trên phương châm “Đường tới phương Đông phải đi qua phương Tây”. Hoa Kỳ cần phải nhấn chìm gốc rễ của trật tự này càng sâu càng tốt, làm cho Trung Quốc có động lực gia nhập lớn hơn là phá bỏ và làm tăng cơ hội “sống sót” cho hệ thống dù quyền lực của Hoa Kỳ đang dần bị suy giảm. “Vị thế đơn cực” của Hoa Kỳ sẽ kết thúc là điều không thể tránh khỏi. Nếu cuộc chiến nổi bất của thế kỷ 21 là giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, thì Trung Quốc sẽ có lợi thế. Nếu cuộc chiến nổi bật của thế kỷ 21 là giữa Trung Quốc và một hệ thống phương Tây được khôi phục, thì Phương Tây sẽ chiến thắng. NHỮNG QUAN NGẠI CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Trung Quốc đang vững bước trên con đường trở thành một cường quốc hùng mạnh toàn cầu. Quy mô của nền kinh tế quốc gia này đã tăng gấp bốn lần kể từ khi cải cách thị trường bắt đầu vào cuối những năm 1970, và theo như ước tính, còn có thể tăng gấp đôi trong thập kỷ tới. Trung Quốc đã trở thành một trong những trung tâm sản xuất chính trên thế giới và tiêu thụ xấp xỉ một phần ba nguồn cung sắt, thép và than toàn cầu. Quốc gia này đã tích lũy được một lượng dự trữ ngoại hối khổng lồ, trị giá hơn 1 nghìn tỉ USD vào thời điểm cuối năm 2006. Chi dùng cho quân đội Trung Quốc đã tăng ở mức tỉ lệ điều chỉnh theo lạm phát là hơn 18% một năm, và chính sách ngoại giao được mở rộng không chỉ ở châu Á mà còn cả châu Phi, Mỹ Latinh và Trung Đông. Thực tế, nếu Liên Xô trước đây chỉ qua mặt Hoa Kỳ chỉ trên phương diện đối thủ cạnh tranh về quân sự, thì Trung Quốc đang nổi lên ở cả mặt quân sự và kinh tế - báo trước một sự chuyển đổi sâu sắc trong quá trình phân bổ quyền lực toàn cầu. Quá độ quyền lực là một vấn đề có tính chất chu kỳ trong các mối quan hệ quốc tế. Như các học giả Paul Kennedy và Robert Gilpin từng mô tả, thì nền chính trị thế giới được đánh dấu bởi sự kế vị của các quốc gia quyền lực nổi lên để tổ chức hệ thống quốc tế. Một quốc gia quyền lực có thể tạo ra và thúc đẩy những quy tắc và thể chế của một trật tự toàn cầu ổn định nhằm theo đuổi lợi ích và an ninh của mình. Nhưng không gì có thể tồn tại mãi mãi: những thay đổi trong dài hạn của quá trình phân bổ quyền lực đem cơ hội đến cho những quốc gia thách thức mới – là những người châm ngòi cho cuộc chiến phá bỏ trật tự quốc tế đang tồn tại. Những quốc gia nổi lên muốn biến quyền lực mới giành được thành một thế lực mạnh hơn trong hệ thống toàn cầu, để “viết lại” những quy tắc và thể chế nhằm phục vụ lợi ích của riêng họ. Những quốc gia đang đi xuống, ngược lại, lại lo bị mất khả năng kiểm soát, và quan ngại về những nguy cơ an ninh bắt nguồn từ vị thế yếu kém của họ. Những “giây phút chuyển đổi" này chứa đựng rất nhiều nguy hiểm. Khi một quốc gia chiếm giữ vị trí chỉ huy trong hệ thống quốc tế, thì bản thân quốc gia này hay những quốc gia yếu thế hơn đều không có động lực thay đổi trật tự đang tồn tại. Nhưng khi quyền lực của một quốc gia muốn thách thức cả thế giới ngày một lớn mạnh và quyền lực của quốc gia cầm đầu yếu đi, thì kéo theo đó là nguy cơ  một cuộc tranh giành quyền lực, thậm chí có thể dẫn tới chiến tranh. Sự nguy hiểm trong quá trình quá độ quyền lực xảy ra đột ngột nhất là trường hợp của Đức vào cuối thế kỷ 19. Năm 1870, Vương quốc Anh có lợi thế về sức mạnh kinh tế gấp ba lần Đức và một lợi thế đáng kể về quân đội; tới năm 1903, Đức đã vượt mặt Anh cả về sức mạnh kinh tế và quyền lực quân đội. Khi Đức thống nhất và phát triển, quốc gia này dần thể hiện sự bất mãn và nhu cầu ngày càng lớn, và khi quốc gia này ngày càng phát triển cường thịnh hơn, nó ngày càng trở thành mối đe dọa đối với những cường quốc khác ở châu Âu, thì cạnh tranh an ninh bắt đầu. Trong quá trình thực hiện tái tổ chức chiến lược, Pháp, Nga và Anh, những địch thủ một thời, đã ngồi lại với nhau để cùng tìm cách đối phó lại một nước Đức đang nổi lên. Kết quả chính là cuộc chiến tranh châu Âu. Nhiều nhà quan sát đã thấy động lực tương tự nổi lên trong mối quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc. Học giả duy thực Jonh Mearsheimer đã viết: “Nếu Trung Quốc tiếp tục sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong một vài thập niên tới, Hoa Kỳ và Trung Quốc chắc chắn sẽ cùng tham gia vào một cuộc cạnh tranh an ninh khốc liệt với tiềm năng là một cuộc chiến tranh”. Nhưng không phải tất cả các cuộc quá độ quyền lực đều có kết cục là chiến tranh hay phá bỏ trật tự cũ. Trong những thập kỷ đầu thế kỷ hai mươi, Vương quốc Anh đã nhường lại chủ quyền cho Hoa Kỳ mà không hề có xung đột lớn hay thậm chí một sự rạn nứt trong quan hệ. Từ cuối những năm 1940 đến đầu những năm 1990, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng từ mức chỉ tương đương với 5% GDP của Hoa Kỳ tới mức tương đương hơn 60% GDP của Hoa Kỳ, nhưng Nhật Bản vẫn chưa bao giờ thách thức trật tự quốc tế đang tồn tại. Rõ ràng là có rất nhiều loại hình quá độ quyền lực khác nhau. Một số quốc gia đã chứng kiến nền kinh tế và quyền lực địa chính trị của họ phát triển nhanh chóng và vẫn điều chỉnh bản thân cho phù hợp với trật tự đang tồn tại. Một số khác lại đang vươn lên và tìm cách thay đổi trật tự này. Một số quá trình quá độ quyền lực đã dẫn tới sự phá vỡ trật tự cũ và thiết lập lên một trật tự quốc tế mới. Những quốc gia còn lại chỉ đóng góp những điều chỉnh hạn chế vào hệ thống toàn cầu và khu vực. Có rất nhiều nhân tố quyết định cách thức tiến hành chuyển giao quyền lực. Bản chất chế độ của quốc gia đang lên và mức độ bất mãn với trật tự cũ có tính chất quyết định: cuối thế kỷ 19, Hoa Kỳ, một quốc gia tự do, cách châu Âu một đại dương, có thể đi theo trật tự quốc tế lấy Anh quốc làm trọng tâm tốt hơn Đức. Nhưng điều quyết định hơn cả chính  là đặc tính của bản thân trật tự quốc tế - vì chính bản chất của trật tự quốc tế sẽ quyết định sự lựa chọn của một quốc gia đang lên giữa thách thức trật tự đó và hội nhập với nó. Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc Bạc Hy Lai (phải) bắt tay Cao ủy Thương mại của EU Peter Mandelson tại lễ ký Thỏa thuận thương mại may mặc Trung Quốc - EU ở Thượng Hải tháng 6/2005: Trung Quốc cũng đang trở thành đối tác quan trọng của châu Âu. Ảnh: AP/Tân Hoa xã MỘT TRẬT TỰ MỞ Về mặt lịch sử, trật tự phương Tây thời hậu chiến là độc nhất vô nhị. Bất kỳ trật tự quốc tế nào do một quốc gia quyền lực nắm giữ đều dựa trên nền tảng là sự pha trộn giữa tình trạng bị ép buộc và sự nhất trí, nhưng trật tự do Hoa Kỳ đứng đầu là một trật tự đặc biệt ở chỗ nó mang tính chất tự do hoa hơn là cưỡng bức phải tuân theo – và vì vậy khả năng tiếp cận, tính xác thực và khả năng tồn tại lâu dài cũng đặc biệt. Các quy tắc và thể chế của trật tự này có nguồn gốc vững chắc và vì vậy được củng cố bởi các lực lượng toàn cầu của nền dân chủ và chủ nghĩa tư bản đang phát triển. Nó đang mở rộng với số lượng quốc gia tham gia rộng rãi và ngày càng mở rộng. Trật tự này có khả năng tạo ra tăng trưởng kinh tế và quyền lực cực kỳ lớn đồng thời cũng có dấu hiệu của sự gò bó – tất cả những đặc tính này khiến cho trật tự này khó bị phá vỡ và dễ gia nhập. Mục đích rõ ràng của những kiến trúc sư sáng tạo ra trật tự Phương Tây trong những năm 1940 là làm cho trật tự này có tính hội nhập và mở rộng. Trước khi cuộc Chiến tranh lạnh chia thế giới thành những phe phái đua tranh, Franklin Roosevelt đã cố gắng tìm cách sáng tạo ra một hệ thống chung cho thế giới vận hành bằng sự hợp tác giữa các cường quốc, để tái thiết châu Âu bị chiến tranh tàn phá, hội nhập những quốc gia bại trận, và xây dựng lên những cơ chế hợp tác an ninh và tăng trưởng kinh tế mở rộng. Trên thực tế, chính Roosevelt là người đã hối thúc rằng - (đối lập với Winston Churchill) - Trung Quốc nên được kết nạp làm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc. Vị đại sứ Australia ở Hoa Kỳ lúc đó đã viết trong nhật ký của ông sau chuyến thăm Roosevelt đầu tiên trong thời gian chiến tranh, “Ông ấy nói rằng ông đã thảo luận rất nhiều với Winston về Trung Quốc và rằng ông cảm thấy sự nhìn nhận của Winston về Trung Quốc đã bị tụt lùi 40 năm khi Winston tiếp tục coi người Trung Quốc là “tiền xu” và “những nhà buôn đồ sứ” và Roosevelt cảm thấy rằng lối nhìn nhận này là rất nguy hiểm. Ông muốn giữ Trung Quốc như một người bạn bởi trong khoảng thời gian 40 hay 50 năm, Trung Quốc có thể dễ dàng trở thành một cường quốc quân sự rất hùng mạnh”. Trong nửa thế kỷ tiếp theo, Hoa Kỳ đã sử dụng hệ thống quy tắc và thể chế nó xây dựng lên một cách rất hiệu quả. Đông Đức đã xây dựng mối quan hệ với những người hàng xóm Tây Âu dân chủ thông qua Cộng đồng than và thép châu Âu (sau này là Cộng đồng châu Âu) và với Hoa Kỳ thông qua Hiệp ước an ninh Đại Tây Dương; Nhật Bản quan hệ với Hoa Kỳ thông qua hiệp hội đồng minh và mở rộng quan hệ kinh tế. Hội nghị Bretton Woods năm 1944 đã đưa ra những quy định về tiền tệ và thương mại thúc đẩy xu hướng mở cửa và sự thịnh vượng của nền kinh tế toàn cầu – một kết quả đáng kinh ngạc khi xét đến hậu quả của cuộc chiến tranh và sự xung đột về lợi ích giữa các cường quốc. Những cam kết ngoài lề giữa Hoa Kỳ, Tây Âu và Nhật Bản đã củng cố thêm xu hướng mở cửa và đặc tính đa phương của nền kinh tế thế giới thời kỳ hậu chiến. Sau khi cuộc Chiến tranh lạnh bắt đầu nổ ra, Kế hoạch Marshall tại châu Âu và hiệp ước an ninh năm 1951 giữa Hoa Kỳ và Nhật bản đã thúc đẩy hơn nữa sự hội nhập của các cường quốc trong trục liên minh Berlin – Tokyo - Roma vào trật tự phương Tây. Có ba đặc điểm đặc biệt của trật tự phương Tây đã tạo nên thành công và sự trường tồn cho trật tự này. Trước hết, không giống như những hệ thống cưỡng chế trước đây, trật tự phương Tây được xây dựng với những quy tắc và quy phạm không phân biệt đối xử và mở cửa thị trường, tạo điều kiện cho quá trình cất cánh của các quốc gia để nâng cao các mục tiêu chính trị và mở rộng kinh tế của các quốc gia này trong khuôn khổ của trật tự. Qua lịch sử, các trật tự quốc tế rất khác nhau xét về khía cạnh các lợi ích thực dụng được tạo ra một cách không cân xứng chỉ phục vụ cho quốc gia đi đầu hay lợi ích này được chia sẻ một cách rộng rãi. Trong hệ thống phương Tây, các rào cản gia nhập kinh tế rất thấp và các lợi ích tiềm năng rất cao. Trung Quốc đã khám phá ra rằng tạo lập thành quả kinh tế trên quy mô lớn là hoàn toàn có thể bằng cách vận hành trong hệ thống thị trường mở này. Thứ hai là đặc tính lãnh đạo dựa trên mối quan hệ liên minh. Các trật tự trước đây đều có xu hướng bị thống trị bởi một cường quốc duy nhất. Những thành viên của trật tự phương Tây hiện thời bao gồm một khối liên minh các quốc gia xếp quanh Hoa Kỳ. Những quốc gia đi đầu này không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau nhưng họ cùng tham gia vào một quá trình diễn tiến cho và nhận về mặt kinh tế, chính trị và an ninh. Sự quá độ về quyền lực điển hình thường thấy là cuộc chơi giữa hai quốc gia, một quốc gia đang lên và một bá chủ đang đi xuống, và trật tự sẽ đổ vỡ ngay khi sự cân bằng quyền lực chuyển đổi. Nhưng trong trật tự hiện thời, phần lớn hơn của các quốc gia tư bản dân chủ - và thành quả tích lũy của quyền lực địa chính trị - chuyển đổi sự cân bằng quyền lực theo lợi ích của trật tự. Thứ ba, trật tự phương Tây thời hậu chiến có một hệ thống các quy tắc và thể chế đặc biệt dày đặc, hoàn thiện, và được thống nhất rộng rãi. Cho dù vẫn tồn tại khuyết điểm, nhưng trật tự này rõ ràng mở và có nguyên tắc hơn hẳn bất kỳ trật tự nào trước nó. Chủ quyền quốc gia và quy định pháp luật không chỉ là những quy phạm “cất giữ” trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Chúng là một phần trong lô-gic vận hành sâu xa của trật tự. Để đảm bảo điều này, những quy phạm này đang ngày càng được phát triển, và bản thân Hoa Kỳ đã tự ràng buộc theo luật pháp và thể chế quốc tế và chưa bao giờ tuân thủ đúng như ngày nay. Nhưng toàn thể hệ thống dày đặc với những thể chế và quy tắc đa phương – liên quan tới toàn cầu và khu vực, kinh tế, chính trị và an ninh. Đây là những mặt đại diện cho một trong những tiến bộ vượt bậc của kỷ nguyên hậu chiến. Chúng đã tạo ra nền tảng cho những mức độ hợp tác và chia sẻ quyền lực thống trị theo hệ thống toàn cầu chưa từng xảy ra trong lịch sử. Những lợi thế khuyến khích mà những đặc điểm nổi bật trên tạo ra cho Trung Quốc để hội nhập với trật tự quốc tế tự do đã được bản chất thay đổi của môi trường kinh tế quốc tế củng cố thêm, đặc biệt là sự phụ thuộc lẫn nhau mới do công nghệ thúc đẩy. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc nhìn xa trông rộng nhất hiểu rằng toàn cầu hóa đã làm thay đổi cuộc chơi và theo đó, Trung Quốc cần những đối tác hùng mạnh, thịnh vượng trên toàn thế giới. Theo tầm nhìn của Hoa Kỳ thì một nền kinh tế Trung Quốc khỏe mạnh là cần thiết cho Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới. Cuộc cách mạng công nghệ và kinh tế toàn cầu đã tạo ra một chuỗi lôgic các mối quan hệ kinh tế hoàn toàn khác biệt với những gì từng có trong quá khứ - làm cho lôgic chính trị và thể chế của trật tự hiện thời hùng mạnh hơn bao giờ hết
 Phần 2
Sự cất cánh của Trung Quốc không nhất thiết phải dẫn tới một cuộc “đụng độ nảy lửa” với Hoa Kỳ về các quy tắc và vai trò lãnh đạo toàn cầu. Và điều quan trọng nhất mà các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ cần ghi nhớ là Trung Quốc có thể bắt kịp một Hoa Kỳ đơn lẻ, nhưng chắc chắn Trung Quốc sẽ không thể bắt kịp nổi cả một trật tự phương Tây. Phần 2 bài viết của Giáo sư John Ikenberry trên tạp chí Đối ngoại.   GIANG TAY CHÀO ĐÓN Lợi ích quan trọng nhất của những đặc điểm này hiện nay đó là chúng mang tới cho trật tự phương Tây một khả năng đáng kể để “mời chào” những cường quốc đang lên. Những cường quốc mới gia nhập hệ thống có rất nhiều cách để dành vị thế và quyền lực cũng như cơ hội để đóng vai trò điều hành trật tự. Thực tế là việc Hoa Kỳ, Trung Quốc và những cường quốc khác có vũ khí hạt nhât cũng hạn chế khả năng thách thức của một cường quốc đang lên muốn lật đổ trật tự đang tồn tại. Trong kỷ nguyên hạn chế vũ khí hạt nhân, may mắn thay là cuộc chiến tranh giữa các cường quốc từ lâu đã không còn là một cơ chế thay đổi lịch sử. Sự thay đổi do chiến tranh gây ra đã bị thủ tiêu theo tiến trình lịch sử. Khung quy định và thể chế hùng mạnh của trật tự phương Tây đã bắt đầu thúc đẩy quá trình hội nhập của Trung Quốc. Ban đầu, Trung Quốc tuân theo các quy định và thể chế nhất định vì những mục đích tự bảo vệ: bảo vệ chủ quyền và những lợi ích kinh tế đồng thời tìm cách đảm bảo với các quốc gia khác về mục đích hòa bình của mình thông qua việc tham gia vào các nhóm liên minh khu vực và toàn cầu. Nhưng như học giả Marc Langteigne nhận xét, “Thứ đang chia rẽ Trung Quốc với các quốc gia khác, và giữa những cường quốc toàn cầu trước đó, không chỉ là do quốc gia này “đang lớn mạnh” trong khuôn khổ thể chế quốc tế phát triển xa hơn bất cứ lúc nào, mà quan trọng hơn cả đó là Trung Quốc đang lớn mạnh trong khi chủ động tận dụng những thể chế này để thúc đẩy sự phát triển vị thế cường quốc toàn cầu của quốc gia này”. Tóm lại, Trung Quốc đang ngày càng có khuynh hướng hoạt động trong khuôn khổ chứ không phải là bên ngoài trật tự phương Tây. Trung Quốc đã là thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, di sản của sự quyết tâm của Roosevelt nhằm xây dựng một cơ quan toàn diện xung quanh đường lối lãnh đạo của nhiều cường quốc. Quyết định này mang tới cho Trung Quốc quyền lực và lợi thế “đặc quyền cường quốc” tương đương những thành viên thường trực khác. Hệ thống thương mại toàn cầu hiện thời cũng rất có giá trị đối với Trung Quốc, và giá trị này đang ngày càng gia tăng. Những lợi ích kinh tế của Trung Quốc tương đối đồng dạng với hệ thống kinh tế toàn cầu hiện thời – một hệ thống mở và được thể chế hóa tương đối lỏng lẻo – và Trung Quốc đã nhiệt tình nắm bắt và lớn mạnh. Quyền lực quốc gia ngày nay xét cho cùng đều dựa sự tăng trưởng kinh tế ổn định và Trung Quốc nhận thức rõ rằng không một cường quốc nào có thể hiện đại hóa mà không hội nhập với hệ thống tư bản toàn cầu hóa; nếu một quốc gia muốn trở thành một cường quốc thế giới, nó không có sự lựa chọn nào khác là gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Con đường đi tới quyền lực toàn cầu, muốn hiệu quả, luôn phải đi qua trật tự phương Tây và các thể chế kinh tế đa phương. Trung Quốc không chỉ cần tiếp tục tiếp cận hệ thống tư bản toàn cầu, Trung Quốc còn muốn đảm bảo rằng những quy tắc và thể chế của hệ thống được thực thi. Ví dụ như, những nguyên tắc thương mại đa phương và những cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đều mang đến cho Trung Quốc công cụ để được bảo vệ trước những nguy cơ về phân biệt đối xử và chủ nghĩa bảo hộ mà những cường quốc kinh tế đang lên thường phải đương đầu. Sự tiến triển trong chính sách của Trung Quốc cho thấy các lãnh đạo Trung Quốc đã nhận ra những lợi thế này: với việc Bắc Kinh ngày càng tham gia nhiều hơn vào sự tự do hóa kinh tế giúp họ tăng đầu tư nước ngoài và góp phần quan trọng cho sự phát triển thương mại, thì Trung Quốc cũng đang nắm bắt nhiều hơn các quy tắc thương mại toàn cầu. Có thể là khi Trung Quốc trở thành nhà vô địch trong WTO, sự hỗ trợ của các nền kinh tế phương Tây trưởng thành hơn cho WTO sẽ dần suy yếu. Nhưng chắc chắn rằng cả những quốc gia đang lên cũng như đang xuống sẽ tìm thấy giá trị trong những cơ chế gần như có tính pháp luật cho phép các xung đột được giải quyết hoặc ít nhất được thông tin. Các thể chế kinh tế quốc tế hiện thời cũng tạo cơ hội cho những cường quốc mới nổi có thể đi lên theo thứ tự. Tại Qũy tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (World Bank), điều hành phải dựa trên những phần đóng góp kinh tế, điều mà các quốc gia đang lên coi là cơ hội để có tiếng nói lớn hơn trong thể chế. Để đảm bảo, quá trình điều chỉnh phải được tiến hành thận trọng và chậm rãi. Hiện tại Hoa Kỳ và châu Âu vẫn giữ vai trò chi phối IMF. Hoa Kỳ chiếm 17% số phiếu (giảm từ 30%) - một số phiếu đủ để kiểm soát, vì 85% số phiếu tán thành là đủ cho một quyết định – còn Liên minh châu Âu thì có tiếng nói nặng ký trong việc bổ nhiệm 10 trong số 24 thành viên của ban quản trị. Nhưng vẫn có những áp lực ngày càng tăng, đáng chú ý là nhu cầu tài nguyên và nhu cầu duy trì sự cân bằng, điều đó chắc chắn sẽ thuyết phục được các quốc gia phương Tây thừa nhận Trung Quốc vào nội bộ các thể chế điều hành kinh tế này. Ví dụ như các cổ đông hiện tại của IMF nhìn thấy vai trò ngày càng lớn đối với các quốc gia đang phát triển là cần thiết phải làm mới thể chế và vượt qua những cuộc khủng hoảng hiện tại về nhiệm vụ. Trong cuộc họp của IMF tổ chức tại Singapore tháng 9/2006, họ đã nhất trí rằng cải cách sẽ đem lại cho Trung Quốc, Mexico, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ một tiếng nói lớn hơn. Khi Trung Quốc thoát khỏi vị thế của một quốc gia đang phát triển (và vì thế thoát khỏi vị thế khách hàng của những thế chế này), Trung Quốc sẽ ngày càng có khả năng hành động như một khách hàng quen thuộc và một cổ đông. Vai trò lãnh đạo trong những tổ chức này không đơn giản chỉ là phản ánh quy mô nền kinh tế (Hoa Kỳ vẫn duy trì quyền biểu quyết trong IMF cho dù trọng lượng nền kinh tế nước này đang giảm dần); tuy vậy, sự tiến bộ lũy tiến trong nội bộ những tổ chức này sẽ tạo ra cơ hội quan trọng cho Trung Quốc. CHUYỂN GIAO QUYỀN LỰC VÀ ĐỔI THAY ÊM Ả Theo những lập luận trên, sự cất cánh của Trung Quốc không nhất thiết phải dẫn tới một cuộc “đụng độ nảy lửa” với Hoa Kỳ về các quy tắc và vai trò lãnh đạo toàn cầu. Trật tự phương Tây có tiềm năng biến cuộc chuyển đổi quyển lực sắp tới thành một sự thay đổi êm ả theo hướng có lợi cho Hoa Kỳ. Nhưng điều đó chỉ xảy ra nếu Hoa Kỳ bắt đầu củng cố trật tự hiện thời. Ngày nay, khi Washington luôn bận bịu với khủng bố và chiến tranh ở Trung Đông, thì việc xây dựng lại các quy tắc và thể chế Phương Tây có thể chỉ là một ghi chú ngoài lề. Nhiều quan chức trong ban lãnh đạo chính quyền Bush đã thể hiện thái độ phản đối rõ ràng với hệ thống dựa trên quy tắc, có tính chất đa phương mà Hoa Kỳ đã xây dựng lên và dẫn đầu. Thái độ thù địch này thật ngớ ngẩn và nguy hiểm. Trung Quốc sẽ trở lên quyền lực: nó đã và đang vươn lên, và vũ khí chiến lược quyền năng nhất của Hoa Kỳ chính là khả năng quyết định kiểu trật tự quốc tế nào sẽ được dùng để đón nhận Trung Quốc. Hoa Kỳ cần phải tái đầu tư vào trật tự Phương Tây, củng cố những đặc điểm của trật tự để khuyến khích sự tham gia, hội nhập và ràng buộc. Trật tự này càng ràng buộc những quốc gia dân chủ tư bản chặt chẽ hơn theo những thể chế nền tảng sâu sắc, thì nó càng mở, càng liên ứng và càng có nguyên tắc hơn. Và khi những lợi ích của trật tự này càng lan rộng, thì chắc chắn các quốc gia đang lên có thể và sẽ đảm bảo được những lợi ích quốc gia thông qua hội nhập và thích nghi hơn là thông qua chiến tranh. Và nếu hệ thống phương Tây đưa ra những quy tắc và thể chế có lợi cho tất cả các quốc gia – cả đang lên và đang xuống, yếu và mạnh, mới nổi và trưởng thành – thì địa vị thống trị của nó như một trật tự quốc tế sẽ luôn được đảm bảo. Việc trước tiên mà Hoa Kỳ cần phải làm là tái thiết lập bản thân như một nhà bảo trợ trước nhất của hệ thống điều hành toàn cầu làm cơ sở cho trật tự phương Tây. Làm như vậy trước hết sẽ thúc đẩy cách giải quyết vấn đề mang tính tập thể, làm cho mọi quốc gia đều phát triển. Đồng thời, khi các quốc gia khác thấy Hoa Kỳ sử dụng quyền lực của mình để củng cố những quy tắc và thể chế hiện thời, quyền lực đó sẽ được đền đáp chính đáng hơn – và chính quyền Hoa Kỳ sẽ càng mạnh hơn. Các quốc gia khác ở phương Tây đang dần có xu hướng hòa nhập thay vì chống lại quyền lực của Hoa Kỳ, điều đó sẽ củng cố vị thế trung tâm và thống trị của bản thân phương Tây. Ngoài ra, làm mới các quy tắc và thể chế phương Tây sẽ đòi hỏi sự cập nhật những giao kèo cũ vốn là nền tảng cho những hiệp ước an ninh hậu chiến quan trọng. Sự đồng thuận chiến lược đằng sau cả NATO và những đồng minh Đông Á của Washington là Hoa Kỳ sẽ hợp tác với các đồng minh để đảm bảo an ninh và liên kết họ trong những quyết định sử dụng các lực lượng, và ngược lại các đồng minh của Hoa Kỳ sẽ hoạt động trong khuôn khổ trật tự phương Tây do Hoa Kỳ đứng đầu. Hợp tác an ninh ở phương Tây ngày nay vẫn đang tiếp tục mở rộng, nhưng với những nguy cơ an ninh chính không rõ ràng như trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, thì mục đích và trách nhiệm của những đồng minh này lại trở thành đề tài tranh cãi. Theo đó, Hoa Kỳ cần phải khẳng định lại giá trị chính trị của các đồng minh này – thừa nhận họ là một phần của một kiến trúc thể chế Phương Tây mở rộng hơn cho phép các quốc gia có thể giao thương với nhau. Tổng thống Mỹ George W.Bush bắt tay Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào: Đón nhận Trung Quốc và các quốc gia đang lên vào trật tự phương Tây, chính Mỹ cũng có lợi. Ảnh: Nhân dân nhật báo Hoa Kỳ cũng cần phải làm mới sự ủng hộ của mình đối với những thể chế đa phương rộng rãi. Trên bình diện kinh tế, điều này sẽ bao hàm cả việc xây dựng những thỏa thuận  và cơ cấu của WTO, bao hàm cả việc theo đuổi những nỗ lực hòan thành Vòng đàm phán thương mại Doha để tìm cách mở rộng các cơ hội thị trường và tự do hóa thương mại cho các nước đang phát triển. WTO đang ở gian đoạn quyết định. Quy chuẩn cơ bản về việc không phân biệt đối xử đang bị đe dọa bởi sự gia tăng của những thỏa thuận thương mại khu vực và song phương. Trong khi đó, người ta ngày càng nghi ngờ về việc liệu WTO trong thực tế có thể tiếp tục tiến hành tự do hóa thương mại hay không, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp vốn là là lĩnh vực mang lại lợi nhuận cho nhiều quốc gia đang phát triển. Những vấn đề này dường như đang dần thu hẹp lại, nhưng tính căn bản của trật tự quốc tế tự do – cam kết của nó đối với những quy tắc toàn diện về sự cởi mở và phân chia lợi ích rỗng rãi - đang bị đe dọa. Những nghi ngờ tương tự cũng dành cho một loạt những thỏa thuận đa phương khác – về sự ấm lên toàn cầu và cấm phổ biến vũ khí hạt nhân – và vì thế chúng cũng đòi hỏi một vai trò lãnh đạo mới của Hoa Kỳ. Chiến lược này không chỉ đơn giản là đảm bảo trật tự phương Tây vẫn mở và có nguyên tắc. Nó cũng là để đảm bảo rằng trật tự đó không bị chia nhỏ thành một loạt những dàn xếp song phương và “thiểu phương”, làm cho Hoa Kỳ chỉ còn thắt chặt quan hệ với một số ít quốc gia chủ chốt trong mỗi khu vực. Trong một bối cảnh như vậy, Trung Quốc sẽ có cơ hội tự xây dựng cho mình một hệ thống các thỏa thuận song phương và “thiểu phương”. Kết quả là, thế giới sẽ bị chia thành những bán cầu cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Những mối quan hệ kinh tế và an ninh càng đa phương và hoàn thiện, thì hệ thống toàn cầu sẽ càng duy trì được sự liên kết chặt chẽ. Cùng với việc duy trì sự cởi mở và tính lâu bền của trật tự, Hoa Kỳ cần phải nỗ lực gấp đôi trong việc đón nhận các quốc gia đang phát triển vào các thể chế toàn cầu chính yếu. Đưa các quốc gia đang nổi lên vào hệ thống điều hành của trật tự quốc tế sẽ mang lại một cuộc sống mới cho chính bản thân Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và Châu Âu cần phải tìm chỗ tại bàn tiệc không chỉ cho riêng Trung Quốc, mà còn cho cả những quốc gia khác như Brazil, Ấn Độ và Nam Phi. Báo cáo của Goldman Sachs về những quốc gia BRICs (Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc) chỉ ra rằng tới năm 2050 tổng giá trị nền kinh tế của các quốc gia này có thể lớn hơn tổng giá trị nền kinh tế của khối các nước G6 trước đây (Đức, Pháp, Ý, Nhật Bản, Anh Quốc và Hoa Kỳ). Mỗi thể chế quốc tế đều có những thách thức riêng của nó. Có lẽ Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc là nơi khó đối phó nhất, nhưng tiến trình cải cách của cơ quan này cũng sẽ mang lại những kết quả vĩ đại nhất. Những cơ quan ít chính thống hơn, như G-20 và các mạng lưới liên chính phủ khác, cũng có thể mở ra những cách khác để nâng cao tiếng nói và vai trò của các quốc gia. CHIẾN THẮNG CỦA TRẬT TỰ TỰ DO Điều quan trọng nhất mà các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ cần ghi nhớ là Trung Quốc có thể bắt kịp một Hoa Kỳ đơn lẻ, nhưng chắc chắn Trung Quốc sẽ không thể bắt kịp nổi cả một trật tự phương Tây. Ví dụ như, xét về phương diện kinh tế, vào khoảng năm 2020, Trung Quốc sẽ vượt qua Hoa Kỳ để trở thành quốc gia lớn nhất trong hệ thống toàn cầu. (Nhờ lợi thế về dân số, Trung Quốc chỉ cần năng xuất bằng 1/5 của Hoa Kỳ là đã có thể trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới). Nhưng khi xét đến năng lực kinh tế của cả hệ thống phương Tây, thì những thành tựu kinh tế của Trung Quốc lại kém ấn tượng hơn; trong tương lai xa hơn thì nền kinh tế của Trung Quốc sẽ còn nhỏ bé hơn nhiều so với các nền kinh tế của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế hợp lại. Điều này thậm chí cũng đúng khi xét đến lĩnh vực quân sự: Trung Quốc không thể hy vọng nhanh chóng bắt kịp tổng mức chi tiêu quân sự của OECD. Thế giới dân chủ tư bản là một cử tri quyền lực ủng hộ cho sự bảo lưu - và thực tế là cả sự mở rộng - trật tự quốc tế hiện thời. Nếu Trung Quốc có ý định vươn lên và thách thức trật tự hiện thời, đó là một nhiệm vụ nặng nề hơn rất nhiều so với chỉ đơn giản là đối đầu với một mình Hoa Kỳ. “Vị thế đơn cực” cuối cùng cũng sẽ không còn. Sự thống trị của Hoa Kỳ cuối cùng cũng sẽ kết thúc. Khi đó, chiến lược lớn của Hoa Kỳ sẽ phải trả lời một câu hỏi quan trọng: Hoa Kỳ mong muốn loại trật tự quốc tế nào sẽ thay thế khi bản thân họ đang bớt dần quyền lực? Nhà triết học chính trị John Rawls đã cho rằng các thể chế chính trị nên được hình thành phía sau “bức màn của  sự ngu dốt” – có nghĩa là các kiến trúc sư nên xây dựng những thể chế như thể họ không hề biết chính xác những thể chế đó sẽ ở đâu trong một hệ thống kinh tế xã hội. Kết quả sẽ là một hệ thống đảm bảo lợi ích cho mỗi con người bất chấp người đó giàu hay nghèo, yếu hay mạnh. Hoa Kỳ nên áp dụng cách tiếp cận này đối với vai trò lãnh đạo của mình trong trật tự quốc tế hiện nay. Họ nên vận hành các thể chế và củng cố các quy tắc nhằm đảm bảo lợi ích của chính họ mình bất chấp họ ở đâu trong thứ tự hay bất chấp quyền lực sẽ được phân chia thế nào trong 10, 50 hay 100 năm nữa. May thay là đã có một trật tự như thế. Nhiệm vụ giờ đây là phải mở rộng và thể chế hoá trật tự này hơn nữa để Trung Quốc không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc trở thành một thành viên đầy đủ của trật tự này. Hoa Kỳ không thể cản trở sự lớn mạnh của Trung Quốc, nhưng nó có thể đảm bảo rằng quyền lực của Trung Quốc được thực thi trong khuôn khổ các quy tắc và thể chế mà Hoa Kỳ và các đồng minh đã xây dựng trong suốt một thế kỷ qua, những quy tắc và thể chế có thể bảo vệ lợi ích của tất cả các quốc gia trong một thế giới đông đúc hơn trong tương lai. Vị thế toàn cầu của Hoa Kỳ có thể suy yếu, nhưng hệ thống quốc tế mà Hoa Kỳ dẫn đầu vẫn có thể duy trì vai trò thống trị trong thế kỷ 21.