Trên tạp chí Đối ngoại, Giáo sư
John Ikenberry cho rằng: Sự cất cánh của Trung Quốc chắc chắn sẽ đưa vị
thế đơn cực của Hoa Kỳ đi tới hồi kết. Nhưng điều đó không nhất thiết
phải là một cuộc chiến tranh giành quyền lực hay là sự đổ vỡ của hệ
thống Phương Tây. Trật tự quốc tế do Hoa Kỳ dẫn đầu vẫn có thể tiếp tục
chi phối thậm chí ngay cả khi hội nhập thêm một thành viên đầy quyền lực
là Trung Quốc – nhưng chỉ khi Washington bắt tay vào củng cố hơn nữa hệ
thống tự do này ngay bây giờ.
Phần 1
Sự vươn lên của Trung Quốc chắc
chắn một trong những kịch bản lớn nhất của thế kỷ 21. Tăng trưởng kinh
tế thần kỳ và chính sách đối ngoại chủ động của Trung Quốc đã và đang
làm biến đổi Đông Á, và trong những thập kỷ tiếp theo thậm chí thế giới
sẽ còn được thấy sự tăng cường hơn nữa về quyền lực và tầm ảnh hưởng của
Trung Quốc. Nhưng chính xác thì kịch bản này sẽ diễn ra như thế nào thì
vẫn là một câu hỏi mở. Liệu Trung Quốc sẽ phá vỡ trật tự đang tồn tại
hay sẽ trở thành một phần của trật tự đó? Và nếu có thì Mỹ có thể làm gì
để duy trì vị thế của mình trước một Trung Quốc đang ngày càng lớn
mạnh? Một số nhà quan sát cho rằng kỷ nguyên của Hoa Kỳ đang dần kết
thúc, và trật tự thế giới nghiêng về phương Tây đang dần bị thay thế bởi
một trật tự do phương Đông thống trị. Nhà sử học Niall Ferguson đã viết
rằng thế kỷ hai mươi đẫm máu đã chứng kiến “sự xuống dốc của Phương
Tây” và “sự thay đổi quan điểm của thế giới” hướng về phương Đông. Những
người theo thuyết duy thực vẫn tiếp tục nhấn mạnh rằng khi Trung Quốc
nắm trong tay nhiều quyền lực hơn và vị thế của Hoa Kỳ yếu dần đi, thì
có hai điều chắc chắn sẽ xảy ra: Trung Quốc sẽ cố gắng sử dụng tầm ảnh
hưởng ngày càng mạnh để định hình lại những quy tắc và thể chế của hệ
thống quốc tế nhằm phục vụ tốt hơn cho những lợi ích của họ, và các quốc
gia khác trong hệ thống – đặc biệt là những cường quốc bá chủ một thời –
sẽ bắt đầu coi Trung Quốc như một mối quan ngại an ninh đang lớn dần.
Họ cũng dự đoán rằng kết quả của quá trình phát triển này là tình trạng
căng thẳng, ngờ vực và xung đột - những đặc điểm điển hình của quá trình
chuyển đổi quyền lực. Trong viễn cảnh đó, kịch bản về sự vươn lên của
Trung Quốc sẽ khắc hoạ một Trung Quốc ngày càng hùng mạnh và một Hoa Kỳ
đang tụt dốc và kẹt trong một trận chiến thiên anh hùng ca trước những
quy tắc và vai trò lãnh đạo hệ thống quốc tế. Và khi quốc gia lớn nhất
thế giới nổi lên không phải từ bên trong mà là từ bên ngoài trật tự quốc
tế đã được thiết lập sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, thì đó là một
màn kịch sẽ kết thúc với quyền lực vĩ đại của Trung Quốc và sự khởi đầu
hoành tráng của một trật tự thế giới mà châu Á là trung tâm. Tuy nhiên
quá trình trên không phải là không thể tránh khỏi. Sự cường thịnh của
Trung Quốc không nhất thiết phải gây ra sự chuyển đổi quyền lực méo mó.
Chuyển đổi quyền lực giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể rất khác so với
những lần chuyển đổi trong quá khứ, bởi vì Trung Quốc đang phải đối mặt
với một trật tự quốc tế khác biệt về căn bản so với trật tự mà các quốc
gia từng ở vị trí như Trung Quốc phải đối mặt trước đây. Trung Quốc
không chỉ phải đối mặt với Hoa Kỳ; mà còn phải đối mặt với một hệ thống
lấy phương Tây làm trung tâm, mở, hội nhập, có nguyên tắc, với những nền
tảng chính trị sâu rộng. Trong khi đó cuộc cách mạng hạt nhân đã khiến
cuộc chiến giữa những đế quốc hùng mạnh sẽ không xảy ra – loại bỏ công
cụ chính mà các cường quốc đang lên từng sử dụng để đảo lộn những hệ
thống quốc tế nằm dưới sự che chắn của những cường quốc vang bóng một
thời. Tóm lại, trật tự Phương Tây ngày nay rất khó phá vỡ nhưng lại dễ
gia nhập. Bản thân cái trật tự tồn tại một cách bất thường và đang mở
rộng này chính là sản phẩm của đường lối lãnh đạo Hoa Kỳ nhìn xa trông
rộng. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Hoa Kỳ không chỉ đơn giản
tạo lập cho bản thân trở thành một cường quốc quyền lực hàng đầu. Quốc
gia này còn dẫn đầu quá trình xây dựng những thể chế chung không chỉ lôi
kéo sự góp mặt của các thành viên toàn cầu mà còn đưa chế độ dân chủ và
xã hội thị trường lại gần nhau hơn. Hoa Kỳ đã xây dựng lên một trật tự
thúc đẩy sự tham gia và hội nhập của cả những cường quốc lão làng và cả
những quốc gia độc lập non trẻ. (Người ta thường quên mất rằng trật tự
trong thời hậu chiến này được tạo ra với mục đích chính là để khôi phục
lại trục Berlin - Rome - Tokyo bại trận và để đưa khối các quốc gia Liên
minh đang bị bao vây vào một hệ thống quốc tế thống nhất). Ngày nay,
Trung Quốc có thể tiếp cận và phát triển thịnh vượng trong hệ thống này.
Và nếu như vậy, Trung Quốc sẽ cất cánh, còn trật tự Phương Tây, nếu
điều phối hợp lý, sẽ tiếp tục tồn tại. Khi phải đối mặt với một Trung
Quốc đang lên, Hoa Kỳ cần phải ghi nhớ rằng vai trò lãnh đạo của họ
trong trật tự phương Tây cho phép bản thân quốc gia này thiết lập nên
một môi trường trong đó Trung Quốc sẽ thực hiện sự lựa chọn chiến lược
then chốt. Nếu muốn gìn giữ được vai trò lãnh đạo này, Hoa Kỳ cần phải
củng cố các quy tắc và thể chế là cơ sở cho trật tự này – làm cho nó trở
lên dễ hòa nhập hơn nhưng khó phá bỏ hơn. Chiến lược quan trọng này của
Hoa Kỳ cần phải được xây dựng dựa trên phương châm “Đường tới phương
Đông phải đi qua phương Tây”. Hoa Kỳ cần phải nhấn chìm gốc rễ của trật
tự này càng sâu càng tốt, làm cho Trung Quốc có động lực gia nhập lớn
hơn là phá bỏ và làm tăng cơ hội “sống sót” cho hệ thống dù quyền lực
của Hoa Kỳ đang dần bị suy giảm. “Vị thế đơn cực” của Hoa Kỳ sẽ kết thúc
là điều không thể tránh khỏi. Nếu cuộc chiến nổi bất của thế kỷ 21 là
giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, thì Trung Quốc sẽ có lợi thế. Nếu cuộc chiến
nổi bật của thế kỷ 21 là giữa Trung Quốc và một hệ thống phương Tây được
khôi phục, thì Phương Tây sẽ chiến thắng. NHỮNG QUAN NGẠI CỦA THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ Trung Quốc đang vững bước trên con đường trở thành một cường quốc
hùng mạnh toàn cầu. Quy mô của nền kinh tế quốc gia này đã tăng gấp bốn
lần kể từ khi cải cách thị trường bắt đầu vào cuối những năm 1970, và
theo như ước tính, còn có thể tăng gấp đôi trong thập kỷ tới. Trung Quốc
đã trở thành một trong những trung tâm sản xuất chính trên thế giới và
tiêu thụ xấp xỉ một phần ba nguồn cung sắt, thép và than toàn cầu. Quốc
gia này đã tích lũy được một lượng dự trữ ngoại hối khổng lồ, trị giá
hơn 1 nghìn tỉ USD vào thời điểm cuối năm 2006. Chi dùng cho quân đội
Trung Quốc đã tăng ở mức tỉ lệ điều chỉnh theo lạm phát là hơn 18% một
năm, và chính sách ngoại giao được mở rộng không chỉ ở châu Á mà còn cả
châu Phi, Mỹ Latinh và Trung Đông. Thực tế, nếu Liên Xô trước đây chỉ
qua mặt Hoa Kỳ chỉ trên phương diện đối thủ cạnh tranh về quân sự, thì
Trung Quốc đang nổi lên ở cả mặt quân sự và kinh tế - báo trước một sự
chuyển đổi sâu sắc trong quá trình phân bổ quyền lực toàn cầu. Quá độ
quyền lực là một vấn đề có tính chất chu kỳ trong các mối quan hệ quốc
tế. Như các học giả Paul Kennedy và Robert Gilpin từng mô tả, thì nền
chính trị thế giới được đánh dấu bởi sự kế vị của các quốc gia quyền lực
nổi lên để tổ chức hệ thống quốc tế. Một quốc gia quyền lực có thể tạo
ra và thúc đẩy những quy tắc và thể chế của một trật tự toàn cầu ổn định
nhằm theo đuổi lợi ích và an ninh của mình. Nhưng không gì có thể tồn
tại mãi mãi: những thay đổi trong dài hạn của quá trình phân bổ quyền
lực đem cơ hội đến cho những quốc gia thách thức mới – là những người
châm ngòi cho cuộc chiến phá bỏ trật tự quốc tế đang tồn tại. Những quốc
gia nổi lên muốn biến quyền lực mới giành được thành một thế lực mạnh
hơn trong hệ thống toàn cầu, để “viết lại” những quy tắc và thể chế nhằm
phục vụ lợi ích của riêng họ. Những quốc gia đang đi xuống, ngược lại,
lại lo bị mất khả năng kiểm soát, và quan ngại về những nguy cơ an ninh
bắt nguồn từ vị thế yếu kém của họ. Những “giây phút chuyển đổi" này
chứa đựng rất nhiều nguy hiểm. Khi một quốc gia chiếm giữ vị trí chỉ huy
trong hệ thống quốc tế, thì bản thân quốc gia này hay những quốc gia
yếu thế hơn đều không có động lực thay đổi trật tự đang tồn tại. Nhưng
khi quyền lực của một quốc gia muốn thách thức cả thế giới ngày một lớn
mạnh và quyền lực của quốc gia cầm đầu yếu đi, thì kéo theo đó là nguy
cơ một cuộc tranh giành quyền lực, thậm chí có thể dẫn tới chiến tranh.
Sự nguy hiểm trong quá trình quá độ quyền lực xảy ra đột ngột nhất là
trường hợp của Đức vào cuối thế kỷ 19. Năm 1870, Vương quốc Anh có lợi
thế về sức mạnh kinh tế gấp ba lần Đức và một lợi thế đáng kể về quân
đội; tới năm 1903, Đức đã vượt mặt Anh cả về sức mạnh kinh tế và quyền
lực quân đội. Khi Đức thống nhất và phát triển, quốc gia này dần thể
hiện sự bất mãn và nhu cầu ngày càng lớn, và khi quốc gia này ngày càng
phát triển cường thịnh hơn, nó ngày càng trở thành mối đe dọa đối với
những cường quốc khác ở châu Âu, thì cạnh tranh an ninh bắt đầu. Trong
quá trình thực hiện tái tổ chức chiến lược, Pháp, Nga và Anh, những địch
thủ một thời, đã ngồi lại với nhau để cùng tìm cách đối phó lại một
nước Đức đang nổi lên. Kết quả chính là cuộc chiến tranh châu Âu. Nhiều
nhà quan sát đã thấy động lực tương tự nổi lên trong mối quan hệ Hoa Kỳ -
Trung Quốc. Học giả duy thực Jonh Mearsheimer đã viết: “Nếu Trung Quốc
tiếp tục sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong một vài thập niên tới,
Hoa Kỳ và Trung Quốc chắc chắn sẽ cùng tham gia vào một cuộc cạnh tranh
an ninh khốc liệt với tiềm năng là một cuộc chiến tranh”. Nhưng không
phải tất cả các cuộc quá độ quyền lực đều có kết cục là chiến tranh hay
phá bỏ trật tự cũ. Trong những thập kỷ đầu thế kỷ hai mươi, Vương quốc
Anh đã nhường lại chủ quyền cho Hoa Kỳ mà không hề có xung đột lớn hay
thậm chí một sự rạn nứt trong quan hệ. Từ cuối những năm 1940 đến đầu
những năm 1990, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng từ mức chỉ tương đương với
5% GDP của Hoa Kỳ tới mức tương đương hơn 60% GDP của Hoa Kỳ, nhưng Nhật
Bản vẫn chưa bao giờ thách thức trật tự quốc tế đang tồn tại. Rõ ràng
là có rất nhiều loại hình quá độ quyền lực khác nhau. Một số quốc gia đã
chứng kiến nền kinh tế và quyền lực địa chính trị của họ phát triển
nhanh chóng và vẫn điều chỉnh bản thân cho phù hợp với trật tự đang tồn
tại. Một số khác lại đang vươn lên và tìm cách thay đổi trật tự này. Một
số quá trình quá độ quyền lực đã dẫn tới sự phá vỡ trật tự cũ và thiết
lập lên một trật tự quốc tế mới. Những quốc gia còn lại chỉ đóng góp
những điều chỉnh hạn chế vào hệ thống toàn cầu và khu vực. Có rất nhiều
nhân tố quyết định cách thức tiến hành chuyển giao quyền lực. Bản chất
chế độ của quốc gia đang lên và mức độ bất mãn với trật tự cũ có tính
chất quyết định: cuối thế kỷ 19, Hoa Kỳ, một quốc gia tự do, cách châu
Âu một đại dương, có thể đi theo trật tự quốc tế lấy Anh quốc làm trọng
tâm tốt hơn Đức. Nhưng điều quyết định hơn cả chính là đặc tính của bản
thân trật tự quốc tế - vì chính bản chất của trật tự quốc tế sẽ quyết
định sự lựa chọn của một quốc gia đang lên giữa thách thức trật tự đó và
hội nhập với nó. Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc Bạc Hy Lai (phải) bắt
tay Cao ủy Thương mại của EU Peter Mandelson tại lễ ký Thỏa thuận thương
mại may mặc Trung Quốc - EU ở Thượng Hải tháng 6/2005: Trung Quốc cũng
đang trở thành đối tác quan trọng của châu Âu. Ảnh: AP/Tân Hoa xã MỘT
TRẬT TỰ MỞ Về mặt lịch sử, trật tự phương Tây thời hậu chiến là độc nhất
vô nhị. Bất kỳ trật tự quốc tế nào do một quốc gia quyền lực nắm giữ
đều dựa trên nền tảng là sự pha trộn giữa tình trạng bị ép buộc và sự
nhất trí, nhưng trật tự do Hoa Kỳ đứng đầu là một trật tự đặc biệt ở chỗ
nó mang tính chất tự do hoa hơn là cưỡng bức phải tuân theo – và vì vậy
khả năng tiếp cận, tính xác thực và khả năng tồn tại lâu dài cũng đặc
biệt. Các quy tắc và thể chế của trật tự này có nguồn gốc vững chắc và
vì vậy được củng cố bởi các lực lượng toàn cầu của nền dân chủ và chủ
nghĩa tư bản đang phát triển. Nó đang mở rộng với số lượng quốc gia tham
gia rộng rãi và ngày càng mở rộng. Trật tự này có khả năng tạo ra tăng
trưởng kinh tế và quyền lực cực kỳ lớn đồng thời cũng có dấu hiệu của sự
gò bó – tất cả những đặc tính này khiến cho trật tự này khó bị phá vỡ
và dễ gia nhập. Mục đích rõ ràng của những kiến trúc sư sáng tạo ra trật
tự Phương Tây trong những năm 1940 là làm cho trật tự này có tính hội
nhập và mở rộng. Trước khi cuộc Chiến tranh lạnh chia thế giới thành
những phe phái đua tranh, Franklin Roosevelt đã cố gắng tìm cách sáng
tạo ra một hệ thống chung cho thế giới vận hành bằng sự hợp tác giữa các
cường quốc, để tái thiết châu Âu bị chiến tranh tàn phá, hội nhập những
quốc gia bại trận, và xây dựng lên những cơ chế hợp tác an ninh và tăng
trưởng kinh tế mở rộng. Trên thực tế, chính Roosevelt là người đã hối
thúc rằng - (đối lập với Winston Churchill) - Trung Quốc nên được kết
nạp làm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc. Vị đại
sứ Australia ở Hoa Kỳ lúc đó đã viết trong nhật ký của ông sau chuyến
thăm Roosevelt đầu tiên trong thời gian chiến tranh, “Ông ấy nói rằng
ông đã thảo luận rất nhiều với Winston về Trung Quốc và rằng ông cảm
thấy sự nhìn nhận của Winston về Trung Quốc đã bị tụt lùi 40 năm khi
Winston tiếp tục coi người Trung Quốc là “tiền xu” và “những nhà buôn đồ
sứ” và Roosevelt cảm thấy rằng lối nhìn nhận này là rất nguy hiểm. Ông
muốn giữ Trung Quốc như một người bạn bởi trong khoảng thời gian 40 hay
50 năm, Trung Quốc có thể dễ dàng trở thành một cường quốc quân sự rất
hùng mạnh”. Trong nửa thế kỷ tiếp theo, Hoa Kỳ đã sử dụng hệ thống quy
tắc và thể chế nó xây dựng lên một cách rất hiệu quả. Đông Đức đã xây
dựng mối quan hệ với những người hàng xóm Tây Âu dân chủ thông qua Cộng
đồng than và thép châu Âu (sau này là Cộng đồng châu Âu) và với Hoa Kỳ
thông qua Hiệp ước an ninh Đại Tây Dương; Nhật Bản quan hệ với Hoa Kỳ
thông qua hiệp hội đồng minh và mở rộng quan hệ kinh tế. Hội nghị
Bretton Woods năm 1944 đã đưa ra những quy định về tiền tệ và thương mại
thúc đẩy xu hướng mở cửa và sự thịnh vượng của nền kinh tế toàn cầu –
một kết quả đáng kinh ngạc khi xét đến hậu quả của cuộc chiến tranh và
sự xung đột về lợi ích giữa các cường quốc. Những cam kết ngoài lề giữa
Hoa Kỳ, Tây Âu và Nhật Bản đã củng cố thêm xu hướng mở cửa và đặc tính
đa phương của nền kinh tế thế giới thời kỳ hậu chiến. Sau khi cuộc Chiến
tranh lạnh bắt đầu nổ ra, Kế hoạch Marshall tại châu Âu và hiệp ước an
ninh năm 1951 giữa Hoa Kỳ và Nhật bản đã thúc đẩy hơn nữa sự hội nhập
của các cường quốc trong trục liên minh Berlin – Tokyo - Roma vào trật
tự phương Tây. Có ba đặc điểm đặc biệt của trật tự phương Tây đã tạo nên
thành công và sự trường tồn cho trật tự này. Trước hết, không giống như
những hệ thống cưỡng chế trước đây, trật tự phương Tây được xây dựng
với những quy tắc và quy phạm không phân biệt đối xử và mở cửa thị
trường, tạo điều kiện cho quá trình cất cánh của các quốc gia để nâng
cao các mục tiêu chính trị và mở rộng kinh tế của các quốc gia này trong
khuôn khổ của trật tự. Qua lịch sử, các trật tự quốc tế rất khác nhau
xét về khía cạnh các lợi ích thực dụng được tạo ra một cách không cân
xứng chỉ phục vụ cho quốc gia đi đầu hay lợi ích này được chia sẻ một
cách rộng rãi. Trong hệ thống phương Tây, các rào cản gia nhập kinh tế
rất thấp và các lợi ích tiềm năng rất cao. Trung Quốc đã khám phá ra
rằng tạo lập thành quả kinh tế trên quy mô lớn là hoàn toàn có thể bằng
cách vận hành trong hệ thống thị trường mở này. Thứ hai là đặc tính lãnh
đạo dựa trên mối quan hệ liên minh. Các trật tự trước đây đều có xu
hướng bị thống trị bởi một cường quốc duy nhất. Những thành viên của
trật tự phương Tây hiện thời bao gồm một khối liên minh các quốc gia xếp
quanh Hoa Kỳ. Những quốc gia đi đầu này không phải lúc nào cũng thống
nhất với nhau nhưng họ cùng tham gia vào một quá trình diễn tiến cho và
nhận về mặt kinh tế, chính trị và an ninh. Sự quá độ về quyền lực điển
hình thường thấy là cuộc chơi giữa hai quốc gia, một quốc gia đang lên
và một bá chủ đang đi xuống, và trật tự sẽ đổ vỡ ngay khi sự cân bằng
quyền lực chuyển đổi. Nhưng trong trật tự hiện thời, phần lớn hơn của
các quốc gia tư bản dân chủ - và thành quả tích lũy của quyền lực địa
chính trị - chuyển đổi sự cân bằng quyền lực theo lợi ích của trật tự.
Thứ ba, trật tự phương Tây thời hậu chiến có một hệ thống các quy tắc và
thể chế đặc biệt dày đặc, hoàn thiện, và được thống nhất rộng rãi. Cho
dù vẫn tồn tại khuyết điểm, nhưng trật tự này rõ ràng mở và có nguyên
tắc hơn hẳn bất kỳ trật tự nào trước nó. Chủ quyền quốc gia và quy định
pháp luật không chỉ là những quy phạm “cất giữ” trong Hiến chương Liên
Hiệp Quốc. Chúng là một phần trong lô-gic vận hành sâu xa của trật tự.
Để đảm bảo điều này, những quy phạm này đang ngày càng được phát triển,
và bản thân Hoa Kỳ đã tự ràng buộc theo luật pháp và thể chế quốc tế và
chưa bao giờ tuân thủ đúng như ngày nay. Nhưng toàn thể hệ thống dày đặc
với những thể chế và quy tắc đa phương – liên quan tới toàn cầu và khu
vực, kinh tế, chính trị và an ninh. Đây là những mặt đại diện cho một
trong những tiến bộ vượt bậc của kỷ nguyên hậu chiến. Chúng đã tạo ra
nền tảng cho những mức độ hợp tác và chia sẻ quyền lực thống trị theo hệ
thống toàn cầu chưa từng xảy ra trong lịch sử. Những lợi thế khuyến
khích mà những đặc điểm nổi bật trên tạo ra cho Trung Quốc để hội nhập
với trật tự quốc tế tự do đã được bản chất thay đổi của môi trường kinh
tế quốc tế củng cố thêm, đặc biệt là sự phụ thuộc lẫn nhau mới do công
nghệ thúc đẩy. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc nhìn xa trông rộng nhất
hiểu rằng toàn cầu hóa đã làm thay đổi cuộc chơi và theo đó, Trung Quốc
cần những đối tác hùng mạnh, thịnh vượng trên toàn thế giới. Theo tầm
nhìn của Hoa Kỳ thì một nền kinh tế Trung Quốc khỏe mạnh là cần thiết
cho Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới. Cuộc cách mạng công nghệ và
kinh tế toàn cầu đã tạo ra một chuỗi lôgic các mối quan hệ kinh tế hoàn
toàn khác biệt với những gì từng có trong quá khứ - làm cho lôgic chính
trị và thể chế của trật tự hiện thời hùng mạnh hơn bao giờ hết
Phần 2
Sự cất cánh của Trung Quốc không
nhất thiết phải dẫn tới một cuộc “đụng độ nảy lửa” với Hoa Kỳ về các quy
tắc và vai trò lãnh đạo toàn cầu. Và điều quan trọng nhất mà các nhà
lãnh đạo Hoa Kỳ cần ghi nhớ là Trung Quốc có thể bắt kịp một Hoa Kỳ đơn
lẻ, nhưng chắc chắn Trung Quốc sẽ không thể bắt kịp nổi cả một trật tự
phương Tây. Phần 2 bài viết của Giáo sư John Ikenberry trên tạp chí Đối
ngoại.
GIANG TAY CHÀO ĐÓN
Lợi ích quan trọng nhất của những đặc điểm này hiện nay đó là chúng mang
tới cho trật tự phương Tây một khả năng đáng kể để “mời chào” những
cường quốc đang lên. Những cường quốc mới gia nhập hệ thống có rất nhiều
cách để dành vị thế và quyền lực cũng như cơ hội để đóng vai trò điều
hành trật tự. Thực tế là việc Hoa Kỳ, Trung Quốc và những cường quốc
khác có vũ khí hạt nhât cũng hạn chế khả năng thách thức của một cường
quốc đang lên muốn lật đổ trật tự đang tồn tại. Trong kỷ nguyên hạn chế
vũ khí hạt nhân, may mắn thay là cuộc chiến tranh giữa các cường quốc từ
lâu đã không còn là một cơ chế thay đổi lịch sử. Sự thay đổi do chiến
tranh gây ra đã bị thủ tiêu theo tiến trình lịch sử.
Khung quy định và thể chế hùng mạnh của trật tự phương Tây đã bắt đầu
thúc đẩy quá trình hội nhập của Trung Quốc. Ban đầu, Trung Quốc tuân
theo các quy định và thể chế nhất định vì những mục đích tự bảo vệ: bảo
vệ chủ quyền và những lợi ích kinh tế đồng thời tìm cách đảm bảo với các
quốc gia khác về mục đích hòa bình của mình thông qua việc tham gia vào
các nhóm liên minh khu vực và toàn cầu. Nhưng như học giả Marc
Langteigne nhận xét, “Thứ đang chia rẽ Trung Quốc với các quốc gia khác,
và giữa những cường quốc toàn cầu trước đó, không chỉ là do quốc gia
này “đang lớn mạnh” trong khuôn khổ thể chế quốc tế phát triển xa hơn
bất cứ lúc nào, mà quan trọng hơn cả đó là Trung Quốc đang lớn mạnh
trong khi chủ động tận dụng những thể chế này để thúc đẩy sự phát triển
vị thế cường quốc toàn cầu của quốc gia này”. Tóm lại, Trung Quốc đang
ngày càng có khuynh hướng hoạt động trong khuôn khổ chứ không phải là
bên ngoài trật tự phương Tây.
Trung Quốc đã là thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp
Quốc, di sản của sự quyết tâm của Roosevelt nhằm xây dựng một cơ quan
toàn diện xung quanh đường lối lãnh đạo của nhiều cường quốc. Quyết định
này mang tới cho Trung Quốc quyền lực và lợi thế “đặc quyền cường quốc”
tương đương những thành viên thường trực khác. Hệ thống thương mại toàn
cầu hiện thời cũng rất có giá trị đối với Trung Quốc, và giá trị này
đang ngày càng gia tăng. Những lợi ích kinh tế của Trung Quốc tương đối
đồng dạng với hệ thống kinh tế toàn cầu hiện thời – một hệ thống mở và
được thể chế hóa tương đối lỏng lẻo – và Trung Quốc đã nhiệt tình nắm
bắt và lớn mạnh. Quyền lực quốc gia ngày nay xét cho cùng đều dựa sự
tăng trưởng kinh tế ổn định và Trung Quốc nhận thức rõ rằng không một
cường quốc nào có thể hiện đại hóa mà không hội nhập với hệ thống tư bản
toàn cầu hóa; nếu một quốc gia muốn trở thành một cường quốc thế giới,
nó không có sự lựa chọn nào khác là gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Con đường đi tới quyền lực toàn cầu, muốn hiệu quả, luôn phải đi
qua trật tự phương Tây và các thể chế kinh tế đa phương.
Trung Quốc không chỉ cần tiếp tục tiếp cận hệ thống tư bản toàn cầu,
Trung Quốc còn muốn đảm bảo rằng những quy tắc và thể chế của hệ thống
được thực thi. Ví dụ như, những nguyên tắc thương mại đa phương và những
cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đều mang đến cho Trung Quốc công
cụ để được bảo vệ trước những nguy cơ về phân biệt đối xử và chủ nghĩa
bảo hộ mà những cường quốc kinh tế đang lên thường phải đương đầu. Sự
tiến triển trong chính sách của Trung Quốc cho thấy các lãnh đạo Trung
Quốc đã nhận ra những lợi thế này: với việc Bắc Kinh ngày càng tham gia
nhiều hơn vào sự tự do hóa kinh tế giúp họ tăng đầu tư nước ngoài và góp
phần quan trọng cho sự phát triển thương mại, thì Trung Quốc cũng đang
nắm bắt nhiều hơn các quy tắc thương mại toàn cầu. Có thể là khi Trung
Quốc trở thành nhà vô địch trong WTO, sự hỗ trợ của các nền kinh tế
phương Tây trưởng thành hơn cho WTO sẽ dần suy yếu. Nhưng chắc chắn rằng
cả những quốc gia đang lên cũng như đang xuống sẽ tìm thấy giá trị
trong những cơ chế gần như có tính pháp luật cho phép các xung đột được
giải quyết hoặc ít nhất được thông tin.
Các thể chế kinh tế quốc tế hiện thời cũng tạo cơ hội cho những cường
quốc mới nổi có thể đi lên theo thứ tự. Tại Qũy tiền tệ quốc tế (IMF) và
Ngân hàng thế giới (World Bank), điều hành phải dựa trên những phần
đóng góp kinh tế, điều mà các quốc gia đang lên coi là cơ hội để có
tiếng nói lớn hơn trong thể chế. Để đảm bảo, quá trình điều chỉnh phải
được tiến hành thận trọng và chậm rãi. Hiện tại Hoa Kỳ và châu Âu vẫn
giữ vai trò chi phối IMF. Hoa Kỳ chiếm 17% số phiếu (giảm từ 30%) - một
số phiếu đủ để kiểm soát, vì 85% số phiếu tán thành là đủ cho một quyết
định – còn Liên minh châu Âu thì có tiếng nói nặng ký trong việc bổ
nhiệm 10 trong số 24 thành viên của ban quản trị. Nhưng vẫn có những áp
lực ngày càng tăng, đáng chú ý là nhu cầu tài nguyên và nhu cầu duy trì
sự cân bằng, điều đó chắc chắn sẽ thuyết phục được các quốc gia phương
Tây thừa nhận Trung Quốc vào nội bộ các thể chế điều hành kinh tế này.
Ví dụ như các cổ đông hiện tại của IMF nhìn thấy vai trò ngày càng lớn
đối với các quốc gia đang phát triển là cần thiết phải làm mới thể chế
và vượt qua những cuộc khủng hoảng hiện tại về nhiệm vụ. Trong cuộc họp
của IMF tổ chức tại Singapore tháng 9/2006, họ đã nhất trí rằng cải cách
sẽ đem lại cho Trung Quốc, Mexico, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ một tiếng nói
lớn hơn.
Khi Trung Quốc thoát khỏi vị thế của một quốc gia đang phát triển (và vì
thế thoát khỏi vị thế khách hàng của những thế chế này), Trung Quốc sẽ
ngày càng có khả năng hành động như một khách hàng quen thuộc và một cổ
đông. Vai trò lãnh đạo trong những tổ chức này không đơn giản chỉ là
phản ánh quy mô nền kinh tế (Hoa Kỳ vẫn duy trì quyền biểu quyết trong
IMF cho dù trọng lượng nền kinh tế nước này đang giảm dần); tuy vậy, sự
tiến bộ lũy tiến trong nội bộ những tổ chức này sẽ tạo ra cơ hội quan
trọng cho Trung Quốc.
CHUYỂN GIAO QUYỀN LỰC VÀ ĐỔI THAY ÊM Ả
Theo những lập luận trên, sự cất cánh của Trung Quốc không nhất thiết
phải dẫn tới một cuộc “đụng độ nảy lửa” với Hoa Kỳ về các quy tắc và vai
trò lãnh đạo toàn cầu. Trật tự phương Tây có tiềm năng biến cuộc chuyển
đổi quyển lực sắp tới thành một sự thay đổi êm ả theo hướng có lợi cho
Hoa Kỳ. Nhưng điều đó chỉ xảy ra nếu Hoa Kỳ bắt đầu củng cố trật tự hiện
thời. Ngày nay, khi Washington luôn bận bịu với khủng bố và chiến tranh
ở Trung Đông, thì việc xây dựng lại các quy tắc và thể chế Phương Tây
có thể chỉ là một ghi chú ngoài lề. Nhiều quan chức trong ban lãnh đạo
chính quyền Bush đã thể hiện thái độ phản đối rõ ràng với hệ thống dựa
trên quy tắc, có tính chất đa phương mà Hoa Kỳ đã xây dựng lên và dẫn
đầu. Thái độ thù địch này thật ngớ ngẩn và nguy hiểm. Trung Quốc sẽ trở
lên quyền lực: nó đã và đang vươn lên, và vũ khí chiến lược quyền năng
nhất của Hoa Kỳ chính là khả năng quyết định kiểu trật tự quốc tế nào sẽ
được dùng để đón nhận Trung Quốc.
Hoa Kỳ cần phải tái đầu tư vào trật tự Phương Tây, củng cố những đặc
điểm của trật tự để khuyến khích sự tham gia, hội nhập và ràng buộc.
Trật tự này càng ràng buộc những quốc gia dân chủ tư bản chặt chẽ hơn
theo những thể chế nền tảng sâu sắc, thì nó càng mở, càng liên ứng và
càng có nguyên tắc hơn. Và khi những lợi ích của trật tự này càng lan
rộng, thì chắc chắn các quốc gia đang lên có thể và sẽ đảm bảo được
những lợi ích quốc gia thông qua hội nhập và thích nghi hơn là thông qua
chiến tranh. Và nếu hệ thống phương Tây đưa ra những quy tắc và thể chế
có lợi cho tất cả các quốc gia – cả đang lên và đang xuống, yếu và
mạnh, mới nổi và trưởng thành – thì địa vị thống trị của nó như một trật
tự quốc tế sẽ luôn được đảm bảo.
Việc trước tiên mà Hoa Kỳ cần phải làm là tái thiết lập bản thân như một
nhà bảo trợ trước nhất của hệ thống điều hành toàn cầu làm cơ sở cho
trật tự phương Tây. Làm như vậy trước hết sẽ thúc đẩy cách giải quyết
vấn đề mang tính tập thể, làm cho mọi quốc gia đều phát triển. Đồng
thời, khi các quốc gia khác thấy Hoa Kỳ sử dụng quyền lực của mình để
củng cố những quy tắc và thể chế hiện thời, quyền lực đó sẽ được đền đáp
chính đáng hơn – và chính quyền Hoa Kỳ sẽ càng mạnh hơn. Các quốc gia
khác ở phương Tây đang dần có xu hướng hòa nhập thay vì chống lại quyền
lực của Hoa Kỳ, điều đó sẽ củng cố vị thế trung tâm và thống trị của bản
thân phương Tây.
Ngoài ra, làm mới các quy tắc và thể chế phương Tây sẽ đòi hỏi sự cập
nhật những giao kèo cũ vốn là nền tảng cho những hiệp ước an ninh hậu
chiến quan trọng. Sự đồng thuận chiến lược đằng sau cả NATO và những
đồng minh Đông Á của Washington là Hoa Kỳ sẽ hợp tác với các đồng minh
để đảm bảo an ninh và liên kết họ trong những quyết định sử dụng các lực
lượng, và ngược lại các đồng minh của Hoa Kỳ sẽ hoạt động trong khuôn
khổ trật tự phương Tây do Hoa Kỳ đứng đầu. Hợp tác an ninh ở phương Tây
ngày nay vẫn đang tiếp tục mở rộng, nhưng với những nguy cơ an ninh
chính không rõ ràng như trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, thì mục đích và
trách nhiệm của những đồng minh này lại trở thành đề tài tranh cãi. Theo
đó, Hoa Kỳ cần phải khẳng định lại giá trị chính trị của các đồng minh
này – thừa nhận họ là một phần của một kiến trúc thể chế Phương Tây mở
rộng hơn cho phép các quốc gia có thể giao thương với nhau.
Tổng thống Mỹ George W.Bush bắt tay Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào: Đón
nhận Trung Quốc và các quốc gia đang lên vào trật tự phương Tây, chính
Mỹ cũng có lợi. Ảnh: Nhân dân nhật báo
Hoa Kỳ cũng cần phải làm mới sự ủng hộ của mình đối với những thể chế đa
phương rộng rãi. Trên bình diện kinh tế, điều này sẽ bao hàm cả việc
xây dựng những thỏa thuận và cơ cấu của WTO, bao hàm cả việc theo đuổi
những nỗ lực hòan thành Vòng đàm phán thương mại Doha để tìm cách mở
rộng các cơ hội thị trường và tự do hóa thương mại cho các nước đang
phát triển. WTO đang ở gian đoạn quyết định. Quy chuẩn cơ bản về việc
không phân biệt đối xử đang bị đe dọa bởi sự gia tăng của những thỏa
thuận thương mại khu vực và song phương. Trong khi đó, người ta ngày
càng nghi ngờ về việc liệu WTO trong thực tế có thể tiếp tục tiến hành
tự do hóa thương mại hay không, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp vốn
là là lĩnh vực mang lại lợi nhuận cho nhiều quốc gia đang phát triển.
Những vấn đề này dường như đang dần thu hẹp lại, nhưng tính căn bản của
trật tự quốc tế tự do – cam kết của nó đối với những quy tắc toàn diện
về sự cởi mở và phân chia lợi ích rỗng rãi - đang bị đe dọa. Những nghi
ngờ tương tự cũng dành cho một loạt những thỏa thuận đa phương khác – về
sự ấm lên toàn cầu và cấm phổ biến vũ khí hạt nhân – và vì thế chúng
cũng đòi hỏi một vai trò lãnh đạo mới của Hoa Kỳ.
Chiến lược này không chỉ đơn giản là đảm bảo trật tự phương Tây vẫn mở
và có nguyên tắc. Nó cũng là để đảm bảo rằng trật tự đó không bị chia
nhỏ thành một loạt những dàn xếp song phương và “thiểu phương”, làm cho
Hoa Kỳ chỉ còn thắt chặt quan hệ với một số ít quốc gia chủ chốt trong
mỗi khu vực. Trong một bối cảnh như vậy, Trung Quốc sẽ có cơ hội tự xây
dựng cho mình một hệ thống các thỏa thuận song phương và “thiểu phương”.
Kết quả là, thế giới sẽ bị chia thành những bán cầu cạnh tranh giữa Hoa
Kỳ và Trung Quốc. Những mối quan hệ kinh tế và an ninh càng đa phương
và hoàn thiện, thì hệ thống toàn cầu sẽ càng duy trì được sự liên kết
chặt chẽ.
Cùng với việc duy trì sự cởi mở và tính lâu bền của trật tự, Hoa Kỳ cần
phải nỗ lực gấp đôi trong việc đón nhận các quốc gia đang phát triển vào
các thể chế toàn cầu chính yếu. Đưa các quốc gia đang nổi lên vào hệ
thống điều hành của trật tự quốc tế sẽ mang lại một cuộc sống mới cho
chính bản thân Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và Châu Âu cần phải tìm chỗ tại bàn tiệc
không chỉ cho riêng Trung Quốc, mà còn cho cả những quốc gia khác như
Brazil, Ấn Độ và Nam Phi. Báo cáo của Goldman Sachs về những quốc gia
BRICs (Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc) chỉ ra rằng tới năm 2050 tổng
giá trị nền kinh tế của các quốc gia này có thể lớn hơn tổng giá trị nền
kinh tế của khối các nước G6 trước đây (Đức, Pháp, Ý, Nhật Bản, Anh
Quốc và Hoa Kỳ). Mỗi thể chế quốc tế đều có những thách thức riêng của
nó. Có lẽ Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc là nơi khó đối phó nhất, nhưng
tiến trình cải cách của cơ quan này cũng sẽ mang lại những kết quả vĩ
đại nhất. Những cơ quan ít chính thống hơn, như G-20 và các mạng lưới
liên chính phủ khác, cũng có thể mở ra những cách khác để nâng cao tiếng
nói và vai trò của các quốc gia.
CHIẾN THẮNG CỦA TRẬT TỰ TỰ DO
Điều quan trọng nhất mà các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ cần ghi nhớ là Trung
Quốc có thể bắt kịp một Hoa Kỳ đơn lẻ, nhưng chắc chắn Trung Quốc sẽ
không thể bắt kịp nổi cả một trật tự phương Tây. Ví dụ như, xét về
phương diện kinh tế, vào khoảng năm 2020, Trung Quốc sẽ vượt qua Hoa Kỳ
để trở thành quốc gia lớn nhất trong hệ thống toàn cầu. (Nhờ lợi thế về
dân số, Trung Quốc chỉ cần năng xuất bằng 1/5 của Hoa Kỳ là đã có thể
trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới). Nhưng khi xét đến năng lực
kinh tế của cả hệ thống phương Tây, thì những thành tựu kinh tế của
Trung Quốc lại kém ấn tượng hơn; trong tương lai xa hơn thì nền kinh tế
của Trung Quốc sẽ còn nhỏ bé hơn nhiều so với các nền kinh tế của Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế hợp lại. Điều này thậm chí cũng đúng
khi xét đến lĩnh vực quân sự: Trung Quốc không thể hy vọng nhanh chóng
bắt kịp tổng mức chi tiêu quân sự của OECD. Thế giới dân chủ tư bản là
một cử tri quyền lực ủng hộ cho sự bảo lưu - và thực tế là cả sự mở rộng
- trật tự quốc tế hiện thời. Nếu Trung Quốc có ý định vươn lên và thách
thức trật tự hiện thời, đó là một nhiệm vụ nặng nề hơn rất nhiều so với
chỉ đơn giản là đối đầu với một mình Hoa Kỳ.
“Vị thế đơn cực” cuối cùng cũng sẽ không còn. Sự thống trị của Hoa Kỳ
cuối cùng cũng sẽ kết thúc. Khi đó, chiến lược lớn của Hoa Kỳ sẽ phải
trả lời một câu hỏi quan trọng: Hoa Kỳ mong muốn loại trật tự quốc tế
nào sẽ thay thế khi bản thân họ đang bớt dần quyền lực?
Nhà triết học chính trị John Rawls đã cho rằng các thể chế chính trị nên
được hình thành phía sau “bức màn của sự ngu dốt” – có nghĩa là các
kiến trúc sư nên xây dựng những thể chế như thể họ không hề biết chính
xác những thể chế đó sẽ ở đâu trong một hệ thống kinh tế xã hội. Kết quả
sẽ là một hệ thống đảm bảo lợi ích cho mỗi con người bất chấp người đó
giàu hay nghèo, yếu hay mạnh. Hoa Kỳ nên áp dụng cách tiếp cận này đối
với vai trò lãnh đạo của mình trong trật tự quốc tế hiện nay. Họ nên vận
hành các thể chế và củng cố các quy tắc nhằm đảm bảo lợi ích của chính
họ mình bất chấp họ ở đâu trong thứ tự hay bất chấp quyền lực sẽ được
phân chia thế nào trong 10, 50 hay 100 năm nữa.
May thay là đã có một trật tự như thế. Nhiệm vụ giờ đây là phải mở rộng
và thể chế hoá trật tự này hơn nữa để Trung Quốc không còn sự lựa chọn
nào khác ngoài việc trở thành một thành viên đầy đủ của trật tự này. Hoa
Kỳ không thể cản trở sự lớn mạnh của Trung Quốc, nhưng nó có thể đảm
bảo rằng quyền lực của Trung Quốc được thực thi trong khuôn khổ các quy
tắc và thể chế mà Hoa Kỳ và các đồng minh đã xây dựng trong suốt một thế
kỷ qua, những quy tắc và thể chế có thể bảo vệ lợi ích của tất cả các
quốc gia trong một thế giới đông đúc hơn trong tương lai. Vị thế toàn
cầu của Hoa Kỳ có thể suy yếu, nhưng hệ thống quốc tế mà Hoa Kỳ dẫn đầu
vẫn có thể duy trì vai trò thống trị trong thế kỷ 21.