Thứ Tư, 27 tháng 7, 2011

Để góp phần đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam

TS. Hồ Thiệu Hùng
 Cộng tác viên - Viện Nghiên cứu Giáo dục
Kiến thức loài người trong cuộc cách mạng khoa học công nghề hiện nay đang tăng vô hạn theo cấp số nhân còn đời người thì hữu hạn, thời gian ngồi trên ghế nhà trường cũng không thể kéo dài tùy tiện. Muốn đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Viêt Nam, không thể không  đánh giá lại nội dung chương trình học tập trong trường cùng triết lý dạy học theo một cách nhìn nhận mới: xem cái gì đáng giữ lại để dạy,  cái gì đáng bỏ đi và cái gì cần thêm vào để cho chương trình học không khiến người học bị quá tải và nhàm chán; chọn kiểu dạy sao cho phát huy được tiềm năng của người học. Giáo dục phải làm sao để khi vào đời người học được trang bị một bộ "bản đồ" cùng "la bàn" hữu dụng thay vì một bộ "đại bách khoa toàn thư".  Cách đặt vấn đề như trên dẫn ta đến ba câu hỏi cần được trả lời sau đây:
1. Giáo dục đã cung cấp cho người học những hiểu biết cơ bản, thiết thực với nhu cầu thời đại chưa?
Hiểu biết cơ bản được hiểu là kiến thức nền móng mà không có nó thì con người không thể tiếp thu được những kiến thức bổ ích khác tiếp theo, không phát triển tiếp được. Hiểu biết thiết thực với nhu cầu thời đại là loại hiểu biết mà nếu thiếu chúng thì con người  trở thành kẻ lạc lõng trong thời đại mình đang sống, không sống cuộc sống bình thường của người lao động, của một thành viên trong gia đình và xã hội được, không thành người theo đúng nghĩa con người. Những khiếm khuyết về đạo đức, nhân cách của con người Việt Nam lâu nay bị xã hội kêu ca và có khi lên án đã bộc lộ rõ lỗ hổng to lớn của giáo dục trong việc dạy  kiến thức làm người - một con người trung thực trong lao động và ứng xử, một thành viên có trách nhiệm của gia đình và xã hội, biết cái gì là đẹp, là thiện. Đây mới chính là kiến thức cơ bản và thiết thực hàng đầu mà xã hội hiện nay, thời đại hiện nay đang có nhu cầu nhưng giáo dục lại đang coi nhẹ. Loại kiến thức này còn quan trọng hơn cả kiến thức từng môn học cụ thể, kiến thức về tin học, ngoại ngữ hay chính trị... Việc rèn luyện kỹ năng sống được chú ý hơn trong vài năm qua mới chỉ là một chuyển biến tích cực theo hướng dạy những kiến thức cơ bản, thiết thực với nhu cầu thời đại. Giáo dục Việt Nam còn nhiều việc phải làm để người học không chỉ biết cái gì là đúng sai mà còn có thái độ, niềm tin, hành xử đúng đắn trước các sự vật, hiện tượng của đời sống.  Thời đại hiện nay dù rất coi trọng kỹ năng làm việc với máy móc nhưng còn đặt kỹ năng làm việc với con người ở vị trí cao hơn. Nhà vật lý học Einstein từ giữa thế kỷ XX từng ví von con người chỉ biết về chuyên ngành của mình là "giống một con chó được huấn luyện thành thục hơn là một con người được phát triển hài hòa" và khuyên con người "phải được dạy để có một cảm thức sống động về cái gì là đẹp, cái gì là thiện"; cho rằng con người "cần phải học để hiểu những động cơ của con người, hiểu những ảo tưởng và nỗi thống khổ của họ để tìm được một thái độ ứng xử đúng đắn với từng con người đồng loại của mình cũng như với cộng đồng"[1].
Để tránh bị lạc hậu trước bước tiến vũ bão của khoa học công nghệ, nền giáo dục đứng trước lựa chọn: hoặc là dồn thêm kiến thức vào đầu người học bằng cách kéo dài thời gian cùng cường độ học tập hoặc là phải gạn lọc lại kiến thức, tinh giản nó đi, bỏ bớt những thứ tuy rất hay nhưng đã không còn là cơ bản, đã trở nên lỗi thời để cung cấp cho người học  những kiến thức cơ bản, thiết thực với nhu cầu thời đại.
Phương án thứ nhất mà giáo dục đã trung thành lâu nay là dồn thêm kiến thức. Nó sẽ dẫn  đến hậu quả mà Claude Adrien Helvétius - nhà triết học giáo dục người Pháp sống trong thế kỷ XVIII từng cay độc mỉa mai là: "...con người sinh ra thì dốt, giáo dục biến họ thành đần". Đánh giá một cách nghiêm khắc thì với nhiều lần thay sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giáo dục,  nhà trường của chúng ta vẫn đi theo con đường cung cấp kiến thức theo lối "dồn thêm".  Hậu quả là số đông người học tiếp thu điều học ở trường dưới dạng nhận thức sơ khai là Nhớ (để rồi sau khi thi xong rồi thì quên hết), người học đạt nhận thức ở cấp độ Hiểu là ít hơn, càng lên các cấp độ cao hơn như Vận dụng, Phân tích thì số người đạt được càng ít hơn nữa, còn người đạt đến trình độ nhận thức  Đánh giáSáng tạo thì rất hiếm. Điều trớ trêu là với cách đánh giá và thi cử của ta thì có vẻ như mức Nhớ là quan trọng hàng đầu!
Phương án thứ hai đòi hỏi một cuộc đổi mới căn bản và triệt để trong cách suy nghĩ về giáo dục, chuyển từ nền giáo dục nặng về từ chương, nhồi nhét áp đặt, làm mụ mẫm đầu óc sang nền giáo dục "đảm bảo cho học trò những kiến thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế"[2] như Bác Hồ đã từng căn dặn vào năm 1955 trong Thư gởi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng.
Tất nhiên khái niệm cơ bản, thiết thực là khái niệm động, thay đổi theo bước tiến của trí khôn loài người ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội. Xin được minh họa bằng một ví dụ sau đây trong chương trình toán ở bậc trung học. Một nội dung từng được xem là rất cần thiết - dạy về cách tính căn bậc hai của một số - đã được bãi bỏ từ nhiều chục năm nay vì thành vô bổ do sự xuất hiện rầm rộ của máy tính bỏ túi. Vậy mà đến nay người ta vẫn chưa chịu thôi bắt học sinh hì hục khảo sát hàm số bằng "tay" và xem đây là kiến thức rất cơ bản, năm nào cũng phải đưa bằng được vào đề toán thi tốt nghiệp và thi đại học. Học sinh tốn hàng trăm giờ học và tự học để nắm vững kỹ năng này là để... chờ người ra đề  cho sẵn một hàm số rắc rối mà trổ tài khảo sát một cách thủ công chậm chạp, trong khi máy vi tính thì hoàn thành việc này trong nháy mắt. Trong khi đó cả máy vi tính lẫn học sinh trung học đều cùng không biết cách thành lập hàm số từ những vấn đề đơn giản trong cuộc sống cần được khảo sát và dự báo. Yêu cầu này đòi hỏi tư duy bậc cao hơn, sáng tạo hơn nên máy tính chưa đủ "thông minh" để thực hiện còn học sinh thì mặc dù thông minh có thừa nhưng hầu như không được dạy để làm việc ấy.  Nền giáo dục khai sáng sẽ tập trung dạy cho học sinh cách lập hàm số từ bài toán thực tế và biết cách ra lệnh cho "đầy tớ" của mình là chiếc máy vi tính khảo sát nó. Nhờ vậy mà tinh gọn được chương trình, lại có thể dành nhiều giờ hơn cho rèn luyện tư duy sáng tạo trong toán học. Tinh thần này cũng cần được áp dụng cho các môn tự nhiên và xã hội khác cả ở trường phổ thông lẫn đại học và dạy nghề.
            Các nhà sư phạm cần cùng với các doanh nghiệp, các nhà hoạt động kinh tế - xã hội và cả nhà chính trị nữa phải thống nhất với nhau nên bỏ những nội dung kiến thức nào không còn cần thiết cho đời sống nữa, bổ sung những phần nào mà cuộc sống đang hoặc sẽ yêu cầu. Và cần nhớ kiến thức phải mang tính khách quan vì đây là kiến thức khoa học chứ không phải là giáo điều.
2. Giáo dục đã biết khơi dậy lòng ham học nơi người học, hướng dẫn họ cách học và tự học chưa?
Nền giáo dục khai sáng phải tạo ra cơ sở để con người phát triển bền vững, rời thầy và nhà trường ra vẫn cứ có thể không ngừng làm giàu hiểu biết phổ thông và kỹ năng nghề nghiệp của mình, ham tự khai sáng và biết cách tự khai sáng mình không ngừng để sống cuộc sống phong phú trong một thế giới đầy biến động. Lòng ham học là động lực bên trong khiến người ta vượt lên những khó khăn thiếu thốn của đời thường, không nản chí trước thất bại, không tự mãn trước thành công, tìm thấy niềm vui bất tận trong "học, học nữa, học mãi". Socrates, nhà hiền triết cổ Hy Lạp từng được người cùng thời thừa nhận là thông thái nhất, đã suốt đời tự nhận là mình "không biết gì cả". Helvétius C. A. cũng từng nói rằng: "tài năng con người như những chiếc phím khác nhau của chiếc đàn dương cầm mà hứng thú là bàn tay nghệ sỹ. Hứng thú mới tạo ra giai điệu". Bác Hồ tuy chỉ có trình độ tiểu học khi bước vào cuộc đời cách mạng nhưng sau này thành lãnh tụ được thế giới tiến bộ kính yêu, thành danh nhân văn hóa là nhờ ham học, biết cách học và đặc biệt là tự học.  Để nâng cao hiểu biết, Người đã ra sức học tập, chủ yếu là tự học, "học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân"[3]. Nói chuyện tại trường Đại học Nhân dân Việt Nam, Người nhắc nhở là: "học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời", những điều được học, được nghiên cứu tại trường chỉ có thể ví như một "hạt nhân bé nhỏ" mà người học "sẽ tiếp tục săn sóc, vun xới, làm cho mọc thành cây và dần dần nở hoa, kết quả"[4]. Người khẳng định là trong cách học thì "lấy tự học làm cốt"[5].  Do vậy "nâng cao và hướng dẫn việc tự học"[6] - như Bác Hồ từng nhắc nhở tại Hội nghị toàn quốc về huấn luyện và học tập tháng 5/1950 - là công việc cấp thiết của một nền giáo dục muốn đổi mới căn bản và toàn diện. Trên thế giới hiện đã có nhiều trường đại học và cả trường phổ thông dạy cách học cho học sinh, sinh viên của mình. Điều này có vượt khỏi tầm tay của giáo dục Việt Nam không? Hoàn toàn không. Việc dạy cách học nằm trong tầm tay của giáo dục Việt Nam và không đòi hỏi thêm kinh phí 70.000 tỷ đồng hay chủ trương phải được Quốc hội thông qua, nó chỉ đòi hỏi thay đổi quan niệm về dạy học và quyết tâm đổi mới.
3. Giáo dục có  phát huy được các tiềm năng bẩm sinh của con người chưa?
Nhà giáo dục người Bungari - TS. Georgi Lozanov khẳng định: "Hầu như tất cả trẻ em đều sinh ra với tiềm năng trở thành thiên tài. Tuy nhiên trong quá trình lớn lên, đa số trẻ em để vuột mất những khả năng trời cho đó vì những tác động tiêu cực thường trực trong cuộc sống xã hội"[7]. Một trong các tác động tiêu cực thường trực ấy, tiếc thay, lại đến từ chính nhà trường, từ chính giáo dục do quan niệm chưa đúng về năng lực của não bộ con người, hậu quả là còn rất nhiều tiềm năng  bẩm sinh của não bộ chưa được  khai thác một cách chủ động và tự giác. Đứa trẻ nào khi sinh ra đều đã có sẵn nhiều tiềm năng khác nhau trong người, ví như các "chương trình" được cài đặt sẵn ở máy tính. Hai máy tính cùng hiệu được cài đặt sẵn các phần mềm như nhau nhưng  một chiếc sử dụng nhiều phần mềm còn một chiếc chỉ để chơi game thì tính hữu dụng của chúng là một trời một vực. Khoa học cho rằng người bình thường chỉ mới  khai thác được chưa quá 1% năng lực của bộ não và chỉ cần huy động được từ 3% đến 5% là đã có thể  trở thành thiên tài. Đứa trẻ nào được giáo dục  giúp khai thác các tiềm năng trời phú này trong não bộ thì đều có thể phát triển tối đa trong phạm vi năng lực của mình. Tâm lý học thần kinh cho biết não có hai bán cầu được phân công  các chức năng rất rạch ròi. Bán cầu trái chuyên xử lý thông tin về  toán học, ngôn ngữ viết và nói, lập luận,  phân tích, chuỗi số và sự kiện,... trong khi bán cầu phải xử lý thông tin về âm điệu, màu sắc, di chuyển, tình cảm, mơ mộng, sáng tạo và tưởng tượng...
hothieuhung_day_manh_giao_duc_viet_nam.jpg

Như vậy, có thể thấy rằng hơn 90% môn học tại nhà trường và hơn 95% thời lượng học các môn toán, lý, hóa, sinh, văn, sử, địa, ngoại ngữ, giáo dục công dân - chính trị là công việc của bán cầu não trái. Bán cầu não phải của học sinh bị "bỏ quên" và sinh ra "nhàn cư vi bất thiện". Nó là thủ phạm khiến học sinh mơ màng, mất tập trung trong giờ học, "xúi" cho cái tay vẽ bậy lên giấy, lên bàn, gây "ngứa miệng" để phải nói xen, nói bậy trong lớp. Có thể ví von não bộ như người có hai chân mà bị bắt buộc phải đi theo kiểu nhảy lò cò bằng chân trái, đã vậy cứ hay bị chân phải thò ra ngáng. Những học sinh chẳng may có bán cầu não trái hoạt động kém hơn bán cầu não phải sẽ thành những em thiếu ngăn nắp, suy nghĩ vớ vẩn, mơ mộng hão huyền, có thành tích học tập thua kém chúng bạn, tóm lại là loại học sinh  không được thầy cô đánh giá cao. Thực ra, các thầy cô nói riêng và nền giáo dục nói chung đã không coi trọng thế mạnh của các em này đó là khả năng tưởng tượng, sáng tạo, năng lực vận động, giao tiếp,... Những năng lực này được cuộc sống trọng vọng không kém những năng lực quen được nhà trường đánh giá cao.
Giáo dục Việt Nam phải thay đổi quan niệm về tiềm năng của trẻ em để không lãng phí năng lực của não bộ, để không chỉ bắt học sinh làm việc bằng một nửa não bộ. Các giáo viên giỏi, có lối dạy lôi cuốn học sinh đều biết rằng các kiểu đúc kết các kiến thức khô khan thành  câu có vần điệu, thành thơ, thành bài hát, thành tranh vẽ hay chuyện hài hước, thành biểu đồ trực quan, kiểu ghi chép sử dụng sơ đồ tư duy của Tony Buzan, v.v... nếu được áp dụng một cách phổ biến trong lớp học đều có thể giúp cải thiện tình hình rất nhiều vì chúng huy động bán cầu não phải cùng làm việc với bán cầu não trái trong quá trình nhận thức. Giáo dục muốn đổi mới căn bản và toàn diện  phải biết cách huy động toàn não bộ của học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục.
Liên quan đến vấn đề khai thác các tiềm năng sẵn có của trẻ em là quan niệm về trí thông minh. Lâu nay vẫn tồn tại quan niệm trong giáo viên là :những học sinh giỏi toán là học sinh thông minh, kém toán là kém thông minh; học sinh giỏi toán mà giỏi văn nữa thì là học sinh giỏi toàn diện (vì thường sẽ giỏi luôn hầu hết các môn còn lại), còn học sinh kém cả toán lẫn văn là học sinh kém thông minh, dở đều các môn; làm chuyển biến trình độ các em này gần như là nhiệm vụ bất khả thi của giáo viên. Tai hại hơn nữa, niềm tin của đa số giáo viên là chỉ những học sinh giỏi mới thành đạt trong đời, niềm tin sai lầm này còn khiến cho những em học sinh  "kém" có mặc cảm tự ti mình là kẻ hậu đậu, vô tích sự cả trong trường lẫn trong đời sau này. Như vậy, các nhà giáo dục đã vô tình dập tắt mọi hy vọng thành công dù là nhỏ nhoi ở các em học sinh này, và thay vì đi khai sáng thì lại làm cho u ám  tâm hồn trẻ em.
Tâm lý học ngày nay, theo lý thuyết của Howard Gardner[8], đã nhận diện được ít nhất 7 loại trí thông minh khác nhau. Trí thông minh được hiểu là năng lực xử lý tốt một dạng thông tin nào đó chứ không chỉ là năng lực trả lời câu hỏi trong các trắc nghiệm IQ hay trình bày tự luận đạt điểm cao, trí thông minh không nhất thiết phải gắn với tư duy lôgic và tư duy bằng lời nói, càng không thể chỉ gắn với bằng cấp và học vị cao. Có một quan niệm của  dân gian để phân biệt người thông minh với ba loại người còn lại  như sau: Người đần là người không biết đâu là đúng là sai, người ngu là người biết sai mà không biết cách khắc phục, người khôn là người lỡ sai thì biết cách khắc phục, còn người  sáng suốt là người thấy trước cái sai để tránh. Còn nhà tâm lý học H. Gardner đã căn cứ vào nhiều tiêu chí khoa học khác nhau để đưa ra lý thuyết về 7 loại trí thông minh[9] dưới đây:
·         Trí thông minh lôgic;
·         Trí thông minh ngôn ngữ;
·         Trí thông minh âm nhạc;
·         Trí thông minh vận động cơ thể;
·         Trí thông minh không gian;
·         Trí thông minh tương tác cá nhân;
·         Trí thông minh nội tâm.
Hai loại trí thông minh đầu tiên quá quen thuộc với hầu hết mọi người trong xã hội, chúng cùng nhau thống trị quan niệm của  xã hội về trí thông minh. Cứ nhắc đến trí thông minh lôgic là người ta nghĩ ngay đến những trường hợp điển hình như Euclide, Einstein, Ngô Bảo Châu... còn nhắc đến trí thông minh ngôn ngữ là nghĩ đến Victor Hugo, Lev Tolstoi, Nguyễn Du, v.v...
Trí thông minh âm nhạc là năng lực rất quan trọng với ai học hay làm việc trong lĩnh vực trong lĩnh vực âm nhạc, âm thanh. Tiêu biểu là những Mozart, Beethoven, Trần Văn Khê, Đặng Thái Sơn...
Trí thông minh vận động cơ thể thì những ai học hoặc làm việc trong môi trường đòi hỏi năng khiếu thể dục thể thao, nghệ thuật, mỹ nghệ... đều rất cần thiết. Cầu thủ bóng đá Lionel Messi là một điển hình về người phát huy được loại hình thông minh này.
Trí thông minh không gian là loại năng lực "liên quan đến suy nghĩ bằng hình ảnh, hình tượng và khả năng cảm nhận, chuyển đổi và tái tạo lại những góc độ khác nhau của thế giới không gian trực quan"[10]. Tiêu biểu cho những người sử dụng tốt loại hình thông minh này là Leonard de Vinci, Picasso, Thomas Edison, những người thiết kế các công trình Kim tự tháp, Angkor Vat, v.v...
Trí thông minh tương tác thể hiện qua năng lực cảm nhận ý định, nhu cầu của người khác, nhìn được thế giới qua cảm nhận của người khác; đây là loại  năng lực nổi trội của người làm lãnh đạo biết "đau nỗi đau của mọi nhà", những doanh nhân giỏi cảm nhận được nhu cầu khách hàng để tung ra đúng lúc một sản phẩm ăn khách, các cố vấn tâm lý...
Trí thông minh nội tâm là năng lực giúp con người qua tự xem xét nội tâm mà hiểu được chính bản thân mình và sử dụng hiểu biết đó để định hướng cho việc làm và cuộc đời của mình. Nhà hiền triết Socrates nổi tiếng với lời kêu gọi "Hãy tự biết lấy chính mình" là một ví dụ.
Thực tế cuộc sống chứng tỏ rằng quan niệm tin rằng cứ là học sinh giỏi trong trường thì thành đạt ở đời còn học sinh kém thì thành người vô tích sự là một quan niệm hết sức sai lầm. Lionel Messi - cầu thủ bóng đá giỏi nhất thế giới hiện nay và được đào tạo ở lò đào tạo La Masia, vốn có truyền thống rất chú trọng cho cầu thủ  được học văn hóa phổ thông - là cầu thủ duy nhất trong đội hình chính của đội bóng Barcelona chưa có trình độ tú tài. Chỉ vì anh ta đã dành hết mọi nỗ lực cho bóng đá. Messi đâu có hề là con người vô tích sự trong đội bóng số 1 thế giới mà còn ngược lại là khác. Có thể trí thông minh lôgic và ngôn ngữ của Messi thì thua sút đồng đội nhưng trí thông minh về vận động cơ thể của anh ta thì tuyệt vời.
Lý thuyết về trí thông minh đa dạng của H. Gardner còn khẳng định ai cũng có các loại hình thông minh này ở mức độ nào đó và ai cũng có thể được khơi gợi, dạy dỗ để phát triển một vài loại hình đến mức độ hơn người. Đây chính  là luận cứ cho phép bác bỏ đánh giá một học sinh nào đó là "vô tích sự" đồng thời là mảnh đất màu mỡ cho giáo dục thực hiện vai trò khai sáng của mình. Tương tự như chuyển từ chơi một nhạc cụ chỉ có 2 nốt đồ rê sang chơi nhạc cụ có 7 nốt cơ bản, bằng cách chuyển từ quan niệm rằng con người chỉ 2 loại trí thông minh sang quan niệm con người có ít nhất 7 loại trí thông minh, giáo dục chắc chắn sẽ tạo ra những cung bậc âm thanh mới lạ hơn, tuyệt vời hơn trong sứ mệnh khai sáng con người.
Giáo dục phải phục vụ nhiệm vụ chính trị  căn bản và vững bền của muôn đời là phấn đấu vì hạnh phúc và phẩm giá của con người. Do vậy giáo dục với tư cách là hoạt động chuẩn bị hành trang cho con người bước vào cuộc phiêu lưu đến tương lai của chính mình  phải  cung cấp cả "bản đồ" và "la bàn" cho người học để họ có thể chủ động dấn thân vào đời, mưu tìm hạnh phúc và phẩm giá cho bản thân cùng đồng loại. "Bản đồ" là hệ thống kiến thức  cơ bản, hiện đại, thiết thực, khách quan; "la bàn" là các tiềm năng bẩm sinh được khai sáng cùng thối quen tư duy độc lập, năng lực tự học, thói quen ham học và học suốt đời được gieo mầm từ trong trường học./.


[1] Sách Thế giới như tôi thấy- NXB Tri thức,2005, tr.48.
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, nhà xuất bản chính trị quốc gia, H. 2000, tr. 81.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập- tập 6, tr.50, NXB CTQG,  H.2000.
[4] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8. tr.215, NXB CTQG, H.2000.
[5] Hồ Chí Minh toàn tập- tập5, tr.273, NXB CTQG,  H.2000.
[6] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, tr.50, NXB CTQG, H.2000.
[7] Sách Con cái chúng ta đều giỏi- Bí quyết làm trỗi dậy tài năng trong con bạn- Adam Khoo & Gary Lee. NXB Phụ nữ, tr.59.
[8]  Sách Multiple Intelligences- New Horizons, Howard Gardner, NXB Basic Books, 2006, tr.6 đến tr. 20.
[9] Sách 7 loại hình thông minh, Thomas Amstrong, NXB Lao động, 2007.
[10] Sách đã dẫn. tr.22. 
Nguồn:http://www.ier.edu.vn/content/view/507/174/