Người
Việt Nam Bộ, ngoài sự thống nhất với các vùng miền trong cả nước, còn
có những nét riêng, một tính cách văn hóa bởi sự ứng xử và thích nghi
với vùng đất, không gian sinh tồn mà họ đã lựa chọn, kiếm tìm từ hơn ba
thế kỷ qua. L.Feuerbach, trong tác phẩm Bản chất đạo Kitô (1841) đã viết “ý
thức về thượng đế là sự tự ý thức về con người, sự nhận thức thượng đế
là sự tự nhận thức về con người. Từ thượng đế, ta có thể suy ra con
người...”. Trên tinh thần đó, tôi nghĩ rằng, từ tôn giáo của người Việt Nam Bộ có thể hiểu hơn về người Việt Nam Bộ.
1. Những ông đạo
Đây
là hiện tượng đặc thù trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người
Việt ở Nam Bộ. Bởi lẽ chỉ ở Nam Bộ mới xuất hiện những ông đạo, như đạo
dừa, đạo gò mối, đạo ngồi, đạo nằm... Theo Phạm Bích Hợp, thì “khái
niệm ông Đạo, là để chỉ những người có khả năng đặc biệt, như khả năng
chữa bệnh, khả năng tập hợp quần chúng, khả năng huyền linh, dẫn dắt mọi
người theo một chủ thuyết nào đó. Tóm lại, là người có khả năng làm
những điều mà người bình thường không làm được, và mang màu sắc thần bí”(1).
Đạo là một từ Hán Việt nhằm chỉ một tôn giáo trong nhiều nghĩa rộng
hơn, như đạo Phật, đạo Chúa... Ông đạo không nhằm chỉ người theo đạo,
hoặc đứng đầu một tôn giáo, mà là người có liên quan đến thế giới tâm
linh từ một góc độ nào đó. Một số người sáng lập Bửu Sơn Kỳ Hương, một
tôn giáo xuất hiện ở Nam Bộ cuối TK XIX đã được người dân gọi là ông đạo khùng
tức Đoàn Minh Huyên, Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo được gọi
là ông đạo điên... Trong số những ông đạo về sau này được nhiều người
biết đến là ông đạo dừa, là một kỹ sư được đào tạo ở Pháp. Ông đạo, là
những người đàn ông (chưa thấy có bà đạo) Nam Bộ có tuổi, có một khả
năng đặc biệt, hoặc tự cho mình là có khả năng đặc biệt như chữa bệnh
bằng bùa phép hoặc có khả năng tiếp cận thần linh, khả năng khai sáng.
Hành vi có phần kỳ quái, như nằm suốt ngày, thiền định trên gò mối,
chuyên ăn một loại hoa quả (như ông đạo chuối...), chuyên nói một thứ
tiếng riêng... (theo tôi, phần nhiều các ông đạo này rơi vào trạng thái
tâm thần phân liệt, hoặc hư ảo tự huyễn).
Phần
lớn các ông đạo này không chủ trương hoặc đại diện cho một giáo phái
tôn giáo nào. Ông không có đồ đệ, tín đồ và hệ thống giáo lý, hoặc
thuyết giáo về sự giải thoát cho con người. Tuy nhiên, quan trọng hơn
hết là sự sùng bái, sùng tín của người dân vào các ông đạo. Danh xưng
ông đạo hầu hết là do người dân sùng tín gọi các ông, họ tin vào khả
năng siêu phàm, hoặc huyền linh mà các ông có thể đem lại. Người dân,
bình thường kính trọng (và cả sự sợ hãi) trước các hành vi, lời nói của
các ông đạo. Người ta xem việc làm, hoặc tu hành của các ông đạo này là
một cách để tiếp xúc với thần linh, với thế giới siêu nhiên, nhằm để đạt
được những mục đích (hoặc sứ mệnh) cao cả nào đó. Người dân Nam Bộ cần
đến ông trong một số trường hợp sau.
Trước
hết là việc chữa bệnh, đặc biệt trong khí hậu nóng bức và ẩm thấp của
xứ Nam Bộ, thường là các bệnh thời khí và các bệnh về tâm thần. Những
ông đạo này sẽ giúp việc chữa bệnh này bằng nhiều phương thức. Đó là
những bài thuốc gia truyền, những hiểu biết về sử dụng cây cỏ để chữa
bệnh (đặc biệt là trị rắn cắn và ung nhọt). Việc chữa bệnh còn được thực
hiện bởi việc cúng bái, các nghi thức bùa chú mang tính saman như lên
đồng, bói toán, trừ ếm tà ma... Thông thường, việc chữa bệnh có sự kết
hợp giữa hai phương thức trên là vừa cho thuốc uống vừa thực hiện các
nghi thức bùa phép (2).
Việc
thứ hai, mà người nông dân Nam Bộ nhờ vả đến các ông đạo là thuộc lĩnh
vực tâm linh. Đó là việc xem ngày lành, tháng tốt cho việc làm ăn, dựng
vợ gả chồng, cho tang ma... Một nhu cầu quan trọng khác là việc trù ếm,
ngăn chặn các loại ma quái làm hại con người, gia đình, làng xóm... hoặc
giải thoát con người khỏi tai ương vận hạn. Với những hành vi kỳ quái
và uy lực của các ông đạo, người dân tin rằng ông có khả năng xua đuổi
tà ma bằng các nghi thức cúng vái, cầu khẩn các đấng siêu nhiên oai
linh. Ông sẽ chỉ dẫn các phương pháp thực hành bí quyết cùng với việc
cấp phát các loại bùa phép để ngăn chặn hoặc trục xuất ma quỷ. Người ta
tin rằng có những ông đạo hoặc thầy bùa người Miên (tức người Khơme) có
những loại bùa phép ngăn chặn đao, kiếm và cả súng đạn chạm vào người!
Lý
giải, tại sao chỉ ở Nam Bộ mới có ông đạo, và vai trò của ông đạo trong
cuộc sống của người Việt Nam Bộ sẽ góp phần hiểu về người Việt Nam Bộ.
Trước hết là trên bình diện tâm linh. Người Việt đến Nam Bộ thuở ban
đầu, vùng đất này hãy còn hoang vu, lạ lẫm:
Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng cũng kinh
Công
cuộc khai phá vùng đất mới này đòi hỏi nhiều chỗ dựa. Dựa vào bản thân
mình, dựa vào kinh nghiệm sản xuất truyền thống của người nông dân phía
Bắc, và hơn nữa, tìm kiếm một chỗ dựa tâm linh. Người Việt không chỉ
khai mở vùng đất thực, mà còn tìm cách chinh phục thế giới tâm linh của
vùng đất này. Những ông đạo đã góp phần đáp ứng cho cả hai nhu cầu thực
và ảo trong kiếm tìm của người Việt trên vùng đất mới. Một sự tin tưởng
và cả sự dễ tin đã được xác lập với các ông đạo, một niềm tin dựa vào sự
sùng bái, và đơn giản. Niềm tin ở các vị thành hoàng nơi đình làng, vào
phật nơi chùa làng hoặc các tôn giáo khác, dường như chưa đủ, chưa đáp
ứng nhu cầu tâm linh, người nông dân Nam Bộ đã bổ sung thêm vào đó những
ông đạo. Những ông đạo là những người gần gũi, có thật, cùng sống với
họ, và dễ thông cảm với họ, và sẵn sàng giúp đỡ những người nông dân bất
cứ lúc nào, không một điều kiện nào hết. Đơn giản, ông đạo vừa thiêng
cũng vừa tục.
2. Tôn giáo “xách tay”
Ở
phần lớn các gia đình người Việt Nam Bộ, có bàn thờ thiên. Đó là một
trang thờ nhỏ trước sân nhà, lối gần cổng ra vào, người ta đóng một
miếng ván mỗi bề khoảng hai gang tay trên một cây trụ gỗ cao ngang vai
(hoặc đầu) người lớn. Trên đó, bày một lọ hoa, bát nhang và một chén
nước lạnh. Thường mỗi sáng, hoặc ngày mùng một, ngày rằm âm lịch chủ nhà
(có thể là đàn bà) thắp nhang vái tứ phương và cắm vào bát nhang. Bàn
thờ thiên là bàn thờ trời, vị thần cao nhất, uy quyền nhất trong đời
sống của người Việt, người Hoa ở Nam Bộ.
Ở
đình làng, việc thờ cúng thành hoàng cũng khá đơn giản. Rất ít vị thành
hoàng có tên tuổi và lý lịch, phần lớn được gọi là “bổn cảnh thành
hoàng” hoặc “thành hoàng bổn cảnh”. Một chữ thần bằng Hán tự trên bức
vách sau trang thờ, đánh dấu nơi thờ thành hoàng. Không ít đình làng
không có sắc phong thành hoàng, hoặc có khi đi trộm sắc phong thành
hoàng của đình nơi khác đem về thờ cúng.
Bàn
thờ của Phật giáo Hòa Hảo khá đơn giản, một tấm trần điều (tấm vải màu
nâu đậm), một bát nhang, bát nước lã, hương hoa (có thể thêm trái cây).
Tín đồ Hòa Hảo tu tại gia:
Ta là cư sĩ canh điền
Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành
(Sấm giảng thi văn)
Và
Tu không cần lạy cần quỳ
Ngồi đâu cũng sửa vây thì mới mau
(Sấm giảng thi văn)
Những
bản kinh của Phật giáo Hòa Hảo gọi là “sấm giảng”. Sấm giảng được viết ở
thể lục bát, là một dạng văn vần dễ nhớ đối với người bình dân, có phần
nôm na, nhưng dễ hiểu, ít điển tích. Lý thuyết căn bản của đạo quy về
tứ ân (ơn tổ tiên, ơn đất nước, ơn phật, ơn đồng bào). Tín đồ Phật giáo
không bị ràng buộc nhiều về các nghi thức, sự kiêng cữ, chủ yếu duy trì
một cuộc sống bình dị, hiếu hòa.
Khái
niệm “tôn giáo xách tay”, vốn là của GS Đỗ Thái Đồng, một nhà xã hội
học, sử dụng trong một cuộc hội thảo trước đây tại Viện Khoa học Xã hội
tại TP.HCM, và ông dịch ra tiếng Pháp là “religion portativ”, chỉ sự đơn
giản và thuận tiện trong việc tín ngưỡng của người dân Nam Bộ, vốn là
những lưu dân, trong công cuộc chinh phục vùng đất phía Nam. Trong cái
thuở ban đầu ấy, họ chưa có được cơ ngơi hoành tráng, nhà cao cửa rộng
ổn định, họ vẫn còn phiêu bạt đó đây, chọn nơi có thể sống được. Và,
trong điều kiện đó, mọi thứ cần gọn nhẹ, đơn giản, kể cả tín ngưỡng tôn
giáo. Chỉ cần treo một tấm vải màu một cành hoa đồng nội, một chén nước
thiên nhiên là có thể làm nơi thờ tự, nơi thực hiện các lễ nghi giao hòa
với các thực thể siêu nhiên. Xong việc họ có thể cuộn lại cho vào túi
cói, túi bàng xách đi nơi khác. Tín ngưỡng tôn giáo không phải là sự
ràng buộc những người nông dân Nam Bộ, mà hơn thế là chỗ dựa tâm linh,
tạo niềm tin cho họ có thêm sức mạnh để đối diện với thiên nhiên vùng
đất còn nhiều hoang hóa. Sự giản dị trong tín ngưỡng, tôn giáo đã tác
động vào nếp sống, tính cách của người Việt ở Nam Bộ, tạo nét riêng của
cộng đồng cư dân này về mặt văn hóa. Con người trần tục và con người tôn
giáo của người Việt Nam Bộ đan xen nhau, và tác động lẫn nhau để làm
nên một tính cách khác thường vừa giản dị, chân tình và không ràng buộc,
một cái được gọi là “xả láng”...
Ra đường gặp vịt cũng lùa
Gặp gái cũng ghẹo, gặp chùa cũng tu
(Ca dao)
3. Hòa đồng tôn giáo
Một
trong những nét khác biệt giữa đình làng ở Nam Bộ so với miền Bắc, là
sự thờ cúng các vị thần linh. Số lượng các vị thần linh được người dân
Nam Bộ sùng bái trong đình nhiều hơn hẳn so với phía Bắc. Ngoài thành
hoàng, tiền hiền, hậu hiền, thần nông... ra ở các đình phía Nam còn thờ
thủy thần, sơn thần, bà chúa xứ, ngũ hành nương nương,... cả Quan Thánh
đế quân một vị thánh từ Trung Hoa.
Đạo
Hòa Hảo, ở một mức độ nào đó, là sự liên kết giữa Phật giáo với tín
ngưỡng của người dân Việt Nam Bộ. Phật được thờ cúng với tổ tiên trên
cùng bàn thờ, gắn với thờ cúng trời đất, núi sông, đất nước...
Một
trường hợp điển hình của sự hòa đồng, hoặc hỗn dung tôn giáo, là đạo
Cao Đài, ra đời ở Nam Bộ vào đầu TK XX, thu hút hàng triệu tín đồ. Người
ta có thể thấy trên điện thờ của đạo này nhiều vị đứng đầu các tôn giáo
lớn trên thế giới như Chúa Giêsu, Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, Lão Tử,...
Sự thờ cúng trong gia đình của các tín đồ Cao Đài cũng phong phú không
kém, có Phật Thích Ca, Chúa Giêsu, Cao Đài Tiên Ông, Thiên nhãn, Phật Bà
Quan Âm, Thánh Mẫu, Ông Địa, Thần Tài,...(3). Bức họa nơi cửa chính của
Thánh thất Cao Đài ở Tây Ninh khá độc đáo. Nhà nho của Việt Nam, cụ
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Victo Hugo (1802-1885) một nhà văn nổi
tiếng của Pháp và Tôn Dật Tiên tức Tôn Trung Sơn, nhà cách mạng lỗi lạc
của Trung Hoa vào cuối TK XIX đầu XX cũng hiện diện trong bức tranh.
Victo Hugo và Tôn Trung Sơn bê nghiên mực và đỡ tờ giấy để Nguyễn Bỉnh
Khiêm viết lên hai chữ chân lý bằng ba văn tự Việt, Pháp, Hoa. Đó là một bức họa nội dung xuyên không gian và xuyên thời gian!
Ở
nhiều địa phương Nam Bộ, cũng xuất hiện một số cơ sở tín ngưỡng, tôn
giáo mang yếu tố hòa đồng tôn giáo, với các biểu tượng trang trí xen kẽ
nhau vừa chữ vạn của Phật giáo, vừa thánh giá của Thiên Chúa
giáo. Trong gia đình vừa thờ Phật vừa thờ cúng tổ tiên, và các thần linh
khác như thổ địa, táo quân, Quan Công, bà Thiên Hậu... Các gia đình
theo đạo Thiên Chúa, phần nhiều, bên cạnh bàn thờ chúa có bàn thờ tưởng
niệm ông bà, tổ tiên...
Xu
hướng hỗn dung, hoặc hòa đồng các tôn giáo, là một thực tế và nổi trội
trong đời sống tâm linh của người Việt ở Nam Bộ. Giải thích hiện tượng
này có nhiều ý kiến, nhiều góc độ khác nhau. Một trong những sự giải
thích đó thường chú trọng đến vùng đất Nam Bộ là nơi gặp gỡ của nhiều
văn hóa, và tôn giáo là một trong những biểu hiện của sự giao lưu tiếp
biến các văn hóa hội tụ nơi vùng đất này. Sự chấp nhận, hoặc dung nạp
một lúc nhiều hình thái tín ngưỡng, tôn giáo trong cá nhân hay cộng đồng
người Việt Nam Bộ đã cho thấy một nét riêng của văn hóa Việt Nam Bộ,
một tính cách của người Việt Nam Bộ. Đó là sự cởi mở, thân thiện, là sự
không cố chấp để tìm kiếm một chỗ dựa tâm linh rộng rãi và hiệu quả
nhất. Cái chuyện có kiêng có lành, có cầu, có được, vái bốn phương tám
hướng... vốn đã được biết đến ở phía Bắc, nhưng đến vùng đất phía Nam
này người Việt mới thực hành một cách triệt để và sáng tạo.
Trong
tâm thức và tâm linh của người Việt Nam Bộ, các vị thần thánh và ma quỷ
đều thiêng liêng và đa phần là tốt bụng. Trong công cuộc khai mở đất
đai, người Việt cần đến sức mạnh tổng hợp, cả sức mạnh siêu nhiên, tức
là sự giúp sức, hợp tác của các thánh thần và ma quỷ, cần phải biết kính
trọng tất cả các vị, các ngài. Hẳn có lẽ, từ góc độ ứng xử với thế giới
siêu nhiên này đã góp phần tạo nên sự dung hòa, phóng khoáng và tính
thực tiễn trong cuộc sống, quan hệ của người Việt ở Nam Bộ.
4. Nho giáo ở Nam Bộ
Nho
giáo vừa là một triết thuyết, vừa là một tôn giáo có nguồn gốc từ Trung
Hoa cổ đại. Ở hai mặt này, Nho giáo đã có ảnh hưởng đến đời sống của
người Việt Nam Bộ, đặc biệt là văn hóa. Người Việt đã mang theo Nho giáo
trong hành trang của mình từ phía Bắc vào đất Nam Bộ. Một phần khác
người Việt cũng tiếp nhận Nho giáo trong văn hóa Hán, từ các cư dân
Trung Hoa cùng thời đã đến Nam Bộ tìm đất mưu sinh. Văn miếu đầu tiên ở
Nam Bộ được xây cất tại Cù Lao Phố, Biên Hòa vào năm 1715. Cù Lao Phố
đương thời là một trung tâm thương mại sầm uất, có đông người Hoa sinh
sống và lập nghiệp. Những nhà nho tầm cỡ của đất Gia Định xưa như Phan
Thanh Giản, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh... nhiều người cũng có gốc gác
người Hoa. Tuy nhiên, ở đây tác động và ảnh hưởng của Nho giáo đối với
người Việt Nam Bộ không hoàn toàn giống với phía Bắc. Ông Cao Tự Thanh,
một nhà nghiên cứu về Nho giáo, đã viết về một trong những đặc điểm của
Nho giáo ở Gia Định (tức vùng đất Nam Bộ ngày nay) là “mang tính phức
tạp trong sự giao thoa đan xen và chuyển hóa qua lại giữa ba ý nghĩa văn
hóa, xã hội và lịch sử, một đặc điểm đóng vai trò chủ yếu trong việc
xác lập diện mạo của Nho giáo ở Gia Định...”(4). Về Nho giáo ở Nam Bộ,
cũng có nhiều ý kiến trao đổi. Ông Đỗ Thái Đồng cho rằng: “Nhà Nho (ở
Nam Bộ) ngày càng xa rời với Nho giáo cổ truyền. Và quả thật ở đất Nam
Bộ người ta mới tìm thấy sự đoạn tuyệt hoàn toàn với nguyên lý cơ bản
của học thuyết chính trị - đạo đức của Nho giáo. Xin lấy một dẫn liệu.
Đây là một cặp hiển mà một nhà Nho nào đó đã đề ở trước của đền Thái Sơn
(vùng núi Cấm, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang):
Quân phi quân, thần phi thần, quân thần giai cộng lạc
Phụ bất phụ, tử bất tử, phụ tử thị đồng hoàn
(vua
không phải là vua, tôi không phải là tôi, cha không phải là cha, con
không phải là con thì vua tôi cha con đều vui vẻ)(5). Ở đây, trong sự
Hán hóa và giải Hán đã tạo nên một tính cách có phần cực đoan của người
Việt Nam Bộ trước truyền thống Nho giáo của Việt Nam.
Trong tác phẩm Lục Vân Tiên,
Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nho đất Nam Bộ (1822 - 1888), đã thể hiện
được tính cách của người Việt Nam Bộ qua các nhân vật của ông. Có hai
nhân vật đáng chú ý bởi liên quan đến ý thức hệ Nho giáo. Đó là Lục Vân
Tiên và Hớn Minh. Lục Vân Tiên có thể được xem là một con người chuẩn
mực của Nho giáo, bị ràng buộc bởi khuôn khổ Nho giáo trong tư duy và
hành động. Kết thúc cuộc đời long đong của Vân Tiên là cưới Nguyệt Nga
để “sinh con sau sau nối gót lâu đời đời”, tức là tiếp tục cho ra đời
những thế hệ Nho giáo mực thước, quan phương trên đất Nam Bộ. Còn Hớn
Minh, một con người khá độc đáo, đã vượt khỏi những rào cản Nho giáo,
một anh hùng hảo hớn, dám bẻ giò con quan huyện vì chuyện nghĩa cứu dân
lành, sẵn sàng đầu thú để khỏi liên lụy đến người khác. Cuộc đời Hớn
Minh cũng khá long đong vất vả, bị đi đầy, rồi vượt ngục. Tuy nhiên, anh
ta không tham dự các băng đảng như kiểu anh hùng hảo hán trong tiểu
thuyết Trung Hoa, mà xin lãnh ấn tiên phong đi dẹp giặc, cứu dân cứu
nước. Nếu Vân Tiên là một mong muốn trọn vẹn của Nho giáo Nam Bộ theo
hướng truyền thống thì Hớn Minh là một thực thể của con người Nam Bộ,
một tính cách của người Việt Nam Bộ. Người Việt Nam Bộ, trong lịch sử di
dân của mình, ngoài nông dân, thợ thủ công nghèo khổ, còn có những nhà
nho bất đắc chí, những quan lại, binh lính bị lưu đày, và cả những kẻ du
đảng, tội phạm của triều đình tìm vào tá túc, ẩn náu nơi vùng đất mới
hoang hóa phía Nam. Những con người đó đã khép lại quá khứ, giấu tên,
đổi họ để cùng chung sống với nhau, hợp lực khai mở vùng đất mới, dựng
xây cho một tương lai ổn định, yên bình. Họ là những con người trọng
nghĩa khinh tài, như Trịnh Hoài Đức đã nhận xét trong sách Gia Định thành thông chí.
5. Góp vào sự nhận diện người Việt Nam Bộ
Trong
những dẫn liệu trên đây, tôi chưa đề cập đến khía cạnh tam giáo đồng
nguyên ở Nam Bộ cũng là một nét đặc sắc. Tam giáo đồng nguyên ở phía Bắc
đã có, nhưng khi những lưu dân người Việt vào đất Nam Bộ, đã tiếp tục
duy trì, và hòa trong hướng hỗn dung tôn giáo của vùng đất này. Chuyện
tam giáo đồng nguyên sẽ là một chuyên đề khác về tín ngưỡng tôn giáo của
người Việt Nam Bộ. Thực tế, cho thấy, đời sống tín ngưỡng tôn giáo của
người Việt Nam Bộ rất phong phú và đa dạng, nhưng tựu trung vẫn là nhằm
đáp ứng cho nhu cầu tâm linh của họ trên vùng đất Nam Bộ. Đó cũng là sự
kiếm tìm một đời sống tín ngưỡng tôn giáo phù hợp, và thích ứng với cuộc
sống, với môi trường sống vùng đất mới ở phía Nam của người Việt, là
những sáng tạo tâm linh trên cơ tầng của tín ngưỡng, tôn giáo truyền
thống, trong bối cảnh giao lưu văn hóa của các tộc người cộng cư.
Từ
góc độ tín ngưỡng tôn giáo, với ít ỏi những dẫn liệu, cho thấy thêm về
văn hóa, nếp sống, tâm tính của người Việt Nam Bộ có những nét riêng so
với nét chung của người Việt trong cả nước. Trước hết đó là tính cởi mở,
phóng khoáng, là sự dung hòa và hội nhập. Đối với người Việt Nam Bộ,
tín ngưỡng tôn giáo là một phương thức cứu thế, tôn giáo có sức mạnh
giúp con người vươn về phía trước, vượt qua cản ngại bởi niềm tin của
chính mình. Người Việt Nam Bộ cũng là những người mang tính thực tế,
trọng tự do và bình đẳng minh bạch. Người ta có thể nhận thấy, hệ thống
lý thuyết của các tín ngưỡng tôn giáo ở Nam Bộ khá đơn giản phù hợp với
nhận thức của người bình dân, không có sự giảng giải cầu kỳ. Đó là sấm
giảng của đạo Hòa Hảo, là cơ bút của đạo Cao Đài, là những lời đồn,
những huyền thoại xác tín của các ông đạo... Người Nam Bộ cũng dễ dàng
rời bỏ một tín ngưỡng, tôn giáo nào đó mà đối với họ quá diệu vợi, và
cũng sẵn sàng chấp nhận một lúc nhiều tôn giáo hoặc hỗn dung các tôn
giáo. Người Việt Nam Bộ tin ở thực nghiệm nhiều hơn là lý thuyết, đôi
khi là sự cả tin và dễ tin.
Là
những người đi tiên phong trong công cuộc khai mở vùng đất Nam Bộ,
người Việt ở đây là những người dũng cảm dám chấp nhận, đối diện với
những khó khăn và thách đố. Sức mạnh của cộng đồng là hết sức quan
trọng. Tổ chức làng xóm vốn từ phía Bắc đã được người Việt tái cấu trúc,
như một tập hợp của cộng đồng, có chăng đây là cộng đồng của những cùng
đi khai mở, là những người trọng nghĩa. Tín ngưỡng tổ tiên, dòng họ, và
thành hoàng cũng là sự tái cấu trúc về tín ngưỡng tôn giáo từ phía Bắc;
là chỗ dựa cho tâm linh của mỗi cá nhân và cộng đồng cư dân người Việt
Nam Bộ trong thuở ban đầu ấy. Bửu Sơn Kỳ Hương, Hòa Hảo, Cao Đài... là
những tôn giáo có tính sáng tạo của người Việt Nam Bộ để đáp ứng cho nhu
cầu tâm linh ngày càng mở mang, cùng với sự mở rộng đất đai cần phải
khai phá của họ. Thực tế công cuộc khai mở đất đai, hoàn chỉnh ranh giới
biên địa vùng đất Nam Bộ là kết quả của sự sáng tạo về mặt thực thể
cũng như tinh thần của người Việt Nam Bộ.
Là
những người có tính phóng khoáng, cởi mở, người Việt Nam Bộ không có sự
câu nệ và cố chấp, không thích sự ràng buộc, kể cả những ràng buộc
trong tín ngưỡng tôn giáo:
Theo nhau cho trọn đạo trời
Dẫu mà không chiếu trải tơi mà nằm
Lý
tưởng của người Việt Nam Bộ không phải là ba gian nhà gỗ, một cái sân
gạch, ao rau muống, chĩnh tương. Họ có thể gửi lại mồ mả tổ tiên, quê
hương bản quán, để đi tìm nơi lập nghiệp, nơi mà ở đó họ có thể sống
được một cách thoải mái, tự do, sống với thiên nhiên khoáng đạt của đất
đai Nam Bộ. Điều đó cũng tạo cho họ đôi chút phong vị lãng mạn, một chút
khí phách giang hồ nghĩa hiệp. Sự giằng níu của quê hương, tổ tiên và
chút lãng mạn phong tình có lẽ là một trong những nguyên nhân ra đời của
loại hình vọng cổ trong ca nhạc của đất Nam Bộ:
Từ (là) từ phu tướng
Báu kiếm, sắc phong lên đường...
(Dạ cổ hoài lang)
Tuy
nhiên, ở một góc độ khác, góc độ đối lập lại, người Việt nam Bộ, cũng
còn là người khá cực đoan, quyết đoán mà họ hay nói là “cứ làm đại đi!”
hoặc “tới luôn đi!”. Dường như đây là sự đối lập lại tính cách hòa hiếu
của họ mà chúng tôi đã coi như một tính cách. Nhưng đó cũng là một sự
hợp lý. Tồn tại trong một không gian tự nhiên và xã hội của vùng đất Nam
Bộ, để tồn tại con người phải có quyết đoán, có sự phiêu lưu và mạo
hiểm ít nhiều.
Trời sinh cây cứng lá dai
Gió lay mặc gió, chìu ai không chìu
(Cao dao)
Từ
góc độ tín ngưỡng tôn giáo, có thể hiểu thêm nhiều chuyện về người Việt
Nam Bộ, là những minh họa và dẫn chứng cho con người Nam Bộ, tính cách
Nam Bộ... Thực ra, trong mỗi con người, cộng đồng người Việt Nam Bộ,
cũng còn hàm chứa những tính cách, nếp sống trái ngược nhau, lúc này,
lúc khác, vừa cởi mở vừa cố chấp, vừa hiền hòa vừa quyết liệt... Nói về
con người, về người Việt Nam Bộ rõ ràng là điều không đơn giản và dễ
dàng. Người Việt Nam Bộ 300 năm trước và hôm nay có nhiều cái khác nhau,
biến đổi không ngừng, có những cái hôm qua là hay, nhưng hôm nay chưa
hẳn đã phù hợp. Vì vậy văn hóa người Việt và người Việt Nam Bộ nói
chung, cần nhìn trong cái nhìn động, cái nhìn mà các nhà khoa học gọi là
biện chứng.
TP.HCM, tháng 7-2008
_______________
1, 3. Phạm Bích Hợp, Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2007, tr.84, 85, 318.
2.
Ông đạo khùng (Đoàn Minh Huyên) đã chữa lành bệnh cho những người bị
dịch ở vùng Hậu Giang vào cuối TK XIX bằng những mảnh giấy vàng làm phép
trong chén nước lạnh!
4. Cao Tự Thanh, Nho giáo ở Gia Định, Nxb TP.HCM, 1996, tr.241.
5. Đỗ Thái Đồng, Gia đình truyền thống và những biến thái ở Nam Bộ Việt Nam, trong sách Những vấn đề xã hội học ở miền Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992, tr.123-124.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 311, tháng 5-2010
Tác giả: Phan An